Thứ Sáu, 30 tháng 9, 2011

Tôi đi làm Gia sư - Đỗ Ngọc Thạch

Ảnh riêng

TÔI ĐI LÀM GIA SƯ- Truyện ngắn Đỗ Ngọc Thạch

Gia sư là một trong những nghề có từ rất lâu đời trên phạm vi toàn thế giới. Các vua chúa và tầng lớp quý tộc thượng lưu thời phong kiến rất coi trọng việc học của con cái và rất kén gia sư, dạy học cho các Hoàng tử, Công chúa phải là những bậc Đại Nho… Sang thời tư bản, nghề gia sư lại càng được coi trọng cho đến lúc nào người ta không có nhu cầu học nữa thì thôi !...
Sở dĩ phải tìm hiểu sơ qua “xuất sứ” của nghề gia sư để đi đến một nhận xét “khái quát” rằng : “Nghề gia sư nảy sinh từ nhu cầu của phú gia (nhà giàu), và tầng lớp quý tộc thượng lưu, sau đó là đẳng cấp tư bản chính là người khai sinh ra nghề gia sư, bởi đó là giới phú gia, đương nhiên. Từ nhận xét đó, ta lại đi đến nhận xét tiếp : Việt Nam là một nước nghèo (đã từng nghèo “vô địch thế giới”), vậy nghề gia sư khó mà phát triển. Chỉ từ khi có công cuộc đổi mới, có sự khuyến khích làm giàu và dân Việt Nam, sau một thập kỷ đổi mới, đã giàu lên trông thấy, thì nghề gia sư đã có thời cơ phát triển, và phát triển bất ngờ. Trên các báo chí hiện nay, quảng cáo tìm gia sư và quảng cáo gia sư tìm việc nhiều vô kể. Các “Câu lạc bộ gia sư” được thành lập khắp nơi…
Truyện ký này không có tham vọng nhìn nghề gia sư hiện nay ở nước ta bằng cái nhìn “vĩ mô” mà chỉ xin nhìn “vi mô”…

“CHÁO PHỔI” ĐẮT GIÁ

Thời “bao cấp” (đã thành thông lệ, bây giờ khi nói chuyện gì, cứ phải “đá” qua thời “bao cấp” một tí), gia sư không những không phát triển mà giống như nghề nấu rượu “quốc lủi”, bởi đó là sự hành nghề mang tính cá thể, tư nhân…Với lại, phong trào “Dạy tốt, học tốt” ở hệ thống giáo dục Nhà nước rất mạnh, rất nghiêm, không cho phép cả người đi học và người dạy học được có những hành động “xa lạ” với nền giáo dục chính thống . Sang thời “mở cửa”, chính là những nhà giáo chuyên nghiệp ở hệ thống giáo dục Nhà nước là những người tiên phong “mở cửa” cho nghề gia sư phát triển. Tức thầy cô giáo kiêm luôn gia sư.
Ở một khía cạnh nào đó, có thể nói, bước sang thời mở cửa, “lao động tư nhân” có giá hơn “lao động tập thể”, cũng giống như hát đơn ca được chuộng hơn là hát đồng ca !
TNC là một thầy giáo dạy toán giỏi có thâm niên, vậy mà cuộc sống gia đình vẫn không vượt lên được cái cảnh nhà tập thể chật chội, bữa ăn chỉ là “trường ca rau muống”, vợ con nheo nhóc…TNC phải làm thêm đủ thứ : Đi bỏ mối bánh rán, đạp xích lô, thậm chí cả phu hồ trong những kỳ nghỉ hè. Mở mồm là anh than thở đến não ruột : “Ôi, cái nghề bán cháo phổi …” . Mà cảnh ngộ của anh bi đát thật : Cô vợ đi xuất khẩu lao động, chẳng những không gửi tiền về cho bố con anh, mà lại còn hùn vốn làm ăn với nhân tình ở bên trời Tây, đã gửi đơn ly hôn về cho anh !...Đúng lúc cảnh nghèo lên tới đỉnh điểm, rau muống cũng không có mà ăn, thì anh được một ông chủ thầu xây dựng mời về nhà dạy kèm cho hai thằng con học dốt như bò ! Ông chủ gia giá :
- Sau vài năm làm ăn, tôi đã có thể sánh ngang với các tỷ phú thời nay, không thiếu thứ gì…Nhưng tôi thiếu một cái, đó là họ nhà tôi ba đời nay chưa có ai được vào đại học. Nay tôi quyết cho hai thằng con lớn nó vào đại học. Vậy nếu thầy dạy dỗ kèm cặp để chúng nó vào được đại học, tôi sẽ trả ơn thầy bằng cả cái nhà ba tầng với năm mươi mét đất này !...Thầy cố giúp tôi …
TNC nghe mà không tin ở tai mình, hay là ông ta hứa hão ? Ông chủ thầu dường như đoán được ý, nói như đinh đóng cột :
- Thầy cứ tin ở tôi. Tôi còn có năm cái nhà rộng hơn thế này, trả công thầy một cái ăn nhằm gì. Nếu thầy hoàn thành được nhiệm vụ, tôi còn tạ ơn thầy dài dài …
Nói rồi ông chủ thầu viết luôn tờ hợp đồng, phô-tô làm hai bản, mỗi người giữ một bản. Quả là TNC có năng khiếu sư phạm tuyệt vời, chỉ sau một năm dạy dỗ, hai thằng con ông chủ thầu vốn học rất kém, thi đại học hai lần đều trượt, vậy mà kỳ thi đó, cả hai anh em đều đỗ thủ khoa ! Ngày công bố kết quả thi của hai đứa con ông chủ thầu cũng là ngày tân gia của thầy TNC. Ông chủ thầu chơi rất đẹp, tặng cho thầy toàn bộ trang bị nội thất (theo tiêu chuẩn Hotel 3 sao) và một chiếc “Đờ-rim”. Có người bản sao ông vung tiền dữ thế thì ông nói :
- Chất xám là vô giá, trả công như thế đã ăn nhằm gì ? Vả lại, con mình những hai đứa, còn theo đòi đèn sách những năm năm nữa, nhờ cái “vía “của thầy phù hộ tiếp!
Quả là nhà kinh doanh có khác, biết trả công và biết tính chiến lược. Quả nhiên, hai đứa vào đại học được thầy TNC giới thiệu với bạn bè kèm cặp giúp đỡ tiếp, chúng nó học rất giỏi, sau này có cơ lấy bằng tiến sĩ ! Còn thầy TNC, sau cái sự đổi đời ấy, thầy trở thành thủ lĩnh của một “băng gia sư” , người đến mời dạy tiếp không kịp, tất nhiên là tiền vào như nước ! Nhớ lại cảnh khổ ngày xưa, thầy thường nói với đàn em đệ tử :
- Cái câu “nhà văn, nhà báo, nhà giáo-nhà nghèo” không còn nghiệm đúng nữa rồi ! “Cháo phổi” bây giờ có giá lắm, nhưng vấn đề là ở chỗ phải biết cách bán – tức biết nghệ thuật kinh doanh…
Một thầy giáo đàn em chen ngang :
- Chúng em hiểu ý thầy rồi, chúng ta phải “kinh doanh cháo phổi”, phải “hiện đại hóa nghề bán cháo phổi” !
- Đúng lắm ! – Thầy TNC nói giọng quả quyết – Thời buổi bây giờ thiên hạ ganh đua nhau đi học, một học sinh ra trường phải có vài ba bằng mới hòng xin được việc. Chúng ta sẽ lập trường tư thục như cái thời “Đông kinh nghĩa thục” ấy !...
Cho đến bây giờ, cái ý tưởng của thầy TNC đã trở thành hiện thực. Bây giờ, thầy không phải trực tiếp “bán cháo phổi” mà điều hành, chỉ đạo như một nhà kinh doanh thực sự. Sau này, nếu như Hội gia sư được thành lập thì thầy tất sẽ có mặt trong Ban chấp hành Trung ương Hội, lúc đó, bạn đọc sẽ được biết tên thật và địa chỉ của thầy !

“CHÁO PHỔI BÌNH DÂN”

Những người bán “cháo phổi bình dân” chính là đội ngũ sinh viên đông đảo, đang học cũng có, ra trường rồi nhưng thất nghiệp cũng có. Thời nào cũng vậy, có lẽ đây là điều bất biến, tầng lớp sinh viên phần lớn là nghèo, cho nên vừa đi học vừa đi dạy để sống mà học tiếp. Đội ngũ này học được chữ nào, đem dạy ngay chữ ấy, kinh nghiệm sư phạm chưa có, lại trẻ người non dạ…cho nên giá rất bình dân. Ta thường thấy trên các báo có đăng quảng cáo miễn phí : “Nhóm sinh viên trường Đại học X, nhận dạy kèm tại nhà từ lớp 1 đến lớp 12, đủ các môn toán, lý, hóa, văn, sử, địa, ngoại ngữ…”, đó chính là những gia sư – học trò.
Những gia sư –học trò như thế coi gia sư chỉ là cái nghề tạm thời để kiếm sống, cải thiện, tăng thu nhập trong lúc theo đòi đèn sách. Nói như thế tức đội ngũ gia sư này chỉ là “quân du kích” chứ không phải quân chính quy, nhà nghề. Mặc dù họ không “tử vì đạo”, không sống chết với nghiệp gia sư, nhưng đồng nghiệp của họ, tức những khóa sinh viên tiếp theo dài vô tận vẫn tạo thành một “khu vực hành nghề gia sư” đáng kể, một loại hình lao động không thể xếp vào nghề nào khác ngoài hai chữ “gia sư”.
Huỳnh Thị N.C là sinh viên ngoại ngữ trường Đại học tổng hợp TP. Hồ Chí Minh, quê ở miền tây Nam Bộ. Theo xu thế chung , gia đình NC quyết cho cô học tiếng Anh để ra làm việc với các đơn vị kinh tế nước ngoài, hoặc liên doanh với nước ngoài. Đó là cái mộng đi kiếm đô-la khá phổ biến ở miền Nam. Nhà NC là nhà nông, anh em nhiều nên cho NC ra thành phố học là phải cố gắng lắm. Tất nhiên chi tiêu hàng ngày có khó khăn, hạn hẹp. Và NC đã phải đi làm gia sư để kiếm thêm tiền mà sống, tất nhiên.
Năm đầu tiên, NC theo một nhóm gia sư đàn chị, đi dạy “âybixi” cho bọn con nít, tức học được chữ nào đem dạy ngay chữ đó. Năm thứ hai, bố mẹ của một học trò đã làm xong thủ tục đi Mỹ theo diện H. O, yêu cầu NC dạy cho họ với số tiền thù lao đặc biệt . Đang dạy cho con, nay chuyển sang dạy cho bố mẹ, quả lả khó khăn. Nhưng vốn thông minh, NC đã khiến cho hai học trò lớn phải khen hết lời và khẳng định NC là một gia sư tuyệt vời. Và, ông chủ nhà, sau khi học được phần giao tiếp thông thường đã ngỏ ý muốn NC làm gia sư suốt đời của ổng !...Diễn biến thì thật là phức tạp, ly kỳ như một cuốn tiểu thuyết ái tình dài ba trăm trang nên chỉ xin nói cái kết cục của nó : bà chủ nhà đã đánh ghen NC thật tàn nhẫn và đuổi cô ra khỏi nghề gia sư với vết dao rạch trên mặt và cái bầu có giọt máu của ông chủ ! NC không thể tiếp tục đi học và hành nghề gia sư (tất nhiên) và cũng không muốn về quê, cô đã nhập giới giang hồ “bán hoa” , đứng ở đường Lê Quý Đôn!...

TÔI ĐI LÀM GIA SƯ

Loại gia sư nghiệp dư cũng là một đội ngũ đáng kể trong khu vực lao động hành nghề gia sư. Đó là những người có văn hóa cao, làm đủ thứ nghề nghiệp, có chút năng khiếu sư phạm và hành nghề gia sư thật ngẫu nhiên, thường là chỗ quen biết chủ nhà và dạy cho họ theo lời mời của chủ nhà (tất nhiên những gia sư này cũng là người nghèo, cần kiếm thêm tiền cho cuộc sống khó khăn).
Khi mới vào Sài Gòn, tôi phải đi linh tinh để kiếm sống . Lần ấy, tôi đang là “cửu vạn” cho một ông chủ vựa sắt thép ở quận 11 thì bất ngờ gặp lại người bạn cũ cùng học ở đại học. Người bạn này là em họ ông chủ vựa, hiện là giáo sư ở một trường đại học. Người bạn hàn huyên xong, kéo tôi lên lầu gặp ông chủ và nói :
- Trời đất ơi !...Ông anh của tôi có mắt không nhìn thấy Thái Sơn ! Anh đang đi kiếm gia sư thì gia sư đây chứ đâu ! Anh Thạch đây cùng học đại học với em ở Hà Nội, đã từng làm thầy giáo luyện thi đại học, từng làm nhà nghiên cứu, nhà báo và cả nhà nghèo nữa ! Hai đứa con của anh có được ông thầy loại xịn đấy !...
Thế là từ đấy, tôi trở thành gia sư của ông chủ vựa sắt thép. Tôi được ở một cái buồng tuy nhỏ nhưng không kém khách sạn hai sao, ngày nào cũng được nhậu lai rai với ông chủ . Nhưng nhiệm vụ thì nặng nề : dạy hai thằng con trai của ông chủ đã tới lớp ba nhưng đọc vẫn chưa thông , viết chưa thạo. Học văn hóa đã chưa xong, hàng ngày tôi lại phải đưa chúng đi học võ vào các buổi chiều và chúng luôn đòi đưa đi bơi thuyền con vịt ở Đầm Sen. Được một tháng, thấy sự học hành của chúng chẳng tiến thêm chút nào, tôi nói với ông chủ xin thôi để trở lại công việc “cửu vạn” thì ông chủ bảo :
- Anh cứ tiếp tục làm gia sư, tôi sẽ tăng lương cho anh lên gấp đôi. Chúng nó đều thích anh lắm. Nói thiệt tình, tôi cũng không hy vọng chúng nó học văn hóa giỏi. Anh dạy được chữ nào thì dạy còn chủ yếu là chơi với chúng nó cho có bạn, chúng đỡ quậy phá linh tinh ! Trước mắt tôi chỉ cần như vậy…
“Vậy thì quá dễ” – tôi nghĩ thầm và lại tiếp tục hành nghề gia sư. Được sáu tháng, ông chủ làm chuyến xuất ngoại sang Nhật để liên doanh liên kết làm ăn gì đó với người Nhật. Bà chủ trở thành tư lệnh của cái đại gia này. Bà chủ gọi tôi lên hỏi :
- Anh làm gia sư cho nhà tôi được sáu tháng rồi. Vậy anh hãy báo cáo kết quả học hành của con tôi cho tôi nghe ?
- Dạ…Chúng nó đã thuộc lòng bài hát “Em đi chơi thuyền”…
Tôi chưa kịp nói hết câu, hai thằng nhỏ không biết từ đâu đều chạy ào vào, vừa múa vừa hát : “Em đi chơi thuyền, trong Thảo cầm viên, chim ca hót mừng, chào đón xuân về…Thuyền em là thuyền con vịt, nó bơi bơi bơi, thuyền em là thuyền con rồng , nó bay bay bay !...”. Phải thừa nhận rằng hai đứa múa và hát rất khéo, rất đáng yêu. Bà chủ cười như…trẻ nhỏ và ôm chầm lấy hai đứa con, hôn hít chúng nó một hồi rồi nói :
- Ôi, các con của tôi ngoan quá. Tôi mải lo buôn bán làm ăn có bao giờ nhìn đến chúng nó đâu ! Tôi cứ nghĩ là chúng nó suốt ngày đánh lộn và quậy phá linh tinh !... Thôi, các con đi chơi để má nói chuyện với thầy giáo !
Hai đứa trẻ đi rồi, bà chủ lấy bia ướp lạnh mời tôi uống và nói, sau khi đã cạn trăm phần trăm lon Tiger với tôi :
- Từ hôm ông ấy đi Nhật, tôi thấy buồn quá… Tôi muốn mời anh đi chơi Đà Lạt một tuần, nhân tiện thăm một người bà con trên đó, chắc anh không từ chối chứ?
- Tôi sẽ cùng đi với hai đứa học trò của tôi chứ?
- Khỏi!...Lên đó, anh sẽ có học trò mới, rất đáng yêu…Là tôi đây nè!...
Nói rồi bà chủ lướt tới bên tôi như một làn gió với mùi hương thật kỳ lạ, quyến rũ khiến tôi như bị nhấc bổng lên tới chín tầng mây!...
Ngay sáng hôm sau, tôi dậy sớm và đi khỏi cái nơi tôi đã hành nghề gia sư hơn sáu tháng trời ấy, cũng nhanh như làn gió!...

LỜI CUỐI

Còn cái sự học thì còn nghề gia sư. Tuy Nhà nước chưa hợp thức hóa nghề gia sư, chưa đưa vào Bộ Luật Lao động thành một mục riêng, nhưng với cái đà giàu lên nhanh chóng của dân ta thì nghề gia sư còn tồn tại và phát triển. Nhưng với riêng tôi, tôi không muốn làm gia sư!...
TP.HCM, 1993 - 2009
Đỗ Ngọc Thạch

http://www2.vietbao.vn/images/vivavietnam_vne/xa_hoi/10996832_boat.jpg Em đi bơi thuyền trong Thảo cầm viên...

3 truyện ngắn Đỗ Ngọc Thạch trên Web nhavantphcm


Truyện Ngắn

Đỗ Ngọc Thạch - Kiếm sống 28.7.2011-10:01

>> Nhật ký của một cô giáo trường làng
>> Thời gian
Kiếm sống
 
TRUYỆN NGẮN CỦA ĐỖ NGỌC THẠCH

NVTPHCM- Có ngàn lẻ một cách kiếm sống, từ nhọc nhằn cho đến nhàn hạ. Không ai có thể lựa chọn cho mình cách kiếm sống, tức sẽ làm cái gì, mà bàn tay của Tạo hóa sẽ chơi trò “Sắp đặt” đối với con người - loài động vật biết nói và biết lao động. Tôi xin chứng minh những nhận định có tính “tiên đề” nói trên bằng câu chuyện sau đây.
Khi tôi đến làm việc tức “kiếm sống” ở cái lò bánh ngọt “tiểu thủ công” này thì đội ngũ “thợ thuyền” ở đây đã có 11 người: 4 người đứng lò, 4 người làm thành cái bánh và đóng gói sản phẩm và một người làm nhiệm vụ “nuôi quân” tức nấu ăn. Những người thợ ở lò bánh này làm việc từ 6 giờ sáng cho đến 6 giờ tối, buổi trưa nghỉ ăn cơm tại chỗ khoảng nửa giờ. Trừ hao những lúc nghỉ giữa giờ vì nhiều lý do thì tổng số giờ lao động của thợ bánh là tròn Mười giờ, tức hơn giờ làm việc của Nhà nước hai giờ. Đó cũng là thời gian lao động nói chung của hầu hết những cơ sở sản xuất tư nhân và có thể nói cái thời gian lao động “dôi ra” này chính là một trong những “yếu tố” làm nên lợi nhuận của giới chủ.
Khi tôi đến lò bánh làm việc, ông chủ lò bánh nói: “Lò bánh của chúng ta đang phát triển và đã có “thương hiệu” trên thị trường, vì thế tất cả hãy cố gắng làm thật tốt phần việc được giao. Số người của chúng ta vừa đủ bộ 12 con giáp Tý Sửu Dần Mão Thìn Tỵ Ngọ Mùi Thân Dậu Tuất Hợi, vì thế mỗi người sẽ mang tên một con giáp, cứ thế mà gọi. Tại sao lại gọi như vậy? Đây là con số tuyệt đẹp, nó sẽ giúp chúng ta làm ăn phát tài, vì thế ta sẽ giữ con số màu nhiệm này, không thêm không bớt”. Nói rồi ông chủ đưa ra một cái rổ nhựa, trong có sẵn mười hai mảnh giấy viết sẵn từ Tý cho đến Hợi, ai bốc được chữ nào thì sẽ mang “thợ danh” chữ đó. Tôi chờ cho mọi người bốc hết, mở mẩu giấy cuối cùng ra có chữ “Tý”, đúng là số trời đã an bài!
Điều kỳ lạ là không chỉ riêng tôi mà năm người nữa là Sửu Dần Mão Thìn Tỵ cũng bốc được chữ trùng với năm sinh của mình. Năm người này, cùng với tôi là sáu, còn có đặc điểm giống nhau nữa là không phải thuộc nhóm “lao động phổ thông” tức lao động chân tay chuyên nghiệp mà tối thiểu là đã tốt nghiệp đại học nhưng đang thất nghiệp (do gặp “nạn” bi kịch gia đình và bè phái đấu đá ở công sở nên bỏ nhà, bỏ nhiệm sở đi hoang). Cái truyện ngắn này chủ yếu nói về năm người này: Sửu đã từng du học nước ngoài thời bao cấp, có bằng Tiến sĩ về Toán học, được rất nhiều trường đại học ở nước ngoài mời làm giáo sư nhưng vì nhớ quê hương, nhớ vợ mà trở về Việt Nam; Dần là cựu Sinh viên trường Đại học TDTT, chuyên về võ thuật (đã từng làm chân trụ cho đoàn xiếc của một tỉnh ở ĐBSCL, tức giữ thăng bằng cho một cái cột lớn đặt trên vai, trên có một, hai người làm những động tác uốn dẻo…); Mão là cựu học viên Học viện Kỹ thuật Quân sự, chuyên về vũ khí có sức công phá lớn; Thìn và Tỵ đều là “thầy giáo mất dạy” tức đã trải qua giáo viên Phổ thông Trung học, về môn văn và sử. Sáu người còn lại (từ Ngọ tới Hợi) tuy không qua đại học nhưng đều đã qua chốn quan trường, thấp nhất cũng là Trưởng phòng, cao nhất là Tổng giám đốc và đều giống nhau ở chỗ đã từng qua vòng lao lý vì nhiều tội danh khác nhau…
***
Công việc ở lò bánh thủ công tuy là lao động giản đơn (còn gọi là lao động phổ thông, lao động chân tay) nhưng cũng có những công đoạn rất khó, đòi hỏi tính chuyên nghiệp cao, nếu không sản phẩm sẽ hỏng, tức quăng sọt rác, tức ông chủ lò bánh sẽ lỗ vốn! Đó là khâu đánh kem và nướng bìa bánh. Sản phẩm bánh ngọt ở đây gọi là bánh xốp, gồm có hai thành phần chính: lớp kem nằm giữa hai hoặc ba lớp bìa xốp. Kem là đường trắng xay thành bột, trộn với dầu mỡ và cho vào một ít tinh dầu, tạo mùi vị thơm ngon. Bìa xốp là bột năng được nướng cho giòn, khi nướng cho vào chút bột nở thì sẽ giòn và xốp. Nướng khéo thì sẽ giòn thơm, cộng với hương thơm của lớp kem tạo thành mùi thơm đặc trưng của bánh. Nói thì đơn giản thế, nhưng cái khó là để có được chậu kem sóng sánh, sủi bọt li ti và thơm lừng, mới nhìn đã muốn ăn thử…thì người đánh kem phải có sức mạnh cử đỉnh của Hạng Võ để dùng tay ngoáy nhào cho đám bột đường trộn với đầu mỡ kia biến thành kem (nếu làm bằng máy thì…tốn điện!). Còn cái khó của nướng bìa bánh là người làm phải đứng bên lò lửa, đổ bột đã trộn nước vào những cái kẹp đặc dụng bằng sắt, mỗi cái to bằng cái cặp sách học trò, lật qua lật lại trên ngọn lửa sao cho chín đều hai mặt. Non lửa thì bìa bánh sẽ sống, quá lửa thì tất nhiên là cháy khét, đều bỏ. Vì thế người nướng bìa bánh phải là loại “Người chịu lửa” và có sự nhạy cảm về thời gian (cũng có phần giống với tố chất của Nhà thơ).
Nhóm sáu người của nửa trên 12 con giáp phụ trách đánh kem và nướng bìa bánh, tức phần công việc nặng nhọc và đòi hỏi “tay nghề” cao (riêng tôi, người viết truyện ngắn này, “học nghề” chỉ nửa buổi là đã thành thạo mọi công đoạn nên được giao làm nhiệm vụ “đốc công”, tức khâu nào làm sai thì chỉnh sửa, hoặc thiếu người thì tạm lấp chỗ trống). Còn nhóm nửa dưới của 12 con giáp thì làm nhiệm vụ tiếp theo, tức trét kem vào bìa bánh rồi cưa cắt thành những cái bánh nhỏ, đoạn cho vào những bịch ni-lon to bằng nửa cuốn vở học trò, buộc kín miệng bịch là xong.
Nhóm sáu người của nửa trên 12 con giáp làm rất tốt công việc, chỉ sau hai ngày được ông chủ lò bánh “cầm tay chỉ việc”. Dần đặc trách việc đánh kem nặng nhọc, khi đánh kem xong, cả cái xưởng bánh ngào ngạt hương thơm. Xong việc đánh kem, Dần làm cái việc cắt bìa bánh, sau khi đã trét kem thành những cái bánh nhỏ. Việc này cũng đòi hỏi sức khỏe vì khi cắt thành những cái bánh nhỏ (những bìa bánh lớn sau khi đã trét kem thì xếp đầy một cái khuôn bằng gỗ, kích cỡ của bánh đã có trong khuôn), phải kéo lưỡi cưa thật nhanh như máy, nếu không bánh sẽ nát vụn hoặc không vuông thành sắc cạnh! Cắt xong sẽ chuyển cho nhóm đóng gói.
Công việc nướng bìa bánh chủ yếu do bốn người Sửu, Mão, Thìn và Tỵ đảm trách. Bốn người này đều đã kinh qua công tác nghiên cứu, giảng dạy nên sự nhạy cảm vế thời gian rất tốt, tức bìa bánh không bao giờ quá lửa đến nỗi cháy khét hoặc non lửa tức còn sống, bánh sẽ dai như cao su! Tuy nhiên, về khả năng chịu lửa thì cả bốn người đều không thể như Tôn Ngộ Không khi bị nhốt trong Lò bát quái của Thái Thượng Lão Quân. Vì thế, cứ hai người làm thì hai người ngồi nghỉ, cứ phải luân phiên từng 30 phút! Nhưng khi lò bánh đắt hàng, ông chủ tăng thêm hai lò nữa, tức tổng số là bốn lò, thì không có thể ngưng nghỉ luân phiên được nữa. Những lúc thấy các “giáo sư”, “viện sĩ” kiệt sức, tôi thường tới  “chia lửa”!
Nhóm nửa dưới của 12 con giáp, tức từ Ngọ cho tới Hợi chủ yếu là làm công đoạn sau, đóng gói bao bì tức hoàn thành sản phẩm và lo chuyện cơm nước cho đám thợ. Trong nhóm sáu người này có ba người là nam, ba người là nữ. Từng đôi một, họ đều là “bạn tù” ở trên mức tình cảm bạn bè và sau khi mãn hạn tù, không trở về với gia đình cũ (vì vợ hoặc chồng của họ đã ly hôn ngay từ khi họ bị khởi tố) mà rủ nhau đi làm thuê kiếm sống, sống cuộc đời mới với “hai trái tim vàng” cho dù chưa có nổi một “túp lều tranh”! Công việc đóng gói bao bì không có gì khó khăn và cũng phù hợp với “xuất thân” (tầng lớp quan cách, chuyên “chỉ tay năm ngón” chứ không phải đụng tay đụng chân vào việc gì cụ thể) của họ nên họ rất hào hứng làm việc. Hơn nữa, trong những khoảng thời gian thọ án bị quản thúc ở trong các trại giam, họ cũng được “rèn luyện” qua những công việc tương tự, có khi còn nặng nhọc hơn nhiều ngồi gói bánh!
***
Tôi “Kiếm sống” ở lò bánh xốp được nửa năm thì một hôm, một người bạn đồng nghiệp của ông chủ lò bánh (hai vợ chồng ông chủ lò bánh đều là giáo viên một trường đại học) đứng ra thành lập một trường PTTH Dân lập, kết hợp ngày khai trương trường học với lễ cưới vợ lần thứ hai, đã đích thân tới tận lò bánh đưa giấy mời vợ chông ông chủ lò bánh. Khi nhìn thấy tôi đang ngồi uống trà với ông chủ lò bánh thì tân Hiệu trưởng kiêm tân chú rể nhào tới tôi, nắm chặt lấy tay tôi mà rối rít nói: “Người bạn Đầm Mây của tôi!...Thảo nào đêm qua tôi nằm mộng thấy Bồ Tát bảo sáng nay thế nào tôi cũng nhặt được Vàng! Thì ra là ông bạn Vàng của tôi ở Đầm Mây!”. Tôi nhận ra ngay đó là Lương, học cùng lớp Toán với tôi ở Khoa Toán trường ĐH Tổng hợp hồi năm 1966, khi Khoa Toán đang sơ tán ở Đầm Mây thuộc huyện Đại Từ, Thái Nguyên. Hồi đó, cuộc sống của sinh viên bị chữ “Đói” hành hạ tối ngày, tôi và Lương thường rủ nhau vào các thôn xóm ở sát chân núi mua các loại quả như chuối, bưởi, đào mận… ăn cho đỡ đói. Ăn hoa quả nhiều tới mức thành nghiện như đám con cháu của Tôn Ngộ Không ở Hoa Quả Sơn!
Gặp lại tôi, Lương nói ngay: “Cậu là một thầy giáo văn võ song toàn (ý nói tôi có thể lên lớp cả Toán và Văn) không thể cứ ngồi đây mà làm thợ bánh được!”. Sau đó, Lương thỏa thuận với ông chủ lò bánh rồi đưa tôi về ngay cái trường PTHT Dân lập mới thành lập của anh ta. Quả nhiên, giáo viên còn thiếu nhiều, tôi vừa phải dạy cả môn Toán và môn Văn. Được trở lại làm Thầy (sau khi tốt nghiệp Khoa Văn ĐH Tổng hợp Hà Nội, tôi có đi dạy học hai năm), tôi cũng thấy đỡ buồn tẻ hơn chuyện làm bánh, ngày nào cũng làm những công việc lặp đi lặp lại, không hề có tính cách tân, sáng tạo. Nhưng, niềm vui cũng chỉ lóe lên như ánh sáng đom đóm bởi một hôm, có hai học sinh, một nam, một nữ tìm gặp tôi tại phòng giáo viên mà nói: “Thầy không được cho em điểm kém, vì nếu em bị bố mẹ đánh đòn bao nhiêu thì em sẽ trả lại thầy đủ bấy nhiêu!” - đó là lời học sinh nam. Còn học sinh nữ thì nói: “Các nơi người ta “đổi tình lấy điểm” rầm rầm. Vậy em xin thông báo với thầy bảng giá trị đổi điểm của em: cầm tay tám điểm, hôn má chín điểm, hôn môi mười điểm. Còn nếu muốn “chuyện kia” thì “Mười điểm trọn đời”! Sau khi hai học sinh kia ra khỏi, tôi nghĩ cái môi trường “tiên học lễ hậu học văn” này thật bất an!
Được sáu tháng, một người bạn học cùng Khoa Văn trường Đại học Tổng hợp bất ngờ gặp tôi giữa đường thì chặn lại như cướp đường và nói: “Cái nghề “bán cháo phổi” này bây giờ tổn thọ lắm, học trò không chỉ dám đánh thầy mà còn có thể lấy mạng thầy như chơi! Mà học trò bây giờ vừa dốt vừa lười học, lời thầy giảng chỉ như “đàn gảy tai trâu” mà thôi!”. Nói rồi người bạn lôi tôi tới một tờ báo ngành, đang chuẩn bị cho ra rất nhiều ấn phẩm khác như Bán Nguyệt san, Nguyệt san, Tủ sách và Cẩm nang… đủ kiểu ngoài tờ báo chính ra hàng tuần.
Không hiểu sao, lần này cũng được sáu tháng thì lại có một người bạn học thời Lớp Một tới lôi tôi tới một nhà hàng máy lạnh loại sang và nói: “Từ ngày tớ bỏ kinh doanh địa ốc chuyển sang kinh doanh hôn nhân, tức mai mối tình yêu thì lên như diều gặp gió. Cậu không thể tồn tại trong cái đám suốt ngày cãi lộn như mổ bò như thế. Dù cậu có trung lập chủ nghĩa thì trâu bò húc nhau ruồi muỗi chết, vì thế hãy nghe tớ, tẩu vi thượng sách. Hãy sang làm việc cho công ty Dây Tơ Hồng của vợ chồng tớ, nó sẽ là bến đậu cuối cùng của cậu!”. Quả là tôi có tính cả nể, hay bị bạn bè rủ rê lôi kéo. Khi tôi theo người bạn thời Lớp Một về tới trụ sở công ty Mai mối Dây Tơ Hồng thì gặp ngay một cặp vợ chồng mới đi hưởng tuần trăng mật ở Đà Lạt về đòi gặp và nói ngay: “Chúng tôi muốn thanh lý hợp đồng cũ và ký ngay hợp đồng mới. Nghĩa là chúng tôi sẽ ly hôn và nhờ Công ty Dây Tơ Hồng mai mối cho chúng tôi một người chồng khác và một người vợ khác!”. Người bạn Lớp Một hỏi: “Tôi muốn biết lý do vì sao hai người lại nhanh chóng ly dị như thế? Mới một tuần làm sao đã khám phá hết mọi vẻ quyến rũ, hấp dẫn của đối tượng?”. Người đàn bà định nói nhưng rồi nhìn người đàn ông như bảo “Ông nói đi!”. Người đàn ông liền nói: “Tưởng là vui duyên mới nhưng lại hóa ra là đồ cũ! Tức cách nay hơn mười năm, chúng tôi đã sống như vợ chồng với nhau tới hai tháng rồi còn gì!”. Người bạn Lớp Một của tôi cười sảng khoái rồi lấy ra hai bản hợp đồng mới, nội dung là trong vòng một tuần sẽ mai mối cho mỗi người một đối tượng vạn sự như ý! Khi hai người khách hàng đã ra về, người bạn Lớp Một nói với tôi: “Đó, câu thấy chưa, cứ gọi là làm không hết việc, mà loại công việc này chỉ là uốn ba tấc lưỡi, chẳng phải ăn no vác nặng như làm thợ bánh, cũng chẳng phải rát cổ bỏng họng như cái nghề “bán cháo phổi” và cũng chẳng phải tả xung hữu đột trong trường văn trận bút như nghề làm văn làm báo! Cậu còn muốn gì nữa?”.
***
Quả là người bạn Lớp Một không khác chi Bồ Tát hạ trần gian, tôi đến làm việc cho Công ty Mai Mối Dây Tơ Hồng được hai tháng thì bạn tôi đã cưới cho tôi một người vợ mười phân vẹn mười, chỉ sau khi “động phòng hoa chúc” hai tháng đã có “tin vui”! Tôi sực nhớ đến những người “bạn đồng nghiệp” một thời ở lò bánh xốp, muốn mai mối cho các “giáo sư, viện sĩ” đã “mồ côi vợ” ấy mỗi người một thục nữ đảm đang để nâng khăn sửa túi trong cuộc sống làm thợ bánh vất vả! Song, khi tôi đến lò bánh xốp ấy thì thật bất ngờ: tất cả nhóm năm con giáp trên tức Sửu, Dần, Mão, Thìn và Tỵ đều đã được vợ chồng chủ lò bánh cưới cho mỗi người một người vợ thôn nữ miệt vườn thứ thiệt, còn “Din” trăm phần trăm và mỗi người đã có một con. Còn nhóm sáu người phần dưới 12 con giáp tức Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất và Hợi thì cả ba cặp đã chính thức bái đường thành thân, mỗi cặp cũng đã có con cái xinh xắn, bụ bẫm! Lò bánh đã phát triển không ngờ, ông chủ đã mua lại căn hộ kế cạnh, xây bốn tầng lầu để phát triển cơ sở sản xuất và có chỗ ở cho cả năm cặp vợ chồng nhóm năm con giáp phía trên (sáu người nhóm con giáp phía dưới thì ở nhà thuê gần cơ sở lò bánh).
Khi nhìn những người thợ bánh đang làm việc, tôi thấy không khí của xưởng bánh thật chuyên nghiệp và trên từng gương mặt đều lộ rõ niềm vui lao động say mê, có người còn vừa làm vừa hát, thi thoảng lại có người kể chuyện tiếu lâm và mọi người cười hưởng ứng như pháo ran! Ông chủ lò bánh nói với tôi: “Bây giờ tất cả đều rất an tâm và say mê làm việc, coi lò bánh là nhà, không muốn chuyển đi đâu cả!”. Mặc dù đã “mục sở thị”, tôi vẫn chưa tin là những “giáo sư”, “viện sĩ” kia sẽ gắn bó hết đời với lò bánh, liền đến bên Sửu, người đã từng lấy bằng Tiến sĩ Toán ở MGU (Đại học Tổng hợp Quốc gia Matxcơva, mang tên nhà bác học Lômônôxốp nên còn gọi là trường Đại học Tổng hợp Lômônôxốp) để “phỏng vấn” xem sao thì Sửu nhìn tôi cười rạng rỡ rồi cất tiếng hát bài “Cuộc sống ơi, tôi mến yêu người” bằng tiếng Nga:
Я люблю тебя, жизнь
Что само по себе и не ново,
Я люблю тебя, жизнь
Я люблю тебя снова и снова…
Rồi bằng tiếng Việt:
Cả tình yêu trao cuộc sống
Mãi mãi ta mến yêu người tình yêu thắm nồng.
Cả tình yêu trao cuộc sống
Mãi mãi ta hiến dâng người tình yêu thiết tha.
Đèn rực sáng trên tầng cao
Là khi ta chân khẽ đưa thong thả bước về.
Ta càng thấy yêu con người
Mong cuộc sống ta mỗi ngày sẽ tươi thắm hơn…
Kìa trời khuya chim rộn hót
Những bóng đêm đang tan dần bình minh thức dậy.
Từ lòng ta, ngon lửa cháy
Hỡi trái tim của con người thèm sống khác xưa.
Một ngày mới vẫy chào ta.
Bạn đời ơi ta muốn dâng ngọn lửa cháy này
Cho cuộc sống bao vui buồn.
Xin hạnh phúc, dẫu muộn màng sẽ đến với ta…
Nghe Sửu hát say sưa, tôi lẩm nhẩm hát theo từ lúc nào (sở dĩ tôi thuộc bài này vì có anh bạn thời lính Ra-đa tên Võ Trí Tâm, sau có đi học ở Nga về, thường hay hát bài này lúc … chán đời). Sửu hát say sưa tới ba lần, tôi còn “phỏng vấn” gì nữa!
Khi tôi đi khỏi lò bánh xốp, ông chủ lò bánh tiễn tôi và nói: “Bất cứ lúc nào ông thích quay trở lại lò bánh, tôi và mọi người đều hoan nghênh!”. Tôi không nói gì vì còn phải chờ Bồ Tát hiển linh báo mộng!
Sài Gòn, 16.5.2011
Đỗ Ngọc Thạch

Truyện Ngắn

Đỗ Ngọc Thạch - Thời gian 05.7.2011-23:05

>> Nhật ký của một cô giáo trường làng
Thời gian
TRUYỆN NGẮN CỦA ĐỖ NGỌC THẠCH
1.  Người mẹ tính thời gian bằng độ lớn của những đứa con, người cha tính thời gian bằng những đại sự mình đã làm được, những đứa con tính thời gian bằng những sợi tóc bạc trên đầu cha mẹ chúng! Đó là trong một gia đình. Còn trong cuộc sống xã hội, người nghèo tính thời gian bằng số gạo còn trong thùng, người giàu tính thời gian bằng số tiền lợi nhuận sẽ kiếm được, còn người say thì tính thời gian bằng số rượu còn trong chai!... 
Vì mỗi người tính thời gian theo cách riêng của mình cho nên Thời gian là một khái niệm không xác định, lúc dài đằng đẵng, lúc ngắn tấc gang!... 
Anh bạn Thời của tôi không theo dõi thời gian bằng lịch. Nhà anh treo rất nhiều lịch, đủ các loại, nhưng anh không bao giờ xé lịch, nếu thỉnh thoảng có xé thì xé cả tệp! Những tờ lịch tháng, lịch năm cũng không thấy khớp với thời gian đang tồn tại! Không biết anh theo dõi thời gian bằng cái gì? Thì ra anh theo dõi thời gian bằng Triết học và Thi ca. Anh làm việc ở Viện Triết nhưng đêm đêm, anh ngồi trùm mền làm thơ. Đó là những ngày Đông tháng giá, còn mùa hè nóng nực thì anh đi xếp hàng hứng nước máy hì hục suốt đêm, vì mùa hè bao giờ cũng thiếu nước, cái vòi nước chảy nhỏ giọt mà luôn có tới dăm chục người xếp hàng chờ hứng nước!... Mỗi khi có thơ đăng báo, anh lại mời tôi đi uống rượu với lạc rang, đó là kiểu uống rượu của những bậc tao nhân. Mỗi lần đi uống rượu như thế anh lại nói (như là nói lần đầu): “Thơ ca là Triết học vận động, Triết học là Thơ ca bị tống giam! May mà tôi được phân về Viện Triết nên mới có thể tiếp tục làm thơ, còn nếu về Viện Văn như ông thì chết từ lâu!” Tôi hỏi: “Vì sao vậy?” Trả lời: “Lý luận luôn muốn hiếp dâm Thơ ca!”. Tôi nói: “Nhưng nếu Nàng Thơ thích thì sao?”. Trả lời ngay: “Thì đẻ ra quái thai!”. Tôi nói: “Ông không hợp với Triết học! Nên chuyển qua cái khác đi, Xã hội học chẳng hạn!” Anh bạn Thời cũng nói: “Ông cũng nên chuyển qua cái khác đi, làm báo chẳng hạn! Báo chí là Lý luận vận động, vừa đỡ tù túng vừa có tiền nhuận bút!”. Quả nhiên, một thời gian sau, anh bạn Thời chuyển qua Viện Xã hội học, còn tôi chuyển qua một tờ Tạp chí về văn hóa - nghệ thuật! Nhân bảo như Thần bảo! 

2. Suốt từ lúc tuổi đôi mươi cho tới năm mươi tuổi, không hiểu tại sao tôi không bao giờ để ý xem mình già hay trẻ, nôm na là mình đang bao nhiêu tuổi? Lúc gần năm mươi tuổi, sau khi đã vào Nam ra Bắc, lên rừng xuống biển, tôi lại từ Sài Gòn ra Hà Nội làm cho một tờ báo tuần, đến chơi với anh bạn Thời thì thấy phòng làm việc vắng tanh, các phòng khác cũng chỉ lác đác một hai người đi ra, đi vào. Tôi đang định đi về thì Thời xuất hiện, tóc bạc gần trắng hết nhưng nụ cười thì vẫn vô tư như xưa! Thời nói: “Hay quá! Có chỗ ở rồi! Dọn dẹp cả buổi sáng mới xong... Vừa rồi vợ nó đưa nhân tình về nhà, bắt quả tang thì nó còn dọa giết như giết Võ Đại rồi đuổi đi, phải đến cơ quan nằm bàn. Nay thì có người cho mượn một căn nhà ở gần khu Giảng Võ nhà ông đó! Giờ ta về nhà nhâm nhi tâm sự!”. Thời đưa tôi về nhà, chính xác là căn lều tranh vách tooc-xi, nhỏ bé, đã cũ nằm giữa một khu dân cư lao động nghèo, đi mãi, rẽ phải rồi lại rẽ trái ba lần mới tới nhưng ở đây yên tĩnh, không còn nghe thấy tiếng ồn xe cộ của phố phường…
Chúng tôi uống tới ly thứ hai thì có một bà hàng xóm, đưa sang một đĩa đậu phụ rán vàng ươm, nói: “Thấy chú có khách, tôi góp vui một đĩa mồi!”. Khi bà hàng xóm về rồi, Thời nói: “Bà hàng xóm này rất nhiệt tình! Chủ nhà đã giới thiệu mình với bà ta, nhờ “chăm sóc”, vô tư!” Chúng tôi uống hết một chai thì ngưng, phải biết dừng đúng lúc, đó là qui tắc uống rượu của chúng tôi! Khi nằm xuống giường, Thời mới nói: “Việc quan trọng nhất bây giờ là phải đi kiếm vợ, không thể sống độc thân cơm niêu nước lọ! Nếu ông có mối nào hay thì ta tiến hành ngay!” Tôi đang lục tìm trong danh mục những chỗ thân quen ở Hà Nội xem có chỗ nào hay thì đã thấy Thời ngủ rất ngon lành, thỉnh thoảng còn cười tủm tỉm, chắc là ai đang dắt đi kiếm vợ trong mơ? 
Một tháng sau, tôi chưa kịp hỏi lại hai chỗ tôi đã “mai mối” cho Thời thì Thời gọi điện cho tôi báo tin ba ngày nữa sẽ làm đám cưới, hỏi cưới ai thì nói: “Thì cái bà hàng xóm đã từng mời ông ăn đậu phụ rán đó!”. Đám cưới của Thời thật là vui. Thì ra bà vợ mới của Thời là chủ một gánh bún riêu cua, rất đắt hàng, đã tích lũy vốn đủ xây một căn nhà một tầng lầu tuy không hoành tráng nhưng rất đẹp, có một khoảng sân thượng nhỏ để lúc trăng thanh gió mát có thể lên đó uống rượu, làm thơ vịnh Nguyệt!... 
Một lần tới ngồi nhâm nhi với Thời trên chỗ sân thượng, Thời nói: “Tuổi trẻ chúng ta ai cũng bị cái tật háo danh, háo sắc. Chỉ đến khi tóc bạc mới chữa được cái tật đó. Nếu như lúc trẻ mà đã được Thời gian cho xem trước “Thì Tương lai” một chút thì hay biết bao!” Tôi chưa kịp nói gì thì bà chủ nhà bước lên, đưa cho tôi một tập thơ in từ máy vi tính, đóng bìa giấy bóng kính láng coong, nhìn rất sáng sủa, gọn ghẽ, và nói: “Nhân tiện tặng anh một tập thơ tự xuất bản của tôi và xin cho ý kiến nhận xét thẳng thắn!”.Tôi cầm tập thơ lướt nhanh hai lượt thì thấy niêm luật khá chuẩn, nhan đề các bài thơ đều có ý tứ sâu xa…Thời nói: “Thơ của cái bà bún riêu cua này được lắm! Thì ra Nàng Thơ có ở khắp nơi, chẳng ai có thể tham lam chiếm đoạt Nàng làm của riêng! Thơ là cỏ, trâu ăn rồi lại mọc / Thơ là trâu ngồi nhai mãi Thời gian!”… 
Một năm trôi qua rất nhanh, tôi lại phải trở vào Sài Gòn, hình như Hà Nội không muốn cho tôi ở lại? Tôi đến nhà Thời để chia tay, thấy Thời vừa ru đứa con gái chưa đầy tuổi ngủ vừa đọc một luận văn Thạc sĩ của một nghiên cứu sinh trong Viện Xã hội học. Thời đang hướng dẫn nghiên cứu sinh. Nhìn hai công việc có vẻ như không hợp nhau, tôi trêu Thời: “Ông già đầu tóc bạc phơ / Coi chừng luận án bị con thơ đái tè!” Thời nhìn tôi cười như thời trai trẻ, nói: “Thì cái luận án này bị nó đái vào hai lần rồi còn coi chừng gì nữa! Chờ chút xíu nữa là nó ngủ liền à!” Trong khi chờ con bé con ngủ, Thời còn đọc Kiều ru nó ngủ: “Trăm năm trong cõi người ta!...” Quả là người ta có thể bất chấp sự nghiệt ngã của Thời gian!... 

3.  Vào Sài Gòn được ba ngày, tôi lại nhận được thiêp cưới của ông Cậu (đã hơn sáu mươi tuổi), cưới vợ lần thứ hai. Tưởng là “Rổ rá cạp lại”, “già choang bạn già”, ai ngờ cô dâu mới hơn ba mươi tuổi, còn là trinh nữ, lại không hề xấu xí chút nào! Đám cưới thật là đông vui, chú rể tửu lượng còn rất sung, cười nói luôn mồm như trẻ nhỏ! Đúng là “So với ông Bành vẫn thiếu niên!”…
Thời gian là vị Quan Tòa công minh nhất! Tôi vẫn thường dùng câu nói ấy trong những bài phê bình văn học, nếu có dịp. Song, khi chứng kiến Thời “làm lại từ đầu” ở tuổi Ngũ thập và cho đến lúc dự đám cưới ông Cậu “làm lại từ đầu” ở tuổi Lục tuần thì tôi ngờ rằng Thời gian hình như không làm tốt nhiệm vụ Quan Tòa của mình và thường… ngủ quên! Bằng chứng của cái sự “ngủ quên” này còn thể hiện rõ ở chuyện tiếp dưới đây. 
Năm rồi, anh bạn Thời của tôi tổ chức mừng sinh nhật đúp: bố sáu mươi tuổi, con mười tuổi. Thời điện thoại mời tôi ra Hà Nội và bao trọn gói từ vé máy bay cho tới ăn ở, đi lại trong một tuần. Quả là hậu hĩnh. Song, sức khỏe tôi “có vấn đề” nên đành dự tiệc qua điện thoại và vi tính!
Sau vài lời thông báo ngắn gọn, Thời gửi vào máy tính của tôi chục bức ảnh chụp toàn cảnh buổi mừng sinh nhật đúp: Thời tóc đã bạc hết trăm phần trăm nhưng gương mặt đầy đặn và nụ cười vẫn tươi rói như xưa, cô bé con mười tuổi thì quả là đẹp tuyệt trần, như là một Tiểu Tiên nữ! Cái câu “Cha già con cọc” là hoàn toàn sai đối với hai bố con Thời! Còn Thời Phu nhân thì quả là phát lộ Quý tướng “Vượng phu ích tử” hết chỗ nói! Tôi mải mê ngắm nhìn chục bức ảnh của gia đình Thời lâu đến nỗi cái cục “mô-đun” bị nóng bỏng và lập tức máy bị treo!...
Tôi gọi điện thoại cho Thời:
- A lô! Ảnh rất đẹp, nhưng máy bị treo rồi, còn nữa thì gửi tiếp nha!
- Còn nữa chứ! - Thời nói, giọng rất hào sảng - Có cả những bức ảnh rất nóng!
- Hồi xuân hả? Biết ngay thế nào ông cũng thành “Lão Ngoan đồng” mà!
- Có lẽ tại uống nhiều thuốc “Cải lão hoàn đồng” quá!
- Lấy ở đâu ra của quý hiếm ấy? Thái Thượng Lão Quân cho hả!
- Đâu có! Đó chính là bà xã Bún riêu cua cho chứ chẳng có Thần Tiên nào cả!
- Bà xã Bún riêu cua thì chính xác đó! Quý tướng Vượng phu ích tử ngàn người mới có một! Xin chúc mừng Sư huynh!...
- Này! Đừng bỏ máy vội, thông báo cho ông một tin quan trọng này nữa: cuối năm nay, tức năm Con Trâu Vàng, bà xã Bún riêu cua sẽ sinh thêm một A Tèo!
- Trời đất! Vậy là sinh Quý tử rồi!... 
Tôi thật không tin ở tai mình, song càng không tin thì sự thật càng rõ mười mươi: khi tôi mở lại máy tính ra thì đã thấy Thời gửi tiếp cho tôi mười bức ảnh nữa, có tới một nửa là cảnh âu yếm rất lãng mạn, rất tình tứ giữa Thời và bà xã Bún riêu cua có Quý tướng! Quả là Thời gian đã “ngủ quên” suốt mười năm qua đối với vợ chồng Sư huynh Thời của tôi!... 
Sài Gòn, 8-9.11.2009
Đỗ Ngọc Thạch 
sông Hương thơ mộngảnh

Truyện Ngắn

Nhật ký cô giáo - ĐỖ NGỌC THẠCH 19.11.2010:18:19
http://www.125hht.com.vn/userpix/6_44265_thiep_1.jpg
Nhật ký của một cô giáo trường làng
Truyện ngắn của Đỗ Ngọc Thạch 
1. Ngày… tháng… năm 19… Mình tốt nghiệp thì nhận được tin cô em út cũng trúng tuyển vào đại học sư phạm. Mình phải về nhà ăn mừng ngay. Thế là nhà có hai chị em cùng nghề Sư phạm, thật là vui. Nhưng buồn nhiều hơn vui vì người anh trai của hai cô em gái yếu ớt từ ngày vào chiến trường đến nay đã năm năm rồi mà không có thư từ gì, mấy người cùng nhập ngũ một đợt với anh đã hy sinh mất sáu người, giấy báo tử gửi về làng, cả làng khóc. Riêng mẹ mình lại khóc rất nhiều. Mẹ bảo: “Cái thằng Nâu hiền như đất, làm việc khỏe như trâu ấy là người tốt nhất, ngoan nhất trong đám thanh niên làng này thế mà lại chết đầu tiên. Cả năm thằng kia nữa, thằng nào cũng là lực điền, là lao động chính của gia đình, thế mới khổ chứ! Ông Trời thật không công bằng! Người tốt sao mà chết nhiều thế, còn người xấu thì cứ sống nhan nhản, suốt ngày nghênh ngang ngoài đường. Như mấy đứa con ông chủ tịch xã, công an xã đó, không chịu lao động, suốt ngày chỉ rượu chè, cờ bạc rồi gây gổ đánh nhau ầm ĩ xóm làng. Thấy chúng nó con phải tránh xa nghe không! Cái thằng Chánh con ông chủ tịch xã, còn đòi xin cưới con đó! Mẹ nó đã hai lần đến nhà mình xin cưới con và chưa chịu yên đâu!” Mình nói với mẹ: “Mặc xác nó, từ giờ còn đến thì đóng cửa không tiếp, chẳng lẽ mẹ con nó không biết xấu hổ!” Mẹ thở dài, nói nhỏ: “Nếu mẹ con nó biết xấu hổ thì đã không dám mò đến…Mẹ chỉ sợ…”
Điều mẹ sợ đã thành sự thật, may mà cô em gái của mình rất thông minh, nhanh nhẹn, không thì đã bị chúng nó đón đường ở chỗ vắng làm nhục rồi! Cô em út vốn hiền lành thế mà đã thay đổi hẳn, nó nói: “Bây giờ loạn lắm chị ạ! Quân tử phòng thân, chị phải học lấy vài miếng võ tự vệ, kẻo gặp chuyện lại lúng túng! Em mới học  được bài Hầu quyền lợi hại lắm, không thì đã tiêu đời rồi!”
 
2. Ngày… tháng… năm 19… Mình được điều về trường cấp 3 trên thị xã, nhưng phải xin về xã dạy  cấp Một để còn chăm sóc mẹ. Từ ngày bố mình mất, rồi anh trai đi chiến trường bặt tin, sức khỏe mẹ giảm sút rất nhanh!  Nay cô em út đi học xa, nhà chỉ có hai mẹ con, thật là buồn. Chỉ ở vào hoàn cảnh này, mình mới thấy cái ước mơ “con đàn cháu đống” từ bao đời của người Việt thật có lý! Có lẽ mẹ nói đúng, phải lấy chồng, đẻ con cho mẹ có cháu bế, vui cửa vui nhà sẽ bớt sầu não và biết đâu sức khỏe mẹ lại hồi phục!
Nhưng chuyện lấy chồng không hề đơn giản. Khi còn học ở trường Sư Phạm, mình không bao giờ nghĩ tới hai chữ lấy chồng, yêu đương cũng không hề dây vào vì mất thì giờ và lắm chuyện lôi thôi! Khẩu hiệu lúc ở trường là: Tất cả cho học tập! Có thế mình mới giành được cái danh hiệu Trạng nguyên chứ! Một kỷ niệm vui!...
 
3. Ngày…tháng…năm 19…: Mình cứ nghĩ dạy cấp Một sẽ dễ dàng hơn rất nhiều dạy cấp Ba, nhưng có lẽ không phải như vậy, mà là ngược lại. Dạy cấp Một như làm nền móng cho ngôi nhà, nền móng có vững chắc thì sau này mới có thể lên các tầng cấp Hai, cấp Ba, rồi Đại học! Thế mà trước đây, việc đào tạo giáo viên cấp Một, cấp Hai lại tuyển toàn những người thi trượt tốt nghiệp Trung học, trượt Đại học! Giáo viên của Trường Làng này quả là giống như cái hình ảnh mà lâu nay người ta vẫn thấy: Là những người Nông dân chính hiệu nhưng không cầm cày, cầm cuốc mà cầm bút, cầm phấn trắng mà thôi! Mà thực ra, trên danh nghĩa thì họ cầm bút nhưng họ vẫn cầm cày, cầm cuốc giỏi hơn cầm bút! Thời gian mà họ đầu tư vào không phải là đọc sách, nâng cao trình độ, nghiệp vụ dạy học mà trồng rau màu, nuôi lợn, nuôi gà…sắp tới còn hùn vốn nuôi một đàn bò nữa! Việc lên lớp, hình như đối với nhiều người không phải là việc chính, mà chỉ là làm qua loa, nhanh chóng cho xong, bởi đàn lợn, đàn gà và cả đàn con đang đợi họ về giải quyết, mới là việc chính!... Thấy mình không triển khai “việc nhà nông” mà chỉ ngồi đọc sách, soạn giáo án, mấy chị hiệu trưởng, hiệu phó đều nói: “Em mà không lo gầy dựng cái “trang trại” nhỏ cho mình thì có ngày chết đói đấy! Học sinh ở đây nó hiểu rất giỏi cái câu “Có thực mới vực được đạo”, chúng nó cũng phải lo kiếm cái ăn phụ giúp gia đình rồi mới tính đến chuyện học tập! Chúng ta là cô giáo của chúng nó, chẳng lẽ lại không hiểu sâu sắc hơn chúng nó điều đó! Vì thế, học sinh nó không thuộc bài, chưa làm bài tập, hay phải nghỉ học một vài buổi thì đừng có trách phạt nó. Bởi chúng nó phải đi mò cua, bắt ốc, tát cá, mót khoai, mót lúa!...Mà tôi nhớ không nhầm thì chỉ hơn mười năm trước, cô cũng có mặt trong những đội quân kiếm sống tí hon đó?!”. Cô Hiệu trưởng nói rất đúng, nhưng chẳng lẽ ta cứ sống như mười, hai mươi năm trước? Mình đem những suy nghĩ nói với mẹ, mẹ cười bảo: “Con sống xa quê có bốn năm mà đã thay đổi nhiều, vừa tốt, vừa không tốt. Tốt là đúng như quy luật của sự phát triển. Không tốt là con quên mất rằng sự thay đổi, phát triển ở nông thôn không giống như ở đô thị: đô thị phát triển theo đường thẳng, còn nông thôn phát triển theo hình xoáy trôn ốc!... Còn nữa, có nhiều cái, rất tiến bộ, rất khoa học nhưng đưa vào Nông thôn của chúng ta nó không “tiêu hóa” được!...”
Mẹ nhìn mình âu yếm, mình cảm nhận được tình cảm mẹ giành cho mình thật vô hạn!...Mẹ bỗng thở dài rồi nhẹ nhàng nói: “Con rất giống bố con lúc trẻ: suy nghĩ nhiều quá, vấn đề gì cũng muốn nghĩ tới cùng, mà không biết rằng, có rất nhiều chuyện càng nghĩ nhiều càng rối! Con nên nhớ rằng chính vì bố con mắc chứng bệnh “cả nghĩ” mà thành ra Tâm thần, rồi phải bỏ viện nghiên cứu mà về quê! Nhờ gặp mẹ, một cô giáo trường làng giản dị mà sống thêm được chục năm nữa! Nhưng cái bệnh của bố con lại “lây” sang mẹ và “di truyền” lại cho con!... Chỉ đến khi bố con mất đi, mẹ phải lo nuôi ba anh chị em con ăn học thì mẹ mất hẳn cái bệnh “nghĩ ngợi lung tung” ấy! Con người ta phải hành động nhiều hơn suy nghĩ! Đó là điều suy nghĩ cuối cùng của mẹ cho nên sẽ rất đúng! Bây giờ con phải lo lấy chồng đi! Lấy chồng, đẻ con rồi thì con sẽ thấy con người ta phải hành động như đèn kéo quân!”…
Mẹ lại nhắc đến chuyện lấy chồng, nhưng mình thấy quả là không hề đơn giản, bao giờ cũng là như vậy! Hay là làm theo lời mẹ, phải hành động nhiều hơn suy nghĩ! Vậy thì mình sẽ đi ra ngoài đường, người nào mình nhìn thấy đầu tiên, mà nói rằng thích cưới mình làm vợ thì sẽ đồng ý liền! Mình liền bước ra cổng, nhìn cả hai phía, con đường làng rợp bóng mát của đủ các loại cây, hoa được người ta trồng làm thành hàng rào, thật là yên tĩnh! Đúng là phong cảnh làng quê thanh bình! Mình bỗng nghe thấy tiếng gõ máy chữ lách tách đều đều từ bên nhà hàng xóm. Nhìn sang thấy anh Liêu, vừa là bạn học, vừa là bạn lính với anh trai mình, bị thương phải cưa một chân, mới về nhà được nửa năm, chính anh Liêu đang gõ máy chữ! Nhớ đến ý nghĩ khi bước ra khỏi cổng, mình thấy bối rối: chẳng lẽ là cái anh Liêu này? Nhưng anh ta đang gõ máy chữ ở trong hè nhà anh chứ có đang đi ngoài đường đâu? Đúng lúc đó thì anh Liêu ngừng gõ máy chữ, ngoái đầu nhìn sang thấy mình thì liền đứng dậy, cầm lấy cái nạng rồi đi ra cổng, tính muốn gặp mình chắc? Quả nhiên anh Liêu đi rất nhanh ra cổng nhà anh thì quay ngay sang cổng nhà mình, nói: “Chào cô giáo Hiền! Đang muốn tìm cô thì thấy ngay! Anh có cái truyện ngắn mới viết xong, “Bạn trường làng” - viết về tình bạn giữa anh và anh trai Hiền. Nhờ Hiền đọc rồi chấm điểm nhé!”. Mình nói: “Em không dám chấm điểm đâu. Nếu có thì chỉ nhận xét chút xíu thôi” và thoáng nghĩ: Chẳng lẽ đây là người mình gặp đầu tiên? Nhưng phải xem anh ta có thích cưới mình không đã? Mình liền hỏi: “Anh đang nghĩ gì đấy?” Anh Liêu nói: “À, anh đang viết truyện ngắn “Kén rể” - có một cô gái đến tuổi lấy chồng nhưng không biết lấy ai? Ai mới là người xứng đôi với cô gái ấy?”. Trời ơi, sao lại có sự trùng hợp như thế? Anh Liêu thấy điệu bộ lúng túng của mình thì liền chào và đi nhanh về nhà!...
 
4. Ngày… tháng… năm 19… Khi người ta giành nhiều tâm huyết cho một công việc nào đó mà kết quả lại không được như mong muốn thì thật là buồn. Mình chuẩn bị bài giảng rất kỹ, nhưng khi đến lớp thì mình như hóa thành Con Dã Tràng: Lớp học lúc nào cũng vắng non nửa, số còn lại thì đứa ngủ, đứa đang ăn khoai, ăn sắn, đứa thì đang sửa, buộc lại cái giỏ cua để tan học là đi móc cua ngoài ruộng về làm bữa ăn cho cả nhà, v.v.. Chỉ có một, hai đứa là há mồm ngồi nghe cô giáo nói, mà hình nhý nó không hiểu cô giáo nói gì! Phải chấn chỉnh lại nền nếp học tập! Không biết mình có làm được việc này không, hay là nói qua loa vài câu rồi cho bọn trẻ về sớm như các thầy cô giáo khác? Mình vừa nghĩ đến mấy chữ “cho về sớm”  thì một bé gái đứng lên nói: “Thưa cô, cô cho em về sớm, hôm nay em phải đi mót lúa, nhà em hết gạo ăn rồi!” Mình chưa kịp nói gì thì hai đứa nữa cùng đứng lên tranh nhau nói: “Thưa cô, em cũng phải đi mót lúa!...” Và cuối cùng thì gần như cả lớp cùng tranh nhau nói!...
Mình vừa về đến cổng nhà thì thấy hai mẹ con thằng Chánh con ông chủ tịch xã đi từ nhà mình ra, mình vội lùi lại, chạy sang nhà anh Liêu. Anh lại đang ngồi gõ máy chữ ở ngoài hè. Nhìn thấy mình, anh vội ra mở cổng và hỏi ngay: “Em đọc xong cái truyện ngắn của anh rồi à?” Mình nói: “Vâng!... Nhưng bây giờ em muốn nói với anh chuyện khác. Sao anh không sang nhà em xin cưới em đi?” Anh Liêu trố mắt nhìn mình, hỏi lại: “Em nói gì? Xin cưới em? Tại sao em lại nghĩ thế?” Mình nói mà như là có ai chui vào mồm mình mà nói: “Hôm kia, em có quyết định là nếu bước ra cổng mà gặp ai đầu tiên thì sẽ cưới người đó! Lúc đó em đã gặp anh! Thế em chưa nói với anh chuyện này à? Nếu chưa nói thì bây giờ em nói rồi đó, anh sang nhà em xin cưới em đi, mẹ em sẽ đồng ý liền!” Anh Liêu như là chưa hiểu mình nói gì. Anh nhìn ra cổng, thấy hai mẹ con thằng Chánh đi qua thì như là đã hiểu phần nào! Anh ngập ngừng một lát rồi nói: “Để anh nói với mẹ anh đã!...”
Song, thật là ngoài dự đoán, từ sau khi Mẹ anh Liêu sang gặp mẹ mình (gọi là dạm hỏi) thì ngày nào cũng có người mai mối đến xin gặp mẹ mình và xin cưới mình chứ không chỉ là dạm hỏi, chạm ngõ nhiêu khê gì đó! Mình nói với anh Liêu: “Anh sang xin cưới đi rồi ta cưới liền!” Anh Liêu băn khoăn nhìn mình, muốn nói điều gì mà như là không tiện nói ra. Mình nói: “Anh em mình biết nhau từ ngày cởi truồng thì có gì mà e ngại. Anh và em sở dĩ chưa nói chuyện cưới xin với nhau chỉ vì chưa tới số thôi. Bây giờ là tới rồi đó! Chúng ta phải cưới ngay kẻo “Đêm dài lắm mộng”!
Thế là chỉ một tuần sau, mình đã là “Gái đã có chồng”! Rõ ràng là bọn “Ong bướm rập rờn” đã biến hết, cả thằng Chánh con ông chủ tịch xã cũng lặn luôn! Khi đã là cô dâu rồi, mình thấy cuộc sống quả là có khác chút ít với khi chưa là Cô dâu! Và tới khi cái thai trong bụng mình cứ lớn lên từng ngày thì sự khác biệt là rất lớn!...Lớn nhất có lẽ là cái thai, nó đã thu hút mọi suy nghĩ, hành động của ta, nhiều lúc khiến ta quên cả lũ trẻ ở trường học. Giờ mới thấy các cô giáo “Tiền bối” nói đúng: khi có nhiều việc khác phải nghĩ đến thì việc trường lớp, tức việc dạy học thật là nhẹ nhàng, coi như không có, không cần bận tâm, như trò chơi con nít vậy!
 
5. Ngày… tháng… năm 19… Khi mình đẻ đứa con trai đầu lòng thì Mẹ quả là hết cả ốm đau, bệnh tật. Suốt ngày hai bà cháu chơi với nhau thật là vui. Biết thế này thì mình lấy chồng, đẻ con thật sớm!
 
6. Ngày…tháng…năm 19…: Năm năm qua, không hiểu sao mình bỗng không muốn ghi Nhật Ký, có lẽ tại bởi khi sinh đứa con gái thứ hai thì mình quá bận rộn. Khi đứa con thứ hai được hai tuổi thì chồng mình - Anh Liêu, cùng mấy người bạn Cựu chiến binh vào thăm lại chiến trường xưa thì bị tai nạn giao thông ở Tây Nguyên, cả cái xe khách lao xuống vực, thật là kinh khủng! Vậy mà khi tin tai nạn báo về, chẳng nhà nào tin cả! Ai cũng nghĩ là người thân của họ sẽ về!...Trong Lễ truy điệu anh Liêu tử nạn, một người đồng đội cũ giờ làm ở Bộ chỉ huy Quân sự tỉnh nói rằng trường hợp của anh trai mình vẫn ở diện mất tích vì chưa có thông tin gì mới!
 
7. Ngày… tháng...năm 19… Con trai đầu của mình, thằng Làng, đã hơn sáu tuổi, cho nó vào Lớp Một vì nó đã đọc thông viết thạo, làm toán cộng trừ nhân chia rất nhanh. Và thật kỳ lạ, từ khi cho con đi học, mình lại toàn nghĩ về chuyện dạy học, về lũ học sinh trẻ con của mình!...Có lẽ bây giờ toàn bộ sự chú ý  của mình sẽ tập trung vào lớp học vì ở đó có cả thằng con trai và hai tháng sau thì có cả cô con gái em, con Nữ, vì thật bất ngờ, con em ở nhà chỉ “học mót” thằng anh và chỉ sau một tháng nó đã đuổi kịp thằng anh và xem chừng muốn giỏi hơn “ông anh” của mình. Nó gọi anh nó là “Ông Anh” nghe thật ngộ, không biết nó bắt chước ai?
 
8. Ngày…tháng…năm 19…: Ban Giám hiệu, rồi cả Phòng giáo dục Huyện đều đồng ý cho mình thực hiện Chương trình đặc biệt bậc Tiểu học (hệ 12 lớp), từ lớp Một cho đến lớp Sáu. Tuy nhiên, Trưởng phòng GD Huyện nói: “Làm thì cứ làm, miễn sao con em chúng ta nó học tốt, chứ báo cáo lên Sở rồi lên Bộ, đi lên, đi xuống vòng vo, đường xa diệu vợi!” Còn Hiệu Trưởng thì nói: “Em làm gì thì cứ làm cho vui, chứ trường mình là nơi đồng quê thôn dã thì có ai ngó tới mà báo cáo báo cầy mất thời gian! Nhưng dù sao cũng phải làm thế nào để trẻ em nó thích đến trường và có điều kiện đến trường. Nếu em có sáng kiến gì thì nghĩ giùm cho chị vấn đề ấy mới là thiết thực nhất!”. Chị Hiệu Trưởng đã nói đến vấn đề muôn thuở của “đẳng cấp Trường Làng”, thì ra từ xưa đến nay ai cũng nhìn thấy đó là vấn đế nan giải của “đẳng cấp Trường Làng” nhưng giải quyết nó thì..Hãy đợi đấy! Liệu mình có nghĩ ra được cách nào hay ho không?
 
9. Ngày…tháng…năm 19…: Thời gian cứ lặng lẽ, vô tư trôi đi. Thằng Làng đã tám tuổi, con Nữ đã Bảy tuổi, việc học hành của chúng nó tiến triển tốt. Mẹ thì vẫn khỏe nhưng dạo này cứ ngơ ngẩn như người mất hồn, có lẽ tại mẹ nhớ con trai. Còn tin tức về anh trai mình vẫn như cũ: mất tích! Mình chỉ còn biết ngày ngày cầu Bồ Tát phù hộ cho anh nguyên vẹn trở về!...
 
10. Ngày… tháng… năm 19… Cô em gái của mình tốt nghiệp thì được giữ lại trường, rồi học lên Cao học, rồi làm tiếp Luận văn Tiến sĩ, tính đến nay đã gần mười năm trời! Giờ thì nó lại xin về Sở Giáo dục của tỉnh theo “Tiếng gọi của Quê hương”. Nghe nó nói chuyện thì nó còn nhiều khát vọng hơn cả mình lúc mới ra trường! Tuy nhiên, gần một năm thì nó cưới chồng, chồng nó là một Nhà Doanh nghiệp ngoài Quốc doanh, chuyên kinh doanh Địa ốc, xây dựng nhà dân dụng! Nghe nó nói mà giật thót cả người: “Càng học lên cao, em càng thấy rõ rằng, cách làm tốt nhất là không làm gì cả, cứ ngồi vào đúng vị trí của mình để “Con tàu thời gian” nó đưa đi theo đúng lộ trình đã định sẵn!” Thì ra nó đã “nhập cuộc”  trước mình, còn mình thì mang tiếng là con cái đùm đìa mà vẫn “mơ theo trăng và vơ vẩn cùng mây”! Khi nó nói chuyện về tình yêu, vợ chồng, gia đình… thì quả là “dễ sợ”! Cứ như nó nói thì mình mới chỉ “mon men ở ngoài rìa” của những mối quan hệ tưởng như là đã “từng trải” đó!...
 
11. Ngày… tháng… năm 19… Có một đoàn hơn chục sinh viên do một thầy giáo hướng dẫn về Làng mình sưu tầm văn học dân gian. Sao mình ở đây đã ba đời mà không để ý, còn họ ở tận đâu đâu lại về đây “đào bới, lục lọi” khắp xóm dưới làng trên, và thật kỳ lạ, họ đã moi ra được đủ thứ nào là ca dao, tục ngữ, truyền thuyết, rồi Thần phả, Thần tích gì nữa cứ gọi là om sòm cả làng! Không ngờ bà mẹ già ngớ ngẩn nhớ nhớ quên quên của mình lại biết và thuộc nhiều những bài ca cổ xưa, những truyền thuyết cổ xưa đủ loại của làng mình như thế? Đến nỗi ông Thầy giáo hướng dẫn đám sinh viên xin đóng “Đại bản doanh” ở nhà mình và ghi âm, chụp hình bà mẹ già của mình suốt ngày, suốt đêm!...Rồi một buổi tối kia, không hiểu bằng cách nào mà ông Thầy Sưu tầm dụ được mình hát lại những bài ca mà mẹ mình đã hát cho ông ta ghi âm. Hát đến đâu ông ta ghi âm đến đó, và luôn mồm nói: “Thật không ngờ cô giáo thời nay mà hát những bài ca cổ xưa lại giống như là người cổ xưa! Chúng ta như đang lạc vào vườn Cổ tích có rất nhiều phép nhiệm màu!”…Và không biết từ lúc nào, ông Thầy Sưu Tầm đã đưa mình trở về tận những thời kỳ xa xưa nhất của Loài người: thời kỳ Nguyên Thủy, con người còn ở trong những hang động lung linh thạch nhũ!... Ông Thầy Sưu tầm đã kéo mình vào cuộc tình “dân gian” từ lúc nào mình cũng không thể xác định được!
 
Đoàn sưu tầm kéo dài thời gian công tác thêm một tháng. Rồi một tháng cũng trôi qua cái vèo! Ông Thầy Sưu tầm như là không muốn chia tay, muốn cưới mình làm Thiếp như trong phim Tàu! Mình rối trí quá không biết làm sao thì cô em gái về, thấy thế thì kêu mấy đứa “Thợ xây” ở Công ty của ông chồng, nửa đêm gói ông Thầy Sưu tầm vào cái chăn chiên rồi ném xuống ao!
 
12. Ngày…tháng…năm 19…: Sau chuyện của ông Thầy Sưu tầm, lại đến chuyện thằng Chánh con ông Chủ tịch Xă. Có dạo nghe nói nó được chọn đi học công nhân kỹ thuật công nghệ cao ở tận quê hương của Gớt, ai ngờ vài năm nó lại lù lù trở về làng làm ở văn phòng Ủy  Ban Xã. Bẵng đi vài năm không để ý, giờ nó đã giữ cái chức Chủ tịch Xã của bố nó ngày xưa! Một hôm, Chánh đến trường, gặp Hiệu trưởng rồi đòi dự khán giáo viên đứng lớp. Hiệu trưởng dẫn vào lớp mình. Suốt cả buổi, vị chủ tịch xã ngồi lim dim như ngủ! Không biết ngủ hay đang tính toán âm mưu gì?
Tan học, mình vừa đi về vừa nghĩ: Bỗng nhiên đến trường đòi dự giờ, không thể là chuyện bình thường! Mình liền gọi điện cho cô em, nói lại tình hình. Nửa giờ sau đã thấy hai “Thợ Xây” đến nói là Bà giám đốc điều tới làm vệ sĩ cho cô giáo!
Nửa đêm trôi qua, mình vừa thiếp ngủ thì thấy có tiếng lục đục ngoài cửa. Mình mở nhìn ra đã thấy hai “Thợ Xây” Vệ sĩ cầm hai đầu cái bao tải to tướng đã buộc chặt miệng bao, đi ra cổng!
Một tuần sau, nghe mấy cô giáo nói ông chủ tịch xã giờ như người tâm thần, cứ đi tới đi lui ở sân Ủy Ban, không thấy nói năng gì! Ủy ban đã họp ba ngày để bầu người thay thế mà bầu mãi không được, đang chờ Huyện xuống quyết!...
Ngày mai là ngày kỷ niệm 10 năm làm cô giáo trường làng, không biết nên vui hay buồn đây? Mẹ bỗng đến sát người lúc nào mà không biết, giật thót tim! Không hiểu sao, Mẹ lại nói như là mười năm trước đây: “Lo mà lấy chồng đi! Phải thường xuyên tới Tỉnh đội hỏi xem tin tức anh trai mày thế nào?”… Nghe mẹ nói mà mình bàng hoàng cả người, có hai việc ấy mà suốt mười năm qua mình chưa làm được sao?
sài gòn, 2009
Đỗ Ngọc Thạch
http://seablogs.zenfs.com/u/2ctx5d.cFxgv6.nAPv0WdCyTDLX2IA--/photo/ap_20090724094325412.jpg
thôn nữ ngày mùa

http://images.yume.vn/blog/201106/16/1308194710-anh_14a.jpgmùa vàng

82 truyện ngắn Đỗ Ngọc Thạch trên vietvanmoi (trích; Xóm vắng; Quanh Hồ Gươm; Ô Chợ Dừa)


Đỗ Ngọc Thạch (Năm 2010)
82 truyện ngắn trên vietvanmoi(kể cả một số chùm cực ngắn): 1- CHỊ EM SINH BA CÔ GÁI SƠN TÂY VÀ ANH LÍNH BINH NHÌ 3- SỰ NGHIỆT NGÃ CỦA SỐ PHẬN ĐỊA LINH NHÂN KIỆT 5- CHUYỆN NGƯỜI BÁN THUỐC 3 TRUYỆN CỰC NGẮN 7- SINH NGÀY 30 THÁNG 4 CÁI HÚT NƯỚC 9- CÂU LẠC BỘ VIP ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC 11- ĐI LÃNH THƯỞNG TRANH CÃI BẤT TẬN 13- NGƯỜI CUỐI CÙNG CỦA MỘT DÒNG HỌ VÕ TƯỚNG ÂM MƯU VÀ TÌNH YÊU 15- 9 TRUYỆN CỰC NGẮN 8 TRUYỆN CỰC NGẮN 17- 6 TRUYỆN CỰC NGẮN TƯỢNG NHÀ MỒ 19- CHUYỆN NGƯỜI HỎNG THI 5 TRUYỆN CỰC NGẮN 21- 4 TRUYỆN CỰC NGẮN TÔI ĐI LÀM GIA SƯ 23-  7 TRUYỆN CỰC NGẮN NHÀ SƯU TẦM VĂN HỌC DÂN GIAN VÀ NHÀ ĐỊA CHẤT 25- BẠN HỌC LỚP BỐN BẠN HỌC LỚP BẢY 27- THẾ LÀ MỢ NÓ ĐI TÂY !... XÓM VẮNG 29- THỜI GIAN NHẬT KÝ CỦA MỘT CÔ GIÁO (Trích) 31- QUANH HỒ GƯƠM LÀNG KHÔNG CÓ ĐÀN ÔNG 33- ANH NUÔI VÀ CHỊ NUÔI NGŨ HỔ TƯỚNG QUÂN 35- LỜI THỀ THỨ HAI CHUYẾN VI HÀNH CUỐI NĂM 37- SỰ LỰA CHỌN NGHIỆT NGÃ KỲ NHÂN DỊ TƯỚNG 39- VỢ CHỒNG NGHĨA NẶNG TÌNH SÂU MẸ ĐỐP 41- “HUYỀN THOẠI” LÝ TOÉT KIẾM TIỀN TIÊU TẾT 43- CÂU CHUYỆN TẤT NIÊN MẸ TÔI LÀ Y TÁ 45- LÁ THƯ TUYỆT MỆNH CHUYỆN VỢ CHỒNG 47- BĂNG NHÂN CHỜ 49- BẠN HỌC ĐẠI HỌC KÉN RỂ 51- VỤ ÁN CHIẾC NÚT ÁO CASMIA Ở TRỌ 53- Ô CHỢ DỪAMẶC CẢM Ê-ĐÍP 55- NGÀY BA MƯƠI MỐT VỤ  ÁN  XÁC  CHẾT  TRONG  BAO  TẢI 57- KÝ  ỨC  LÀM  BÁO TRỘM   LONG   TRÁO   PHỤNG 59- BA   CHÌM   BẢY   NỔI  ĐÁM   CƯỚI   VÀNG  61- BÁC  SĨ   PHÁP  Y BÁC  SĨ   THÚ  Y 63- KIM   NGÂN   ĐIỀN KÝ ỨC  MÙA  THI 65- GIAI  ĐIỆU  MÙA  HÈ BẠN  VONG  NIÊN 67- LẤY  VỢ  XẤU QUÂN  SƯ 69- ĐỊA  SỨ NGƯỜI  CÓ CON  MẮT  XANH 71- CÁ CHUỐI  ĐẮM  ĐUỐI  VÌ CON BÁT  TIÊN 73- QUẬN  HE XÁN  ĐI  SỨ 75- TAM  THẬP  LỤC  KẾ CHÚA  TRỊNH  -  NGÀY  TÀN… 77- CÔ BẠN  NGÀY  XƯA  HỌC CHUNG  MỘT  LỚP CẮM  SỪNG 79- BÁT  TIÊN (2) Ô  ĐỐNG  MÁC 81- CON  TẠO  XOAY  VẦN ĐUA CHÓ
trích giới thiệu 3 truyện ngắn về Hà Nội: Xóm vắng, Quanh Hồ Gươm; Ô Chợ Dừa
  con gái Hà Nội xưa...

XÓM VẮNG

Truyện ngắn của ĐỖ NGỌC THẠCH
XÓM VẮNG là tên một vở kịch của nhà viết kịch đã quá cố Xuân Trình. Ở đây, tôi không bàn về vở kịch ấy như thế nào mà chỉ muốn nói rằng nếu không có vở kịch Xóm vắng của nhà viết kịch thì chúng tôi không biết gọi tên khu “dân cư” của chúng tôi là gì ? Cho đến nay, đã hơn hai chục năm trôi qua, tôi đã bỏ khu “dân cư” ấy đi giang hồ tới mười lăm năm, vậy mà nay trở lại, nhìn “toàn cảnh” mảnh đất đã chôn sâu một phần hồn mình ở đấy, tôi càng nhận thấy rằng lấy tên Xóm vắng để đặt cho nó thật là thích hợp. Thích hợp tới mức không thể tìm một cái tên khác thích hợp hơn !...Đã hơn hai mươi năm trôi qua, xóm vắng của chúng tôi vẫn thủy chung với cái tên Xóm vắng và ngày càng khẳng định là xóm vắng !...
Những chuyện về xóm vắng của chúng tôi thật là nhiều, thật đa dạng muôn màu muôn vẻ và có thể kể ngàn lẻ một đêm cũng không hết. Tôi dự tính, nếu trời thương tôi, cho tôi một bàn tay ảo thuật thì từ nay, tôi chẳng phải đi “cày thuê cuốc mướn” ở đâu nữa, cứ ngồi viết truyện về xóm vắng gửi đi các báo cũng dư sống ! Cái truyện ngắn này viết nhân dịp trở lại xóm vắng sau mười lăm năm tha phương cầu thực và cũng là để “thử thời vận” nên chưa đánh số thứ tự vì nếu đánh số thì nó sẽ là “Xóm vắng I” !
Trước hết cần nói đôi dòng về địa thế của xóm vắng . Bắc giáp với khu ruộng lầy (xa xưa chắc phải là lau sậy um tùm, sau đó được dân quanh vùng cải tạo và trồng rau cần nước, còn bây giờ thì nhà cửa mọc lên chi chít, có cả nhà lầu với đủ kiểu dáng mô-đéc), đông và nam giáp với sông đen (nước cống thải của thành phố), còn phía tây là sân sau của một xí nghiệp loại nhỏ (không biết họ sản xuất gì mà quanh năm im hơi lặng tiếng, bây giờ cũng đã biến thành khu nhà cửa chi chít như ruộng rau cần phía bắc). Nhìn tổng thể, khu xóm vắng của chúng tôi có địa thế biệt lập rất lý tưởng đối với giới lục lâm thảo khấu thời xưa ! Không hiểu sao, người ta lại chọn khu đất này – vốn là một bãi tha ma hoang vắng – để xây dựng “đại bản doanh” của một cơ quan nghiên cứu cỡ quốc gia ! Xin được miễn nêu tên cái cơ quan nghiên cứu kiểu “ngâm cứu” này vì bạn đọc lại phải mất công tra từ điển danh mục các cơ quan “ngâm cứu” và chưa chắc đã thấy vì cũng như tên gọi “Xóm vắng”, chỉ được lưu hành dưới dạng dân gian truyền khẩu chứ làm gì có tên trong các loại tài liệu sổ sách địa chí hoặc hành chính, cho dù là ở cấp phường !...
Điều tôi muốn kể trước nhất là vì sao tôi lại có mặt ở xóm vắng và vì sao chưa đầy năm năm, tôi lại bỏ xóm vắng đi tha phương cầu thực ? Điều này chỉ có Li – nàng tiên của tôi nhưng đã thành cát bụi – và Mi – người tình khốn khổ của tôi nhưng nàng đã bỏ sang Úc – là biết rõ mà thôi !
Li là một cô gái đẹp tuyệt trần, đẹp tới mức không thể nói về vẻ đẹp của nàng ! Tôi gặp Li vào một buổi tối, khi tôi đến chơi với một người bạn đang làm việc ở cơ quan “xóm vắng”. Lần đầu tiên tới đây, cảm giác đầu tiên của tôi là vắng vẻ, hiu quạnh. Toàn bộ khu xóm vắng được bao bọc bằng tường gạch cao tới 2 mét. Bên trong chỉ dăm ba cái nhà loại xây tạm và những khoảng trống còn lại đều được trồng cây như công viên. “Âm thanh chủ đạo” là tiếng côn trùng và tiếng muỗi bay vo ve. Muỗi ở đây mật độ khá dày, quơ tay là bốc được một nắm ! Dân cư ở đây chưa tới chục người, gồm những người độc thân, sống rải rác trong toàn bộ khu vực “xóm vắng”. Người bạn của tôi mới về đây được vài tháng, đêm nằm ngủ cứ sợ ma vì đã nhiều lần ngủ mơ bị “ma đè” nên đã năn nỉ nhiều lần tôi tới ngủ cùng, nhưng tối nay tôi mới có dự định đáp lại yêu cầu của bạn. Ngồi uống trà tán chuyện gẫu chán, hai chúng tôi định đi ngủ thì bỗng nghe thấy tiếng khóc thổn thức thoang thoảng trong gió đâu đây. Bạn tôi chui vội vào màn, chùm chăn kín mít và nói :
- Ma khóc đấy !...Chắc là một cô gái nào đó chết oan nên thi thoảng linh hồn lại hiện về khóc lóc ! Tớ đã nghe thấy tiếng khóc này nhiều lần rồi ! Nghe tiếng khóc này tớ đoán rằng phải là một người con gái còn trẻ và rất đẹp!...
Mặc cho người bạn nói con cò con cuốc, tôi đi ra ngoài sân và định hướng xem tiếng khóc phát ra từ đâu. Chỉ sau một phút tôi đã xác định dứt khoát đó là tiếng khóc của người sống chứ chẳng có ma quỷ gì cả ! Lần theo hướng tiếng khóc, tôi lò dò đi tới đầu hồi một cái nhà dài và nhận ra dáng một người phụ nữ đang ngồi khóc nức nở bên một gốc cây nhỏ. Tiếng khóc tuy nhỏ nhưng dễ nhận ra là của một người trẻ tuổi. Tôi chỉ còn cách người con gái đó khoảng hơn chục mét thì tiếng khóc biến mất và tiếng nói cất lên :
- Đứng yên !...Chỉ bước thêm một bước ngươi sẽ chết !... - Tôi thoáng giật mình, sởn gai ốc. Nhưng khi đã nhận rõ đó là dáng người thon thả của một người con gái thì tôi yên tâm và hỏi :
- Cô là ai ? Tại sao lại đến đây ngồi khóc ?
- Nhà ngươi ở đây nhưng làm sao mà biết được đây chính là nấm mồ chôn người tình yêu dấu nhất đời của ta? Làm sao mà biết được nỗi bất hạnh tột cùng của ta?
- Chưa biết thì tôi mới phải hỏi! Cô gái bất hạnh ơi, cô hãy nói cho tôi biết đi, tôi sẽ giúp cô được điều gì chăng?
- Ngươi làm sao mà giúp được ta điều gì? Nhưng thôi, ta đã định là sẽ kể cho ai nhìn thấy ta ngồi khóc… Ngươi có hình dung ra được không, lúc người yêu ta đang đứng trên dàn dáo xây dựng ngôi nhà này thì ta đến thăm chàng. Nhìn thấy chàng đang đứng chênh vênh nguy hiểm, ta lo sợ chạy lại để gọi chàng xuống thì ta vấp phải một sô vữa và ngã nhào vào một đống vữa. Bất chợt nhận ra ta, chàng quên phắt đang đứng trên dàn dáo cao, và đã bước vào khoảng không để chạy tới cứu ta!...
Cô gái kể đến đây thì khóc thét lên như đúng cái lúc nhìn thấy người yêu mình rơi từ trên dàn dáo cao xuống ! Tôi chưa hết bàng hoàng bởi câu chuyện của cô gái thì có tiếng chân chạy thình thịch và có tiếng quát :
- Kẻ trộm !...Bắt lấy nó !...
Chỉ trong chốc lát, ba bốn bóng người lố nhố ào tới phía tôi và cô gái. Cô gái bỗng bật dậy rất nhanh và lướt tới sát tôi như một làn gió và nói nhỏ :
- Ngươi hãy đi theo ta và không cần bận tâm tới xung quanh !...
Tôi như người bị thôi miên, chạy theo cô gái trong bóng đêm. Tuy nhiên, tôi vẫn đủ tỉnh táo để nhận thấy cô gái đã dùng những miếng võ điêu luyện để “dọn sạch” những người hô bắt trộm ban nãy trên con đường mà chúng tôi chạy qua. Và tôi còn đủ tỉnh táo để nhận ra đó là những thế võ của quyền chiến Tây Sơn ở vùng đất võ mà khi còn tại ngũ tôi đã được biết đến. Tôi vừa chạy vừa nói với cô gái :
- Cô có phải là người An Vinh ?
- Ủa !...Tại sao anh lại biết quyền An Vinh ?
- Tôi đã từng đóng quân ở đấy và biết cả câu “Roi Thuận Truyền – Quyền An Vinh”
- Thế thì tốt ! Tôi đã gặp được quý nhơn rồi ! Hãy cứ đi theo tôi rồi chúng ta sẽ nói chuyện sau !...
Sau khoảng một giờ đồng hồ, Li – tên cô gái là Li – đưa tôi tới một căn nhà nhỏ ở một khu vực còn hoang vắng hơn cả cái khu “xóm vắng”. Đó là căn nhà đơn sơ nhưng gọn gàng, sạch sẽ. Trong đầu tôi nảy ra hàng trăm câu hỏi định hỏi Li nhưng cô đã kéo tôi nằm lên giường và nói :
- Anh đừng hỏi điều gì và hãy làm theo yêu cầu của em…- Và Li đã nhanh chóng đưa tôi đến một “miền đất lạ” mà từ thuở cha sinh mẹ đẻ tới giờ tôi mới biết !...Sau khi mệt lả vì cuộc ân ái nồng nhiệt với Li, tôi vừa thiếp đi được hai ba phút thì Li đánh thức tôi dậy và nói :
- Bây giờ đã đến giờ em phải ra đi !...
- Em đi đâu? – Tôi giật mình bật dậy.
- Anh cứ ngủ tiếp đi và nhớ làm giùm em việc này : Trong hai năm nữa, cứ đúng ngày ấy, anh lại ra chỗ đó thắp nhang và cầu cho linh hồn anh ấy được siêu thoát !...Hết hai năm thì anh thôi…
- Nhưng em đi đâu? Sao không ở lại đây với tôi ? Chúng ta đã thành vợ chồng rồi cơ mà ?
- Em đi đâu anh không cần biết. Còn chuyện vợ chồng, anh đừng có nghĩ tới làm gì sẽ khổ lụy, bởi em có tướng sát phu !...
Tôi bàng hoàng thảng thốt…Khi tôi định thần trở lại thì đã không thấy Li đâu nữa !...
Để thực hiện lời ủy thác của Li, tôi đã tìm cách xin về làm việc ở khu “xóm vắng” và không những thế, người ta còn cho tôi nhập hộ khẩu vào xóm vắng. Trong suốt hai năm đầu, tôi đã làm đầy đủ điều Li ủy thác. Chính việc âm thầm thực hiện lời ủy thác của Li mà có một cô gái - cũng là thần dân của khu “xóm vắng” đã để ý theo dõi tôi. Và, trong khi mọi người của xóm vắng đều nhìn việc làm của tôi như nhìn một người tâm thần thì Mi – tên cô gái ấy – lại buộc vào tôi sợi dây oan nghiệt của ái tình…Một buổi tối, sau khi tôi vừa thắp nhang cho nấm mộ vô hình kia xong, trở vào phòng ngồi uống trà hút thuốc và cho ý nghĩ bay theo hình ảnh mờ ảo của Li thì Mi đột ngột xuất hiện !
- Anh biết người thanh niên đã chết hay là biết cô gái người yêu của anh ta ?
- Trời đất !...Sao Mi cũng biết mối tình bi thương ấy?
- Em là bạn của Li đây !...
- Là bạn của cô Li ? Chuyện thật là kỳ lạ !...
- Chưa hết đâu, lúc trước anh chàng ấy còn là người yêu của em !
- Lại thế nữa ? Đúng là tiểu thuyết !...Nhưng sau đó vì sao mà Mi lại thôi ?
- Em đâu có thôi !...Vì bố mẹ em bắt em lấy chồng …
- Ông chồng bây giờ đang đi nghiên cứu sinh chứ gì ?
- Đúng !...Cái Li nó có tướng sát phu dữ lắm ! Nó yêu ai người đó cũng chết bất đắc kỳ tử ! Ba chàng trai chết vì nó rồi đấy !...
- Trời ơi ! Thật vậy sao ? Nếu thế thì tôi …
- Anh định nói nó cũng yêu anh chứ gì ? Không đâu, chắc là anh đã ăn nằm với nó, nhưng đừng nghĩ là nó yêu anh ! Nó đã biến mất như nàng tiên bay về trời sau lần gặp anh chứ gì ?
- Sao Mi lại biết chuyện ấy ?
- Nhìn cái việc anh làm là biết liền à !...Thôi, anh hãy quên cái Li đi và hãy biết rằng vì câu chuyện tình ấy mà anh đã gặp em ! Anh hãy yêu em đi !...
- Nhưng em có chồng rồi cơ mà !...
- Anh hãy yêu em nhưng đừng có nghĩ đến chuyện chúng mình lấy nhau. Em có tướng “vượng phu ích tử”, ai yêu em đã trở nên sung sướng , khá giả. Chồng em ngày xưa cũng khổ sở , cô đơn, cơm niêu nước lọ như anh đó !...Em thương anh…
Nói rồi Mi kéo tôi vào vòng tay vừa nóng bỏng vừa mát lạnh của em…Từ hôm đó, tôi lao vào mối tình vụng trộm với Mi như con thiêu thân. Dù kín đáo đến mấy, cuối cùng chuyện của tôi và Mi cũng lộ ra. Người đầu tiên phát hiện chính là ông Sếp của tôi. Sau này, Mi đã nói cho tôi biết rằng ông Sếp đã nhiều lần nhìn thấy tôi và Mi ân ái với nhau, và mỗi lần nhìn thấy như vậy, ông ta đều đứng ngây ra và “soóc-ti” ra đầy quần ! Không kìm được, ông ta đã buộc ép Mi phải chấp nhận mối tình của ông với Mi nếu không sẽ “đì” tôi không ngóc đầu lên được!...Ở vào tình thế nan giải như thế, nhân dịp hết hạn làm cái việc mà Li ủy thác trước đây, tôi xin chuyển công tác vào Tây Nguyên (thay vì cho việc tôi sẽ được đi “Tây” làm nghiên cứu sinh như Mi đã dàn xếp với ông Sếp) với hi vọng sẽ tìm thấy Li ở vùng đất quê hương của Li. Nhưng khi về đến quê Li, tôi được biết Li đã chết trong một trận đánh không cân sức với một bọn cướp có trang bị cả súng đạn. Đau khổ, tôi quay trở về tìm Mi, nhưng Mi đã đi theo chồng sang định cư ở Úc !...Buồn bã, tuyệt vọng , tôi cư trú tạm thời ở xóm vắng được nửa năm thì bất ngờ ông Tơ bà Nguyệt bắt tôi lấy vợ thực sự ! Lấy vợ, có con, tưởng chừng sẽ định cư vĩnh viễn tại xóm vắng, ấy vậy mà tôi lại phải “khăn gói quả mướp” ra đi với lời khuyên của một ông bạn già : “Xóm vắng là vùng đất dữ, cậu không trụ được đâu!”. Tại sao xóm vắng là vùng đất dữ, cho đến bây giờ, sau 15 năm giang hồ tôi mới hiểu ra. Và muốn kể nhiều về điều này, phải chờ một dịp khác !...
Sài Gòn, 1997-2009
Đỗ Ngọc Thạch



QUANH HỒ GƯƠM

Truyện ngắn của ĐỖ NGỌC THẠCH

1.
“Quanh Hồ Gươm không ai bàn chuyện Vua Lê…” , biết là như thế, vậy mà khi đi dạo quanh Hồ Gươm, thấy có ai đang nói chuyện với nhau, tôi cũng đi sát họ và dỏng tai nghe xem họ có bàn chuyện Vua Lê hay không? Đó là thói quen thứ nhất và không hề mất đi của tôi.
Thói quen thứ hai là đã đến Hồ Gươm thì động tác đầu tiên là ngó nhìn xuống mặt hồ xem Rùa có nổi lên hay không? Nếu có thì reo lên rồi chỉ chỏ kêu người đứng gần tới xem, còn nếu không có thì chốc chốc lại ngó xuống mặt hồ tìm kiếm. Thói quen này cũng không hề mất đi.
Thói quen thứ ba là đã đến Hồ Gươm thì thế nào cũng phải ăn kem Bờ Hồ, bất kể mùa hè hay mùa Đông. Cụm từ “Kem Bờ Hồ” để nói về hai vị trí: Kem que bán ở cái Ki-ốt nằm trên bãi đất trống ở góc có hai đường cắt nhau là đường Lý Thái Tổ và đường Tràng Tiền và Kem Cốc (Ly) bán ở trong Nhà Thủy Tạ. Tôi xin đưa ra nhận xét về Kem Bờ Hồ rằng: Tính từ năm 1954 (năm tôi về sống ở Hà Nội) trở lại đây, chất lượng ngày càng kém đi. Mỗi lần từ phương xa trở về Hà Nội, tôi đều đến Bờ Hồ ăn Kem và đều phải nuối tiếc cái cảm giác tuyệt vời khi “ăn Mùa Đông” đã bị mất dần độ khoái cảm!...

Lúc còn nhỏ, việc đi chơi Hồ Gươm là một việc quan trọng, phải được bố trí, sắp xếp trước bởi nhà tôi ở khá xa Hồ Gươm, và lúc đó, đi dạo công viên hoặc đi dạo Hồ Gươm là hình thức giải trí “Cao cấp” của tầng lớp “Quý tộc” hoặc giới ăn trắng mặc trơn nhàn hạ. Tuy nhiên, ngày Chủ Nhật, ngày Lễ, Tết thế nào anh chị em chúng tôi cũng làm một chuyến đi chơi Bờ Hồ. Đối với trẻ con lúc ấy (cuối những năm 1950), Bờ Hồ còn có món đặc sản rất hấp dẫn nữa là “Thịt Bò khô”, bán trên cái tủ cơ động của mấy người Việt gốc Hoa, thường tụ tập ở gần bến Xe Điện Bờ Hồ…

Không hiểu tôi có cơ duyên gì với Hồ Gươm mà có tới ba lần sống gần Hồ Gươm và Hồ Gươm trở thành một phần quan trọng trong Ký ức của tôi về Hà Nội…

Lần thứ nhất là vào tháng 8 năm 1966, tôi có giấy gọi vào Khoa Toán trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, (lúc đó đã sơ tán về tận huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên) nhưng vì bố tôi muốn tôi vào Trường Đại học Y Dược Hà Nội, tôi lại không nghe theo nên ông đã giận mà xé giấy gọi của tôi đi, đồng thời không cấp “Lộ phí” cho tôi đi Thái Nguyên! Không còn cách nào khác, tôi phải đi làm thuê kiếm tiền và rất may cho tôi, sau khi làm một giấc ngủ ngon lành trên băng ghế đá ở góc Bờ Hồ , đối diện nhà hàng Phú Gia ở bên kia đường Lý Thái Tổ, tôi tính vào nhà hàng này làm một bữa no cho biết mùi “Nhà giàu” (Phú Gia) thì thấy một bà già đi bộ bị một người đi xe mô-by-lét (xe máy tay ga loại nhẹ khá phổ biến ở Hà Nội lúc đó) quệt phải người, ngã lăn quay giữa đường, tôi liền đỡ bà cụ dậy và đi về phía nhà hàng Phú Gia. Vừa tới trước cửa nhà hàng Phú Gia thì có một người đàn ông trung niên đi từ trong nhà hàng ra, nhìn thấy tôi dìu bà cụ tới thì giật mình ào tới, hỏi han rối rít…Thì ra ông ta là đầu bếp trong nhà hàng Phú Gia, sau khi biết rõ tình cảnh và nguyện vọng của tôi, đã cho tôi vào làm phụ bếp và tôi cũng xin được ngủ đêm tại Nhà hàng.
Lần thứ hai là khi tôi còn đang học tại Khoa Toán ĐHTH (lần thứ hai, sau khi đi lính về), tôi thường về nhà người bạn ăn ngủ, ở ngay đầu phố Cầu Gỗ, đối diện bến xe Điện Bờ Hồ.
Lần thứ ba là khi tôi làm việc (và ăn ngủ tại phòng làm việc) tại Viện Văn học, ở phố Lê Thái Tổ, không sát Hồ Gươm nhưng cũng chỉ bước vài bước qua phố Hàng Dầu là tới Hồ Gươm.
Truyện ngắn Quanh Hồ Gươm này chủ yếu nói về ba lần sống bên Hồ Gươm đó!...
2.
Từ lúc được sinh ra đời, tôi chưa bao giờ nghĩ đến cái Chết (mặc dù đã phải đối mặt với không ít hiểm nguy), cho nên tôi thực sự ngạc nhiên khi thấy có người tự tìm đến cái Chết (tự tử) và không hiểu tại sao họ lại muốn chết? Một buổi chiều bình lặng, khoảng bốn, năm giờ, tôi vừa đi dạo một vòng quanh Hồ Gươm, tính vào cầu Thê Húc ngắm cảnh hoàng hôn quanh hồ, vừa đặt chân lên cầu thì thấy ở giữa cầu, có một người vừa nhảy xuống hồ. Tôi chạy lại, ngó xuống thì thấy đó là một người đàn bà, đầu còn ló trên mặt nước, hai tay đập nước loạn xạ! Tôi liền nhảy xuống, tóm tóc người đàn bà lôi vào bờ!...Thì ra chị ta chính là phục vụ bàn của nhà hàng Phú Gia, nơi tôi đang làm phụ bếp! Khi nhận ra tôi, chị ta nói: “Chú cứu tôi làm gì! Tôi đã bị lừa, bị cướp đi cái quý giá nhất của người con gái, còn sống làm gì nữa?” Tôi bảo: “Chị bị lây bệnh thất tình của các tiểu thư đài các trong tiểu thuyết ái tình rồi! Không có cái gì quý giá bằng sinh mạng! Chị hãy quên “chuyện lừa đảo” ấy đi, nó cũng chỉ như người ta bị mất trộm mà thôi! Nếu có bản lĩnh thì nghĩ cách báo thù, cho kẻ Sở Khanh kia một bài học là xong! Đó là cách nghĩ của người lao động chúng ta!”. Chị ta suy nghĩ một lúc thì thở dài rồi nói: “Cậu còn trẻ tuổi mà sao nghĩ sự đời rành mạch quá, tôi sẽ nghe theo cậu! Nhưng tôi phải nhờ cậu bày cho một mưu kế để trả thù thằng cha Sở Khanh kia, hắn thường đến ăn ở nhà hàng Phú Gia đó!”…Tôi liền bày cho chị ta một mẹo nhỏ trong “Tam thập lục kế”. Ba ngày sau, chị phục vụ bàn gặp tôi nói: “Mẹo của anh hay quá, nhưng liều thuốc mê tôi cho vào ly rượu của hắn lại lấy nhầm gói thuốc độc, nên hắn đã chết luôn rồi! Bây giờ phải làm sao?” Tôi nói ngay: “Thì kéo hắn ra khỏi cái buồng Thuyền trưởng rồi thả xuống sông nhờ Long Vương phán xử!” (gã Sở Khanh Kia là Thuyền trưởng một con tàu vận tải đường sông). Thời gian cứ bình thản trôi đi mà không thấy chị phục vụ bàn nói gì, chắc không ai điều tra về cái chết của gã Thuyền trưởng vì điều tra làm sao khi trong phòng Thuyền trưởng của gã có rất nhiều dấu vết và hiện vật của rất nhiều cô gái khác nhau và điều đặc biệt là người ta còn tìm thấy trong một cái thùng giấy các-tông có tới ba chục bộ đồ lót của ba chục cô gái khác nhau!...Thì ra gã Thuyền trưởng là một “Yêu râu Xanh” đã làm hại đời biết bao cô gái dại dột! Lão ta chết cũng đáng đời!...

Một tuần sau nữa, chị phục vụ bàn cưới chồng, chồng là cửa hàng trưởng một cửa hàng ăn uống khác, thường qua lại Phú Gia. Sau khi giới thiệu tôi là ân nhân cứu mạng trong vụ nhảy cầu Thê Húc, người chồng liền đưa tôi một món tiền lớn gọi là ủng hộ “Sinh viên nghèo” làm lộ phí lên Đại Từ, Thái Nguyên nhập học!...”. Tôi cảm tạ vô cùng vì tính ra cho đến lúc đó, tôi làm phụ bếp ở nhà hàng Phú Gia đã gần một tháng mà vẫn chưa để dành được đồng nào vì cứ mỗi tuần lĩnh tiền xong, tôi lại vào Nhà Sách Tràng Tiền và mê mẩn thế nào mà mua sách hết số tiền công mới được nhận!...
3.
Trong thời gian ở nhà anh bạn ở phố Cầu Gỗ (gọi là phố Cầu Gỗ nhưng tôi chẳng thấy có cái cầu bằng gỗ nào?), tôi cũng thường xuyên đi dạo quanh Hồ Gươm và cũng thường lên cầu Thê Húc bởi mỗi khi tới cầu Thê Húc là lại nhớ đến vụ nhảy cầu năm xưa của chị phục vụ bàn nhà hàng Phú Gia. Hôm ấy, tôi vừa đặt chân lên cầu Thê Húc thì hệt như cái hồi năm 1966, tôi vụt thấy ở giữa cầu có người vừa nhảy xuống hồ! Tôi lại nhảy xuống và tóm tóc nạn nhân lôi vào bờ. Và tôi thật sự kinh ngạc khi nạn nhân lại chính là người phụ nữ đã nhảy cầu năm năm trước, tức chính là chị phục vụ bàn nhà hàng Phú Gia ngày xưa!... Chị ta cũng kinh ngạc khi nhận ra tôi rồi òa khóc, hồi lâu mới nói: “Chồng tôi bây giờ nó có nhân tình trẻ đẹp, nó không còn ngó ngàng gì đến vợ con nữa! Vậy thì tôi sống mà làm gì? Mà tại sao lại là anh? Anh cứu tôi mà làm gì?” Tôi nói: “Sao chị cũng không đi kiếm nhân tình giống như ông ấy? Chị không thể chịu thua ông ấy được, chị không biết câu “Ông ăn chả bà ăn nem” sao? Việc gì mà lại dại dột đi tìm cái chết?” Chị ta nghe nói vậy thì như là bừng tỉnh sau cơn mê ngủ, sau đó sửa sang lại nhan sắc, để trái tim hòa cùng nhịp sống! Chẳng mấy chốc ong bướm lượn lờ quanh mình, chỉ quờ tay ra là bắt được nhân tình, nhân ngãi! Từ đó mải mê với những cuộc tình gió trăng, chị ta quên luôn chuyện người chồng phụ bạc!...

Người bạn tôi ở Cầu Gỗ cũng đi lính với tôi một đợt năm 1966, học ở Khoa Lý, lại trúng tuyển vào Không quân, được sang Liên Xô học lái máy bay nhưng sau đó do sức khỏe có vấn đề nên lại trở về trường cùng một đợt với tôi, lại học ở khoa Lý. Người bạn này rất quan tâm đến cuộc sống của bạn bè và thường khuyên tôi nên cưới vợ cho ổn định cuộc sống. Một hôm, anh dẫn tôi đến nhà một người quen, trên đường đi, anh nói: “Tôi có người bà con họ hàng xa, đã một đời chồng, hiện sống với cô con gái bốn tuổi, nhà cửa đàng hoàng, làm việc ở một cửa hàng ăn uống, không lo đói! Tôi đã nói chuyện về ông với chị ta, cơ bản là xong rồi, chỉ còn ở phần của ông nữa mà thôi!”. Nhưng khi chúng tôi tới nhà người họ hàng của anh bạn thì người ở trong nhà là chủ nhà mới, người này nói chị chủ nhà cũ (tức người bà con với anh bạn tôi) đã bán nhà cho anh ta được ba ngày nay và hình như đã vào Sài Gòn rồi! Anh bạn tôi nghe nói vậy thì lẩm bẩm: “Đúng là cuộc sống luôn vận động nhanh và mạnh hơn ta nghĩ!” Còn tôi thì sực nhớ ra rằng cách đây một tháng, tôi đã đưa chị phục vụ bàn ở chân cầu Thê Húc về chính ngôi nhà này. Thì ra người bà con họ hàng xa mà anh bạn tôi định giới thiệu cho tôi lại chính là người đã hai lần nhảy cầu Thê Húc để tìm cái chết! Lần này chị ta đi vào phương Nam xa xôi ngập nắng, chắc sẽ là điều tốt bởi từ lâu chị ta thường hay nói câu: “Tôi muốn đi thật xa, đến một nơi nào đó không biết tôi là ai, tôi sẽ làm lại từ đầu!”. Tôi thường nghe câu nói này ở khá nhiều người và tôi luôn nghĩ, sao người ta không “làm lại từ đầu” ở ngay nơi đã sống, đã quen thuộc?
4.
Tám năm sau, tôi về làm việc ở Viện Văn học, ăn ngủ ngay trong phòng làm việc ở 20 Lê Thái Tổ, coi như cũng là ở cạnh Hồ Gươm. Ngày nào tôi cũng đi dạo quanh Hồ Gươm ít nhất là ba lần: sáng chạy bộ quanh Hồ Gươm hai vòng, trưa đi tới Thư viện Quốc Gia ở phố Tràng Tiền cũng phải qua Hồ Gươm và khoảng Mười giờ đêm thường đi dạo quanh Hồ Gươm vì đọc sách và viết bài gì đó xong thì… đói!

Có lẽ thời gian từ nửa đêm về sáng ở quanh Bờ Hồ là có nhiều chuyện nhất với đủ các sắc thái tình cảm khác nhau. Ở đây, tôi chỉ rút ra hai, ba chuyện có liên quan tới đề tài của Truyện ngắn này!
Một hôm, như mọi ngày, tôi vừa viết xong một bài tiểu luận bắt buộc thì đã mười một giờ đêm. Bụng đói cồn cào, tôi liền tới Phở Thìn tự thưởng cho mình một tô đặc biệt. Ăn được nửa tô thì có một người thiếu phụ khoảng hơn năm chục tuổi bước vào, ngồi xuống bàn cạnh bàn tôi. Bà ta lặng lẽ ăn phở, bình tĩnh, thong thả … Khi ăn xong tô phở, tôi nhìn lại người thiếu phụ và bỗng nhận ra bà ta chính là người đã hai lần nhảy từ cầu Thê Húc xuống Hồ mà tôi đã nói trên. Tôi định hỏi chuyện bà ta nhưng lại nghĩ, “Trời đánh còn tránh miếng ăn”, người ta đang ăn không nên làm phiền và lỡ ra nhận lầm người thì sao? Tôi liền ra khỏi quán phở và đi về phía cầu Thê Húc. Không có ai trên cầu. Tôi đi vào cầu và khi tới giữ cầu thì ngồi xuống, dựa lưng vào thành cầu. Gió nhẹ thổi, không khí mát lạnh khiến cho tôi có cảm giác buồn ngủ và cái ngủ ập tới từ lúc nào!...
Tôi đang mơ màng với những ý nghĩ và hình ảnh lộn xộn thì nghe có tiếng nói rì rầm: “Có ai đang ngồi trên cầu thế này? Đúng chỗ của chúng ta!”, “Đệ tử Cái Bang chứ còn ai nữa! Mặc kệ người ta! Chúng ta tiến hành đi!”, “Nào, ba chúng ta cầm chặt tay nhau. Đào nói trước đi!”, “Thưa Thần Rùa, em là Hoa Đào, 18 tuổi, nguyên học sinh lớp 12A1, vì thi trượt Đại học mà bị bố mắng nhiếc thậm tệ rồi đuổi khỏi nhà! Em xin xuống làm nô tỳ cho Phu nhân Thần Rùa!”, “Thưa Thần Rùa, em là Hoa Cúc, 18 tuổi, nguyên học sinh lớp 12A1, bị bạn trai bỏ rơi rồi lại bị thầy giáo Chủ nhiệm cưỡng bức, có thai đã ba tháng! Em xin xuống làm nô tỳ cho Phu nhân Thần Rùa!”, “Thưa Thần Rùa, em là Hoa Lan, 18 tuổi, nguyên học sinh lớp 12A1, em không thể học được vì khó quá, mà bố mẹ cứ bắt em học. Em bỏ nhà đi hoang nhưng đi hoang thì đói và rét, lại không có chỗ ngủ. Vậy em xin xuống làm nô tỳ cho Phu nhân Thần Rùa!”. Tôi nghe các cô bé nói khá rõ nhưng muốn mở mắt ra nhìn mà không được, muốn đứng dậy mà đôi chân như không phải của mình! Tôi thoáng nghĩ, đây hẳn là một vụ tự tử tập thể, vậy phải ngăn lại ngay! Tôi định la to “Dừng lại!” nhưng mồm lưỡi cũng như là không điều khiển được! Rồi có tiếng “ùm” rất lớn và nước từ dưới hồ văng lên người tôi như một cơn mưa bóng mây! Vừa ngớt “cơn mưa bóng mây”, mắt tôi mở ra được và nhìn rõ mọi vật xung quanh thì thấy người thiếu phụ ở quán Phở Thìn ban nãy xuất hiện và nói: “Chào cậu! Cậu bị “Đóng băng” rồi, chỉ nghe chứ không cử động gì được! Từ trong quán Phở Thìn, tôi đã nhận ra cậu, những tưởng cậu sẽ lại ngăn cản tôi xuống Thủy Cung, nhưng lần này thì cậu bị “Đóng băng”, chẳng thể làm gì được đâu! Cậu muốn biết tại sao tôi lại muốn chết chứ gì? Bởi vì thằng “Bồ” của tôi nó thật táng tận lương tâm, sau khi “no xôi chán chè”, nó bán cả hai mẹ con tôi cho một “ổ Nhện” ở tận bên Campuchia! Nói sao hết nỗi tủi nhục ê chề, con gái tôi đã mất tích! Tôi không thể bỏ xác nơi đất khách quê người được, tôi phải trở về lòng Hồ Gươm, nơi có người mẹ trẻ của tôi đã an nghỉ từ thế kỷ trước!” Tôi thoáng nghĩ, thì ra người mẹ của bà ta cũng đã trầm mình nơi đây, hèn chi cứ gọi con gái hoài! Tôi định nói lời từ biệt với người thiếu phụ nhưng bà ta đã nhảy xuống hồ từ lúc nào, nước hồ lại văng lên người tôi như cơn mưa bóng mây!...
Mười năm sau, tôi mới có dịp trở lại Hà Nội sau những năm dài phiêu bạt giang hồ. Đêm hôm ấy, tôi ra Hồ Gươm và vừa đặt chân lên cầu Thê Húc thì thấy một thiếu nữ chưa tới tuổi đôi mươi đang đứng khóc giữa cầu. Cô gái vừa khóc vừa nói nên nghe không rõ lắm, khi tôi lại gần mới nghe được rõ đoạn cuối: “…Mẹ ơi, con chưa thể xuống với mẹ được vì chưa tìm thấy kẻ thù của mẹ con mình! Con xin hứa là sẽ tìm bằng được dù nó có phép thăng thiên, độn thổ hay tàng hình!...Mẹ hãy phù hộ cho con, mẹ ơi!...”. Tôi đi sát tới cô gái thì giật mình kinh ngạc vì cô ta giống người thiếu phụ đã ba lần nhảy xuống hồ từ cầu Thê Húc như hai giọt nước!
Sài Gòn, Trung tuần tháng 11-2009
Đỗ Ngọc Thạch

Ô CHỢ DỪA

Truyện ngắn của ĐỖ NGỌC THẠCH

Phải đến năm 1980 tôi mới chính thức trở thành cư dân của Ô Chợ Dừa, tức là lúc tôi từ Viện Văn học ở phố Lê Thái Tổ (gần Hồ Hoàn Kiếm – tức Trung tâm Thủ đô) chuyển về cơ quan Tạp chí Nghiên cứu Nghệ thuật, nằm bên đường Đê La Thành thuộc địa phận phường Ô Chợ Dừa. Nói đến các cửa ô ở Hà Nội là nói đến vùng ngoại vi của Thành Thăng Long xưa, chứ bây giờ tất cả các cửa ô của Hà Nội đều đã trở thành Trung tâm sầm uất, đô hội của Thủ đô chứ không còn một chút gì gợi nhớ vùng ngoại vi, vùng ven đô nữa! Tuy nhiên, sự chuyển chỗ làm (và cũng có nghĩa là chỗ ở vì tôi làm ở đâu là ở luôn đó, nằm lên bàn làm việc luôn), của tôi từ khu Trung tâm Bờ Hồ ra vùng cửa Ô Chợ Dừa vẫn bị gia đình, bạn bè cho là dại dột, giống như bỏ chỗ sáng ra chỗ tối! Song, tôi lại nghĩ đó là duyên phận, tức số phận tôi đã gắn bó với Ô Chợ Dừa lầm bụi từ kiếp trước!

Thực ra từ năm 1970, lúc tôi ra quân, trở về tiếp tục học lại tại Khoa Toán Trường ĐH Tổng hợp Hà Nội, thì gia đình tôi đã chuyển từ Hải Phòng về Hà Nội được hai năm và ở trong khu tập thể Bộ Y tế trên đường Giảng Võ. Thời gian đầu, tôi ở ngoại trú, hàng ngày đạp xe từ Giảng Võ tới Khoa Toán ở Khu Thượng Đình (đối diện khu Nhà máy Cao – Xà – Lá) cho nên ít nhất là mỗi ngày tôi đã đi qua Ngã năm Ô Chợ Dừa hai lần! Con đường từ Giảng Võ – đê La Thành – Ngã năm Ô Chợ Dừa – Hàng Bột – Ngã Tư Sở - Bến xe điện Cao-Xà-Lá – Khu Thượng Đình đã trở thành quen thuộc đối với tôi, như mạch máu trong cơ thể. Thêm nữa, tôi có người bạn học cùng lớp Khoa Toán lúc ấy, tên là Vũ, có nhà ở ngay chỗ chuyển tiếp từ đường Đê La Thành qua Hàng Bột nên tôi thường vào đây chơi và vì thế, có thể nói cửa ô Ô Chợ Dừa đã rất thân thuộc đối với tôi từ năm 1970. Ở ngay cạnh nhà bạn Vũ, có Bưu Điện Ô Chợ Dừa, là nơi tôi thường xuyên tới mua báo, gửi thư và nhận Bưu kiện, thư bảo đảm…Chợ của Ô Chợ Dừa khá đặc biệt: toàn bộ khu chợ thấp hơn mặt đường đê La Thành khoảng năm mét, cho nên muốn xuống chợ phải tụt dốc khá nguy hiểm, ai đi không quen có thể sẽ té ngã vài lần! Có lẽ vì khu chợ khá đặc biệt như vậy cho nên tên của chợ được lấy làm tên cửa ô?
Nếu lần giở các tài liệu thư tịch cũ, ta sẽ thấy Ô Chợ Dừa thường được nhắc tới trong “Top 5 cửa ô” còn sót lại của 16 cửa ô (có nơi nói 21?) của thành Thăng Long xưa: Ô Quan Chưởng, Ô Cầu Giấy, Ô Chợ Dừa, Ô Đông Mác, Ô Cầu Dền. Và trong 5 cửa ô còn sót lại trong ký ức của người dân Hà Nội thì chỉ có Ô Quan Chưởng là còn gần như nguyên vẹn kiến trúc cửa ô ban đầu, trong khi bốn cửa ô kia chỉ còn cái tên mà thôi! Song, việc chỉ còn lại cái tên mới gợi nhiều suy nghĩ, nhất là đối với những người có nhiều trí tưởng tượng. Chẳng hạn như có một nhà thơ người Hà Nội, tên là Thi Hào Nam, có một dạo, cứ vào khoảng nửa đêm giờ Tý lại đến nhà tôi (lúc đó tôi đang ở trong cơ quan Tạp chí Nghiên cứu Nghệ thuật), rủ tôi ra ngã Năm Ô Chợ Dừa uống rượu rồi cứ đi tìm vị trí đích thực của cửa ô ngày xưa ở đâu? Mỗi lần đứng ở một vị trí mà ông cho rằng đó chính là vị trí của cửa ô ngày xưa, ông lại đọc câu thơ như là bùa chú: “Nếu đây là nơi cửa ô ngàn xưa / Thì ta xin hóa thành con ngựa đá / Nếu đây là nơi em đứng mộng mơ / Thì ta xin hóa thành xanh thảm cỏ!”. Tôi thường nói: “Những cái gì nó đã qua đi, không thích ở lại, thì cho nó qua! Chẳng nên gượng ép làm gì uổng công!”. Nhà thơ như là nổi giận, nói: “Không được! Nó trôi qua không có nghĩa là nó không thích ở lại! Nhiệm vụ của những thế hệ sau là phục dựng lại những cái đã trôi qua và muốn biến mất của quá khứ!”. Lúc đó, tôi cho rằng nhà thơ này gàn dở nên chẳng bao giờ tranh luận dài dòng. Mặc cho ông ta đi xác định vị trí đích thực của cửa ô ngày xưa, tôi ngồi uống hết chai rượu! Và thật kỳ lạ, lần nào cũng vậy, cứ gần hết ly rượu cuối cùng là tôi lại mơ màng ngủ gà ngủ gật và thấy ngay chỗ tôi ngồi hiện lên một cái cửa ô rất cao lớn, uy nghi đường bệ và thấy rất đông văn nhân sĩ tử nối nhau đi qua cửa ô, đi thẳng đến Văn Miếu – Quốc Tử Giám!

Nhà thơ người Hà Nội có tên là chính Làng quê mình mà tôi vừa nói tới ở ngay trong Làng Hào Nam, tức từ trên đê La Thành, đổ dốc qua khu vực cơ quan Tạp chí của tôi (cùng một vị trí này là bốn viện nghiên cứu thuộc Bộ Văn hóa : Viện Văn hóa, Viện Mỹ Thuật, Viện Sân khấu, Viện Âm nhạc) là địa phận làng Hào Nam. Nhà thơ của tôi có thể là một “Nhà Hà Nội học” ngang ngửa với không ít những “Nhà Hà Nội học” nhưng có vẻ như là một “Nhà Hào Nam học” số một. Ông có thể nói vanh vách về Làng Hào Nam của mình từ thuở sơ khai đến nay và có thể nói trúng không sai một chữ rằng đã có những tài liệu nào, cuốn sách nào nói về làng Hào Nam của ông. Khi có ai muốn hỏi ông điều gì đó về Làng Hào Nam thì trước tiên là nghe ông nói chậm rãi, thong thả như cha cố giảng đạo, như sư thầy đọc kinh những nội dung sau:

“Đình và đền ở Làng Hào Nam (Ô Chợ Dừa, Đống Đa, Hà Nội) là một trong những cụm di tích lịch sử văn hóa rất độc đáo và có nhiều giá trị văn hóa hiếm có hiện còn trên địa bàn Hà Nội.

Đình là một trong 13 nơi thờ Thánh Linh lang Đại vương, còn đền là nơi thờ Vạn ngọc Thuỷ tinh công chúa. Đã thành thông lệ, từ ngày mùng 10 đến 13 tháng Hai Âm lịch hàng năm, người dân nơi đây lại tổ chức lễ hội nhằm tưởng nhớ công lao của các đấng linh thiêng.

Theo sử sách đã ghi, Linh Lang Đại vương sinh năm 1030, là con của vua Lý Thái Tông, năm 1077 ông hy sinh khi cùng Lý Thường Kiệt sau khi đánh tan quân Tống trên sông Như Nguyệt. Trước khi mất, ông nói với vua cha: “Ta là con thần Rồng nước lên giúp vua đánh giặc giữ nước, xong công việc rồi phải trở về cùng Rồng nước”. Sau đó, ông được phong là Linh Lang Đại vương thượng đẳng tối linh thần.Vua Lý Thái Tông sai lập đền, miếu thờ ông ở các nơi như: Trại Thủ Lệ ngay chỗ cung bà mẹ ở; Làng Bồng Lai quê hương bà mẹ và các làng Đại Quan, Hào Nam là những nơi ông đã trú quân. Đền Hào Nam thờ bà Thủy Tinh công chúa, tức công chúa phù Thái úy Lý Thường Kiệt đánh giặc Tống trên sông Như Nguyệt. Đình – đền Hào Nam là một trong những cụm di tích cổ ở Hà Nội thuộc diện “Tối Linh Từ”. Bao năm nay người dân nơi đây ý thức rất rõ về công lao của các anh hùng có công với đất nước nên không ngừng giữ gìn, tôn tạo, tu bổ công trình. Theo lưu truyền trong dân gian, năm nào cũng vậy, mỗi khi Hào Nam tổ chức lễ hội, rước kiệu lên Thủ Lệ (nơi chính thờ Linh Lang) thì đều có hiện tượng “kiệu bay”, người dân thường nhắc nhau câu thơ: “Dân Hào Nam niềm vui khôn xiết / Khách thập phương dâng lễ rất đông / Dân ta con cháu Lạc Hồng / Hào Nam - Thủ Lệ lạ lùng kiệu bay”.

Đình - đền Hào Nam có kiến trúc độc đáo với kiểu dáng và họa tiết cũng như bài trí theo cách truyền thống xưa. Đình được thiết kế theo hình chữ Đinh, đền thì hình chữ Tam. Toàn bộ đều được chạm bọng, chạm lộng, tinh tế. Hai đầu của đình có rồng vờn mây. Nhất là trên hai cột đồng trụ nghi môn có thượng cầm hạ thú, dưới cột thay hình Long, Lân, Quy, Phượng của ngôi đình khác, ở đây chỉ có duy nhất chữ “Linh”. Điều này phần nào đã nói rõ tất cả sự linh thiêng cũng như khác biệt của đình Hào Nam. Ngoài ra, ở hai bên đầu hồi đình, cạnh cột đồng trụ có gắn bức phù điêu cá chép hóa rồng. Bởi Hào Nam là vùng trũng, nhiều tôm cá, đây cũng là một nét văn hóa vật thể làm nên cái riêng, cái đặc sắc của Hào Nam. Nằm ngay bên cạnh là năm gian tiền bái và hai bên tả vu, hữu vu của ngôi đền, bên trong mọi họa tiết vẫn được giữ nguyên như thuở ban đầu. Đặc biệt là hình của hai ông Nghê, toát ra vẻ mặt thiêng liêng và đầy nghiêm khắc của người kiểm soát linh hồn kẻ hành hương. Nơi đây vẫn giữ được một không gian văn hóa cổ kính và linh thiêng với hàng chục cây cổ thụ trăm năm tuổi, những văn chỉ thờ đức Khổng Tử cũng như nơi thờ thầy đồ Vũ Thạch đã có công mở trường dạy học cho người Hào Nam…

Tự hào về truyền thống lâu đời của mình, cứ vào ngày 10 tháng 2 âm lịch hàng năm, chính quyền và nhân dân Hào Nam làm lễ rước kiệu Đức thánh Linh Lang Đại vương về miếu thờ mẹ ông ở Thủ Lệ và đến ngày 13 tháng 2 âm lịch lại võng lọng rước về đình - đền Hào Nam, tưởng nhớ truyền thống anh hùng dựng nước và giữ nước của cha ông ta và lịch sử hiển hách, ngàn năm văn hiến”.
Nếu tính từ năm 1970, tức là thời gian tôi mới “làm quen” với Ô Chợ Dừa, đến năm 1980, là năm tôi đã trở thành cý dân chính thức của Ô Chợ Dừa, nhập hộ khẩu vào Ô Chợ Dừa, thì là cả một thời gian dài 10 năm. Vậy mà lạ lùng thay, ngày đầu tiên “dọn nhà” về Ô Chợ Dừa, tôi vẫn có cảm giác như đến một vùng đất hoàn toàn mới. Bằng chứng là buổi tối đầu tiên về ở Ô Chợ Dừa, tôi thả bộ đi ra ngã Năm Ô Chợ Dừa, tính ngồi uống vài ly để ngắm nhìn cho thỏa cái nơi sẽ là chỗ mình đi lại hàng ngày, thì có hai thanh niên đang ngồi trước cửa một căn nhà, hướng mặt ra đường, thấy tôi đi gần tới thì đẩy cả hai đôi dép ra trước mặt, trên lề đường (hè đường), chỗ mà tôi sẽ đi qua! Tôi đã quá rành với những trò “khiêu khích”, “gây sự” kiểu này (chỉ cần tôi đi tới, dẫm lên đôi dép đó là chúng sẽ hành hung, hoặc nếu bị vấp ngã thì sẽ thành trò cười cho chúng…), cho nên tôi thực hiện sách lược “tránh voi chẳng xấu mặt nào”, thay vì đi qua chỗ hai thanh niên muốn gây sự, tôi quay lại ba bước, ngồi xuống trước một gánh cháo gà. Khu vực hè đường này từ chập tối cho đến nửa đêm là chỗ bán hàng rong (với nhiều chủng loại như cháo gà, cháo vịt, phở, hột vịt lộn, bánh mỳ, bắp ngô nướng…) khá đông vui và tôi đã tới đây nhiều lần vào nhiều dịp trong suốt 10 năm qua, hàng cháo gà mà tôi vừa ngồi xuống cũng là chỗ quen, do hai mẹ con bán, người mẹ khoảng năm mươi, người con gái khoảng gần hai mươi tuổi. Khi cô gái đưa tôi chén rượu và tôi chưa kịp uống thì hai thanh niên kia bất ngờ ào tới ngồi sát tôi rồi kêu rượu như hảo hán Lương Sơn Bạc! Hai mẹ con người bán hàng nhìn nhau như ngầm trao đổi cách xử lý thì một thanh niên thò tay vào gánh hàng, cầm lấy hai chân con gà luộc định lấy ra thì người con gái nhanh như trong phim võ thuật, dùng đôi đũa điểm huyệt vào cánh tay người thanh niên đang định lấy con gà luộc ra khiến người này tê dại cả cánh tay và van xin rối rít: “Xin tha mạng! Xin tha mạng!”. Người thanh niên còn lại nhanh chóng nhận ra tình thế thì cũng nói líu ríu “Xin lỗi! Xin lỗi!” rồi đứng lên kéo người thanh niên bị điểm huyệt đi về căn nhà ban nãy!

Khi đã uống cạn chén rượu, tôi mới hỏi cô gái vừa điểm huyệt thằng thanh niên kia: “Lâu mới gặp lại cô hàng cháo, dạo này có gì mới không?”. Cô gái, tên Hà Thi, mỉm cười rồi nói nhỏ: “Đợi anh hỏi thăm thì em đã sắp đi lấy chồng rồi! Em sắp tốt nghiệp hệ Trung cấp đàn dân tộc của Nhạc viện Hà Nội!”. Tôi ngạc nhiên thật sự vì ngày mới gặp hai mẹ con bán cháo gà ở đây, cô gái còn khoe là vừa thi đỗ vào Khoa nhạc cụ dân tộc của Nhạc viện Hà Nội! Thực ra thì do tôi thỉnh thoảng mới tới ăn cháo gà ở đây và không chú ý tới cô gái đánh đàn tam thập lục này! Có lẽ từ giờ tôi sẽ chú ý tới cô gái bởi Nhạc viện và cơ quan Tạp chí của tôi chỉ cách nhau một con sông nhỏ (là sông Tô Lịch, nhưng nước đã rất đen và hôi thối!) và tôi sẽ ra đây ăn cháo gà thường xuyên hơn! Vì thế, tôi hỏi cô gái: “Vậy em sẽ học tiếp đại học hay đi làm?”. Cô gái ngập ngừng: “Nếu có ai nuôi em thì em sẽ tiếp tục đi học!”. Chút xíu nữa thì tôi đã nói: “Tôi sẽ nuôi em được không?”, song tôi đã kịp thời kìm lại được. Tuy nhiên, không biết cô gái có đoán ra ý nghĩ đó của tôi hay không mà khi múc cháo cho tôi, tôi thấy có vẻ như đó là một tô cháo đặc biệt!

Ngày hôm sau, thật là trùng hợp kỳ lạ: khi tôi đang nghĩ cách để qua Nhạc viện chơi (chủ yếu là tìm cô gái bán cháo gà đang học ở lớp Tam thập lục) thì chị Loan, cán bộ biên tập phần Âm nhạc của Tạp chí nói với tôi: “Hôm nay tôi có giờ lên lớp về lịch sử âm nhạc Việt Nam ở Khoa nhạc cụ dân tộc bên Nhạc viện, cậu có thích thì qua nghe?”. Thế là chỉ mười phút sau, tôi đã có mặt bên Nhạc viện và khi vào lớp, vừa nhìn thấy Thi, tôi đã lặng lẽ đi tới và ngồi ngay xuống bên cạnh!
Khi tôi về ở hẳn Ô Chợ Dừa, có tới ba sự trùng hợp: nhà thơ người Hà Nội Thi Hào Nam (mà tôi quen ở Thư Viện Quốc Gia, từ khi còn là sinh viên Khoa Văn) lại là cậu ruột của cô gái bán cháo gà. Thì ra trước đây, nhà thơ Thi Hào Nam thường dẫn tôi ra uống rượu và ăn cháo gà ở hàng của bà chị ruột mà tôi không để ý và cứ thầm thán phục nhà thơ có “duyên ngầm” là được mẹ con bà cháo gà cho “ký sổ” thoải mái! Sự trùng hợp thứ hai là một ông chiêm tinh gia có hạng ở Hà Nội đã nói với tôi là khi tôi về Ô Chợ Dừa thì sẽ có vợ, có con rồi sẽ có nhà và vợ tôi sẽ là người trong khu vực “xướng ca vô loài”! Cho nên đã không dưới một lần, nhà thơ Thi Hào Nam cứ giục tôi phải cưới cô cháu gái của ông ngay kẻo để lâu ngày lại có kẻ dèm pha! Thực ra thì tôi và cả hai mẹ con Hà Thi đều muốn tiến hành lễ cưới ngay nhưng bạn bè ai cũng ngăn cản và nói: “Chờ thi Nghiên cứu sinh xong mới nên tính chuyện vợ con!”, vì đối với dạng cán bộ nghiên cứu “nghèo hèn” như tôi thì chỉ có đi nghiên cứu sinh nước ngoài mới có thể “đổi đời” – tức sẽ cải thiện cơ bản cuộc sống gia đình về sau! Mà việc thi nghiên cứu sinh thời kỳ này không khác gì xếp hàng mua gạo, mua thịt cá: chưa chắc đến lượt và đến lượt chưa chắc còn hàng!

Khi phải chờ thời gian phán xét cho một quyết định lớn của cuộc đời thì thời gian đó thật là nặng nề, có thể nhìn thấy, cảm nhận được bánh xe thời gian đang lăn qua từng giây, từng phút và hiểm họa thì luôn rình rập! Và quả nhiên, trong khi tôi phải ngày ngày ngồi nhìn bánh xe Thời gian nó lạnh lùng, tàn nhẫn lăn qua số phận của mình mà không thấy hé mở một tia hy vọng gì thì hiểm họa ập đến thật bất ngờ và nhanh như tia chớp!

Tối hôm đó, như lệ thường, tôi lại ra chỗ “Cửa hàng ăn uống di động” ở ngã năm Ô Chợ Dừa để phụ bán cháo gà cho mẹ con Hà Thi (từ khi quyết tâm cưới Hà Thi thì tôi không còn là khách hàng ăn cháo nữa mà trở thành người phụ bán cháo, bởi tôi nhẩm tính, chỉ cần nhịn uống rượu, ăn cháo gà nửa năm là có thể may được bộ đồ cưới cho cả cô dâu và chú rể!). Vào khoảng gần 23 giờ đêm, đường phố đã thưa thớt người xe thì bỗng có tiếng rú ga mạnh của một chiếc Honda 67 và khi tôi chợt nhận ra chiếc Honda đang lao thẳng vào gánh hàng cháo của mẹ con Hà Thi thì theo phản xạ tự nhiên, tôi đứng dậy tính đẩy “cái vật thể bay” ra khỏi gánh hàng cháo thì tôi thấy có tiếng gió vút qua tai và chỉ kịp nhìn thấy Hà Thi lao vút cả người như một mũi lao, lao vào chiếc Honda! Kết quả là Hà Thi đã đạp văng cả chiếc Honda và người lái nó ra khỏi gánh hàng tới năm mét nhưng sự va chạm giữa Hà Thi và “vật thể bay” kia quá mạnh khiến Hà Thi bị chấn thương rất nặng!
Cái chết của Hà Thi khiến cho tôi quá thất vọng về tương lai. Tôi quyết định cạo trọc đầu để quên chuyện lấy vợ đi và tập trung vào việc viết bài vì muốn được thi nghiên cứu sinh, phải có ít nhất ba bài nghiên cứu đăng trên các Tạp chí Chuyên ngành của Trung ương. Tôi viết một lèo đến năm bài nhưng lúc Bộ báo chỉ tiêu về thì chỉ có một, mà lúc đó trong cơ quan Tạp chí của tôi lại có những hai người muốn được chọn. Vậy là tôi nhận được phán quyết của Tổng Biên tập: năm nay nhường cho bạn, để sang năm thì tới lượt! Nhưng người bạn kia thi trượt, sang năm lại đòi đi thi nữa! Không hiểu sao, lúc ấy tôi lại không biết đấu tranh cho quyền lợi của mình mà lại lao vào chuyện…lấy vợ! Và quả nhiên việc lấy vợ của tôi đúng như ông chiêm tinh gia báo từ trước, chỉ có điều sau khi Hà Thi chết tới sáu tháng: Đám cưới ở Ô Chợ Dừa và ngay trong phòng làm việc của Tổng Biên tập Tạp chí; có vợ, có con rồi có nhà (khi con tôi được đầy tháng thì cơ quan cho dùng phòng kho làm phòng ở); vợ tôi cũng vẫn là người của khu vực “xướng ca” (là diễn viên của đoàn Văn công Quân Khu 5 thời chống Mỹ, hết chiến tranh thì vào học lớp Kịch nói của Trường Nghệ thuật sân khấu Mai Dịch Hà Nội, học xong thì thất nghiệp cho tới lúc làm mẹ được hai, ba năm!)…

Ô Chợ Dừa không phải của riêng ai, nhưng tôi có cảm giác như nó là của mình! Sau này, khi phải đi khỏi Ô Chợ Dừa (vào Tây Nguyên, xuống Sài Gòn), mỗi khi xem báo, tivi… thấy có nói về Ô Chợ Dừa, tôi lại chăm chú lắng nghe, nhìn cho rõ và có cảm giác như mình được trở lại quê hương! Thực ra thì “quê lý lịch” của tôi, tức nơi tôi sinh ra (ở Phú Thọ), đã quá xa cách và khi đã lớn, tôi chỉ về được quê hai lần, thời gian rất ngắn. Vì thế, tôi coi Ô Chợ Dừa là quê thứ hai, bởi tôi tôi đã sống tới năm năm (từ 1980 đến 1985) ở đó và đã làm những việc quan trọng như lấy vợ, đẻ con…

Các nhạc sĩ không thể quên Ô Chợ Dừa vì ở đó Nhạc viện Quốc gia! Các Họa sĩ không thể quên Ô Chợ Dừa vì ở đó có Trường ĐH Mỹ thuật Công nghiệp, các nhà văn không thể quên Ô Chợ Dừa vì ở đó có trường Viết Văn Nguyễn Du (dù bây giờ chỉ là một Khoa trong trường Đại học Văn hóa)! Quả là Ô Chợ Dừa rất xứng đáng để được gọi là mảnh đất Địa Linh Nhân Kiệt, điều này không cần bàn cãi! Riêng tôi, tôi không thể không thường xuyên nhớ về Ô Chợ Dừa vì đã đi khỏi từ năm 1985, nhưng tôi chưa cắt hộ khẩu bởi biết chuyển hộ khẩu về đâu ngoài Ô Chợ Dừa lầm bụi của tôi?

Sài Gòn, tháng 4-2010
Đỗ Ngọc Thạch