Thứ Hai, 26 tháng 11, 2012

Thi Trung Hữu Nguyệt - Đỗ Ngọc Thạch


THI TRUNG HỮU NGUYỆT
Đỗ Ngọc Thạch

Lý  Bạch (*) là nhà thơ lớn thời Đường, là một ngôi sao sáng chói trên thi đàn Trung Quốc từ thời nhà Đường đến nay.  Người ta thường gọi ông là Thi Tiên (Trích Tiên Lý Bạch). Học giả Lý Dương Băng trong "Thảo Đường Tập Tự" đã có câu nói bất hủ về thiên tài Lý Bạch “Thiên tải độc bộ, duy công nhất nhân” (Hàng ngàn năm chỉ có một mình ông mà thôi). Hơn một ngàn bài thơ của Lý Bạch còn để lại có một ảnh hưởng rất sâu rộng trong lịch sử văn học Trung Quốc và được lưu truyền rộng rãi trong nhân gian. Ở Trung Quốc cũng như trên thế giới, nhiều học giả đã dày công nghiên cứu thi ca Lý Bạch và luôn tìm thấy những vẻ đẹp mới của thơ Lý Bạch. Thơ của Lý Bạch rất giản dị tự nhiên, không cầu kỳ chải chuốt, gọt dũa mà ý thơ sâu sắc, có sức truyền cảm mạnh mẽ và sức quyến rũ một cách lạ lùng. Người ta gọi Lý Bạch là “Người Trung Hoa kim cổ kỳ nhân” chính vì vậy.
Lý Bạch là thiên tài của những bài thơ Tuyệt Cú (4 câu 5 chữ), ngắn gọn, nhưng cô đọng, hàm súc, là những tuyệt tác bất hủ được lưu truyền trong nhân gian từ đời này qua đời khác. Bài thơ Tĩnh Dạ Tư (cảm nghĩ đêm vắng) của Lý Bạch là một kiệt tác  tuyệt vời trong thế giới Đường Thi trùng điệp …. Hình thức cô đọng thâm thúy của bài thơ ngũ tuyệt 20 chữ này đã làm cho thể thơ Ngũ Tuyệt này có vẻ đẹp kỳ ảo như một viên kim cương tinh xảo, nhìn phái nào cũng lung linh sáng, nhất là khi “Thi trung hữu nguyệt” – trong thơ có trăng:
静夜思  
李白  
 
床前明月光
疑是地上霜
举头望明月
头思故乡 
Phiên  âm Hán-Việt:
Tĩnh dạ tư

Sàng tiền minh nguyệt quang
Nghi thị địa thượng sương
Cử đầu vọng minh nguyệt
Ðê đầu tư cố hương !

Dịch Nghĩa: 

Đầu giường, ánh trăng rọi sáng, 
Tưởng là sương trên mặt đất 
Ngẩng đầu ngắm trăng sáng 
Cúi đầu nhớ quê cũ 
Dịch Thơ :
Cảm nghĩ đêm yên tĩnh
Đầu giường ánh trăng rọi,
Ngỡ mặt đất phủ sương
Ngẩng đầu nhìn trăng sáng,
Cúi đầu nhớ cố hương.

Tương Như  dịch.
  Về bài thơ này, có rất nhiều dị bản. Trước hết là nhan đề bài thơ: có hai cách gọi tên bài thơ, đều rất nhiều người dùng, là Tĩnh dạ tứ và Tĩnh dạ và dịch là Cảm nghĩ đêm thanh tĩnh, hoặc Xúc cảm đêm trăng. Còn ở trong các câu thơ, có hai dị bản là: câu 1 : Sàng tiền khán nguyệt quang và câu 3:  Cử đầu vọng sơn nguyệt.
Tĩnh Dạ Tứ  
Sàng tiền khán nguyệt quang  
Nghi thị địa thương sương  
Cử đầu vọng minh nguyệt  
Đê đầu tư cố hương. 

Trần Trọng San dịch:  
Ý Nghĩ Trong Đêm Vắng  

Trước giường ngắm ánh trăng sa,  
Trắng phơi mặt đất, ngỡ là ánh sương  
Ngẩng đầu trông ngắm vầng trăng;  
Cúi đầu lại nhớ xóm làng ngày xưa.
Còn tại sao lại viết là “Cử đầu vọng sơn nguyệt” thì học giả Vương Vận Hy phân tích: "Nhìn nhận cho kỹ trong thơ Lý Bạch, "Sơn nguyệt" và "Cố hương" hình như có liên hệ đặc biệt trên con đường lữ hành rời đất Thục, Lý Bạch đã viết bài tuyệt cú "Nga mi sơn nguyệt ca"  … Ông yêu cố hương Yên sơn  và nguyệt núi Nga Mi (**). Thuở nhỏ ông thường lên đỉnh núi Nga Mi (Tứ Xuyên) ở quê cha đất tổ để ngắm trăng, và sau khi đi ngao du sơn thủy, nỗi nhớ quê hương của ông thường dâng trào mãnh liệt … Do đó khi ở quê hương khác trong đêm yên tĩnh nhìn trăng sáng vượt qua đầu núi chiếu vào giường, ông nghĩ đến núi và trăng ở Nga mi, nghĩ đến chuyện quê hương là chuyện tất nhiên”.
Và chữ Sàng ở đầu bài thơ, theo Lương Bạch Tuyền, giám đốc viện bảo tàng Nam Kinh thì “sàng” chỉ vật chắn che trên mặt giếng nước trong sân nhà, chứ không phải là giường ngủ trong nhà. Cho nên sàng dịch thành giường là không ổn! Có thể nhà thơ đang đứng ngoài sân, cạnh nơi giếng nước chứ không phải đang nằm trên giường!
Lý Bạch đã làm khoảng hơn 20.000 bài thơ, nhưng làm bài nào vứt bài đó, nên được biết tới là nhờ dân gian thuộc rồi ghi chép lại. Sau loạn An Lộc Sơn thì mất rất nhiều. Đến khi ông mất năm 762 thì người anh họ Lý Dương Lân thu thập lại, thấy chỉ còn không tới 1/10 so với người ta truyền tụng. Sang năm 1080, Sung Minh Chiu người Hàn Quốc mới gom góp lại tập thơ Lý Bạch, gồm 1800 bài. Ðến nay thì thơ Lý Bạch còn trên dưới 1000 bài, bài nào cũng được đánh giá rất cao, vì thế một bài có nhiều dị bản là chuyện thường tình!
Một bài thơ khác của Lý Bạch cũng viết trong đêm trăng và cũng rất cảm động:

Dạ Bạc Ngưu Chử Hoài Cổ  

Ngưu chử Tây Giang dạ
Thanh thiên vô phiến vân
Đăng chu vọng thu nguyệt
Không ức Tạ tướng quân
Dư diệc năng cao vịnh
Tư nhân bất khả văn
Minh triều quải phàm khứ
Phong diệp lạc phân phân...  

Dịch thơ: 

Bến Ngưu đêm sông Tây,  
Trời xanh không gợn mây.  
Trăng thu lên thuyền ngắm,  
Nhớ Tạ tướng dâng đầy.  
Ngâm thơ thừa giọng tốt,  
Người xưa cũng chẳng hay.  
Buổi mai dong thuyền sớm,  
Xao xác lá phong bay. 

Ngô Văn Phú dịch. 
Lý Bạch là người phóng túng, hay đi đây đó, làm thân lữ khách nơi quán trọ tha phương, xa nhà, xa quê, xa gia đình bạn bè … Làm ẩn sĩ trên núi được 2 năm, ông lại hạ sơn, bắt đầu làm hiệp sĩ, đi lùng hết các thắng cảnh ở Hà Bắc, Giang Tây, Tràng An... Đến năm 20 tuổi, Lý Bạch đã đi khắp nước Thục, ông lại về Tứ Xuyên với gia đình, chuẩn bị tiền đi đường và tiền mua rượu cho cuộc hành trình sắp tới. Ông đến làm dưới trướng của thứ sử Ích Châu là Tô Dĩnh, được ông này khen là thiên tài, "có thể sánh với Tư Mã Tương Như”(1).
Năm 723, Lý Bạch mặc áo trắng, đeo một bầu rượu lớn, tay kiếm tay bút lên đường ngao du sơn thủy. Khoảng ba năm, ông đã tới hầu hết danh lam thắng cảnh nổi tiếng Trung Hoa, như hồ Động Đình, sông Tương, Kim Lăng, Dương Châu, Ngô Việt, Giang Hạ...Đến năm 726, ông đến Vân Mộng kết duyên cùng cháu gái của Hứa tướng công. Thời gian này tài năng thơ nở rộ. Đến 30 tuổi thì tiếng tăm đã vang đến triều đình. Được mời làm quan, nhưng ông không nhận.
Năm Khai Nguyên thứ 23 (735), ông đi chơi ở Thái Nguyên, gặp Quách Tử Nghi (2) đang ở tù, ông xin giúp, Quách liền được thả. Ông lại dẫn vợ rong chơi qua nước Tề, Lỗ, rồi định cư ở Nhiệm Thành. Đến đây Lý Bạch lại được Khổng Sào Phủ (***), Hàn Chuẩn, Bùi Chính, Đào Cái, Trương Thúc Minh - những ẩn sĩ đương thời - rủ lên núi Tồ Lai thưởng ngoạn, rồi say sưa ở Trúc Khê. Nhóm này được người ta gọi là "Trúc Khê lục dật".
Năm đầu niên hiệu Thiên Bảo (742) Lý Bạch đi chơi Cối Kê, cùng với đạo sĩ Ngô Quân ngụ tại Viễm Trung (tỉnh Chiết Giang). Khi Ngô Quân được triệu về Trường An, bèn đem Lý Bạch đi theo. Tại kinh đô Lý Bạch gặp Hạ Tri Chương (3), lúc này đang làm chức Thái Tử tân khách. Thoạt trông thấy ông, Hạ Tri Chương nói rằng: " Đây là một trích tiên giáng trần". Lý Bạch và Hạ Tri Chương trở nên đôi bạn rượu thơ . Nhờ sự tiến cử của Hạ Tri Chương, Lý Bạch được Đường Huyền Tông triệu vào bệ kiến tại điện Kim Loan, bàn về thế vụ đương thời, nhân dịp nào ông thảo tờ " Đáp Phiên thư ", và dâng thiên " Tuyên Đường hồng do ", được vua khen ngợi. Vua cho ngồi trên giường thất bảo , lại thân đưa canh cho ăn. Rồi hạ chiếu nói rằng :" Khanh là kẻ áo vải, được trẫm biết tiếng ; nếu không phải là vốn đã chất chứa đạo nghĩa, thì làm sao được như vậy !" ; và phong Lý Bạch làm học sĩ cung phụng tại Hàn Lâm, chuyên trách về mệnh lệnh mật. Thời kì này là thời kì vinh hiển nhất trong đời Lý Bạch.  

Tại Trường An, Lý Bạch kết bạn với Hạ Tri Chương, Thôi Tông Chi, Vương Tiến, Tô Tấn, Trương Húc (4), Tiêu Toại, Lý Thích Chi, hiệu là " Tửu Trung Bát Tiên " (tám vị tiên trong rượu). Bài " Ẩm trung bát tiên ca " của Đỗ Phủ (5), nói về Lý Bạch có câu :  

Lý Bạch nhất đẩu thi bách thiên,  
Trường An thị thượng tửu gia miên;  
Thiên tử hô lai bắt thướng thuyền,  
Tự xưng thần thị tửu trung tiên.  

(Lý Bạch một đấu, thơ trăm thiên  
Ngủ trong quán rượu tại Trường An;  
Thiên tử kêu tới chẳng lên thuyền,  
Tự xưng thần là tiên trong rượu).
Lý Bạch là người rất có tài nhưng lận đận, và ngán ngẩm với cuộc đời long đong, bất đắc chí, mà ông đã bỏ mặc đời, phiêu du đi tìm sự quên lãng với bầu rượu, trăng thơ, giữa cảnh thiên nhiên gợi tình, gợi cảm. Trong cảnh thiên nhiên đó, Lý Bạch đã cảm thấy cô độc vô cùng và tìm đến người bạn tình chung thủy đó là vầng trăng sáng soi giữa trời đêm bất tận, như Trịnh Cốc khi đọc thơ Lý Bạch đã viết : "Khi say khướt ngâm dài ba ngàn khúc, gửi lại cho nhân gian chỉ một vầng trăng sáng" ( Cao ngâm đại túy tam thiên thủ, lưu trước nhân gian bạn nguyệt minh ).
Bài thơ Nguyệt hạ độc chước (Một mình uống rượu dưới trăng) là một bài thơ độc đáo mà Lý Bạch đã gửi lại cho nhân gian lung linh ánh trăng:
Nguyệt hạ độc chước
Hoa gian nhất hồ tửu 
Độc chước vô tương thân 
Cử bôi du minh nguyệt 
Đối ảnh thành tam thân 
Nguyệt tức bất giải ẩm 
Ảnh tùng tùy ngã thân 
Tạm bạn nguyệt tương ảnh 
Hành lạc tu cập xuân 
Ngã ca nguyệt bồi hồi 
Ngã vũ ảnh linh loạn 
Tỉnh thời đồng giao hoan 
Túy hậu các phân tán 
Vịnh kết vô tình du 
Tương kỳ mạc vân hán.
Một mình uống rượu dưới Trăng 

Vườn hoa với bầu rượu 
Không bạn, uống mình ta 
Mời trăng cùng nâng chén 
Với bóng nữa thành ba 
Trăng nào đâu biết uống 
Bóng theo ta mặn mà 
Cùng trăng bên cạnh bóng 
Vui xuân thật thiết tha 
Trăng mơ nhìn ta hát 
Ta múa, bóng nghiêng qua 
Cùng vui khi tỉnh rượu 
Hết say người chia xa 
Kết thân tình thắm thiết 
Hò hẹn bến Ngân qua.    
Lý Bạch và Trăng như hình với bóng, trong thơ Lý Bạch tràn đầy ánh trăng và nhìn vào Trăng, người ta thấy thơ Lý Bạch và như thấy hình bóng ông lúc ẩn lúc hiện. Có lẽ vì thế mà trong dân gian còn lưu truyền một chuyện rất đẹp về cái chết của ông: Lý Bạch chơi thuyền trên sông Thái Thạch (khúc sông Dương Tử ở chỗ có hòn Thái Bạch), trong khi say rượu thấy bóng trăng ở lòng sông ông nhảy choàng xuống để bắt lấy mà cùng với trăng vĩnh viễn an giấc ngàn thu!... Người đời sau dựng một cái đài ở đấy gọi là “Tróc nguyệt đài” (Đài bắt trăng)… Có những họa sĩ Trung Quốc đã vẽ những bức tranh "Lý Bạch bắt trăng" , Chu Tử Chi có câu thơ :
Tróc  đắc giang tâm ba để nguyệt
Khước qui thiên hạ ngọc kinh tiên.
 

(Bắt được mặt trăng giữa lòng sông dưới đáy 
Được thiên hạ gọi tiên Ngọc kinh )
Từ “nguyệt’ (trăng) trong thơ Lý Bạch xuất hiện với tần số cao (khoảng một phần ba số bài thơ có sự hiện diện của ánh trăng). Có khi từ “nguyệt” xuất hiện ngay trong nhan đề các bài thơ đó là những bài mang chủ đề về trăng như: “Nguyệt hạ độc chước” (Một mình uống rượu dưới trăng), “Nga Mi sơn nguyệt ca” (Bài hát trăng núi Nga Mi), “Quan sơn nguyệt” (Trăng nơi quan ải), “Bá tửu vấn nguyệt” (Nâng chén hỏi trăng)… Có những bài từ “nguyệt” không xuất hiện trong nhan đề bài thơ nhưng trăng đột ngột xuất hiện ở giữa bài thơ trong một câu thơ. Những bài như vậy rất nhiều: “Ngọc giai oán” (Oán hận trên thềm ngọc), “Tử Dạ Ngô ca” (Khúc ca Tử Dạ điệu nước Ngô), “Vương Chiêu Quân”, “Trường tương tư” (Nhớ nhau mãi), “Tái hạ khúc” (Khúc hát dưới ải), “Xuân nhật tửu khởi ngôn chí” (Ngày xuân say rượu tỉnh dậy nói chí mình), “Đảo y thiên” (Bài ca đập áo), “Ngọc giai oán” (Oán hận trên thềm ngọc) “Tống Dương Sơn Nhân quy Tung sơn” (Tiễn Sơn Nhân họ Dương về núi Tung), “Văn Vương Xương Linh tả thiên Long Tiêu dao hữu thử ký” (Từ nơi xa gửi tới Vương Xương Linh (6) khi nghe bị giáng chức đổi đi Long Tiêu)… 

Trong bài Quan san nguyệt, vầng trăng của Lý Bạch lại tái hiện giữa một không gian mênh mông cùng với nước, gió, mây ngàn: 
Quan san nguyệt 
Minh nguyệt xuất Thiên San,
Thương mang vân hải gian.
Trường phong kỷ vạn lý,
Xuy độ Ngọc Môn quan.
Hán hạ Bạch Đăng đạo,
Hồ khuy Thanh Hải loan.
Do lai chinh chiến địa,
Bất kiến hữu nhân hoàn.
Thú khách vọng biên sắc,
Tư quy đa khổ nhan.
Cao lâu đương thử dạ,
Thán tức vị ưng nhàn.
Dịch nghĩa:
Trăng nơi quan ải

Vầng trăng nhô lên khỏi núi Thiên San,
Giữa khoảng trời mây nước biển mênh mang.
Gió thổi lan xa mấy vạn dặm,
Qua cửa ải Ngọc Môn.
Quân Hán kéo xuống con đường dẫn tới thành Bạch Đăng.
Rợ Hồ dòm ngó vịnh Thanh Hải.
Xưa nay từ nơi chiến địa,
Không thấy có người về.
Người lính thú ngắm nhìn cảnh sắc nơi biên giới,
Lòng nhớ nhà vì nghĩa đến ngày về nên vẻ mặt có nhiều nét đau khổ.
Đêm nay trên lầu cao (có người),
Hẳn cũng than thở hoài không thôi.
Trăng quan san 
Vừng trăng ra núi Thiên San,
Mênh mang nước bể mây ngàn sáng soi.
Gió đâu muôn dặm chạy dài,
Thổi đưa trăng sáng ra ngoài Ngọc Môn.
Bạch Đăng quân Hán đóng đồn,
Vịnh kia Thanh Hải dòm luôn mắt Hồ.
Từ xưa bao kẻ chinh phu,
Đã ra đất chiến, về ru mấy người?
Buồn trông cảnh sắc bên trời,
Giục lòng khách thú nhớ nơi quê nhà.
Lầu cao, đêm vắng, ai mà,
Đêm nay than thở ắt là chưa nguôi.
Bản dịch Tản Đà
*
Hình ảnh Trăng cũng thấy trong nhiều bài thơ Đường nổi tiếng. Mặc dầu khai thác cùng một ý tứ, một chủ đề, nhưng mỗi nhà thơ có tài hoa sáng tạo khác nhau, để tạo nên những sắc thái tình cảm riêng biệt độc đáo, phù hợp với mỗi tâm tư hoàn cảnh khác nhau.
Bài thơ Sương Nguyệt của Lý Thương Ẩn (8) là một bức tranh Thiên nhiên với trăng, sương, hoa, cỏ, khói, nước…, là sự hài hòa tinh tế của cuộc đời vô thường và sự thanh tao của vũ trụ, muôn vật :
Sơ văn chinh nhạn dĩ vô thiền 
Bách xích lâu đài thủy tiếp thiên 
Thanh nữ Tố Nga câu nại lãnh * 
Nguyệt trung sương lý đấu thuyền quyên. 
     (Sương Nguyệt- Lý Thương Ẩn)
(* Thanh nữ - vị Thần coi việc sương, tuyết 
   Tố Nga - Hằng Nga ở cung trăng )
Nhạn về ve bỗng bặt im hơi 
Trăm thước lầu cao nước nối trời 
Thanh nữ, Tố Nga đâu cảm lạnh 
Đua nhau trăng sáng lộng sương ngờ.
Trăng Lý Thương Ẩn là trăng Hằng nga hay Thường nga: 

Thường nga ưng hối thâu linh dược, 
Bích hải thanh thiên dạ dạ tâm. 
(Thường nga) 

Thường nga hối hận trót lấy trộm thuốc tiên, 
Để tấm lòng đêm đêm giữa bể biếc trời xanh 
(Thường nga)  
Trăng của Vương Duy (9) là sự cô đơn nhưng tạo cảm giác ung dung tự tại của một ẩn sĩ đang tu Tiên:: 

Thâm lâm nhân bất tri, 
Minh nguyệt lai tương chiếu. 
(Trúc lý quán) 

Ở trong rừng sâu không ai biết, 
Chỉ có vừng trăng đến soi sáng nhau 
(Quán Trúc lý)
Không có trăng nào  đẹp bằng trăng thu, chẳng có trăng nào nào sáng hơn trăng quê như trong bài thơ Nguyệt dạ ức xá đệ của Đỗ Phủ:  
Thu biên nhất nhạn thanh 
Lộ tùng kim dạ bạch 
Nguyệt thị cố hương minh 
Hữu đệ giai phân tán 
Vô gia vấn tử sinh 
Ký thư trường bất đạt 
Huống nãi vị hưu binh
Dịch thơ:
Trống trận dồn mau cản bước người 
Vào thu biên ải nhạn than trời 
Tha phương đêm phủ màn sương trắng 
Cố quận trăng soi ánh tỏ ngời 
Em đấy, thân thương mà cách biệt 
Nhà đâu, sống chết biết nơi nào ? 
Gửi thư thăm hỏi hoài không đến 
Binh lửa lan tràn rực khắp nơi
(Nhớ Em Đêm Trăng - Hải Đà)
Trăng của Đỗ Mục (10) bàng bạc, mênh mang như con thuyền trên sông nước: 

Yên lung hàn thủy nguyệt lung sa, 
Dạ bạc Tần Hoài cận tửu gia. 
(Bạc Tần hoài) 

Khói lồng nước lạnh, trăng lồng bãi cát, 
Đêm đậu thuyền ở bến Tần hoài gần tiệm rượu 
(Đậu thuyền ở bến Tần hoài) 

Trăng của Lý Hạ (11) chập chờn hồn ma, bóng quỷ - vì thế mà người đời gọi ông là Thi Quỷ: 

Lão thố hàn thiền khấp thiên sắc, 
Vân lâu bán khai bích tà bạch. 
(Mộng thiên) 

Thỏ già cóc lạnh khóc ướt trời, 
Lầu mây hé mở, vách nghiêng trắng 
(Mơ trời)
Dường như thơ về trăng của cả thời Sơ Đường dồn tụ cả vào bài Xuân giang hoa nguyệt dạ của Trương Nhược Hư (12). Chịu ảnh hưởng của thi phong Lục triều, đã vượt lên trên thi phong phù hoa diễm lệ của Sơ Đường. Với ngòi bút tươi tắn, thanh nhã và ngôn ngữ ít đẽo gọt chạm trổ, tác giả miêu tả cảnh đẹp của đêm trăng trên sông xuân, và nói lên nỗi lòng triền miên, xa xôi do cảnh đẹp tự nhiên khêu gợi. Về mặt nghệ thuật, bài thơ có những chỗ hay, ngôn ngữ trong trẻo lưu loát, âm điệu uyển chuyển trở đi trở lại. Cảnh thơ rộng lớn, sâu thẳm, mà tình nồng đượm, ý xa xôi, dễ đưa con người vào thế giới vắng lặng, xa xăm; và dễ gợi lên nỗi buồn về cuộc đời mong manh cùng thế sự vô thường…Chính tứ thơ của Xuân giang hoa nguyệt dạ đã gợi ý cho bài Minh nguyệt dẫn (Khúc hát trăng sáng) của Lư Chiếu Tân và bài Thái liên khúc (Khúc hái sen) của Vương Bột (13). Thi phẩm này được người sau xếp vào hàng những tuyệt tác trong thơ Đường, và chính nó đã làm cho Trương Nhược Hư bất tử:
Xuân giang hoa nguyệt dạ

Xuân giang triều thủy liên hải bình,
Hải thượng minh nguyệt cộng triều sinh.
Diễm diễm tùy ba thiên vạn lý,
Hà xứ xuân giang vô nguyệt minh.
Giang lưu uyển chuyển nhiễu phương điện,
Nguyệt chiếu hoa lâm giai như tiển.
Không lý lưu sương bất giác phi,
Giang thượng bạch sa khan bất kiến.
Giang thiên nhất sắc vô tiêm trần,
Hạo hạo không trung cô nguyệt luân.
Giang bạn hà nhân sơ kiến nguyệt?
Giang nguyệt hà niên sơ chiếu nhân?
Nhân sinh đại đại vô cùng dĩ,
Giang nguyệt niên niên vọng tương tự.
Bất tri giang nguyệt chiếu hà nhân,
Đãn kiến trường giang tống lưu thủy.
Bạch vân nhất phiến khứ du du,
Thanh phong giang thượng bất thăng sầu.
Thùy gia kim dạ biên chu tử,
Hà xứ tương tư minh nguyệt lâu?
Khả liên lâu thượng nguyệt bồi hồi,
Ưng chiếu ly nhân trang kính đài.
Ngọc hộ liêm trung quyển bất khứ,
Đảo y châm thượng phất hoàn lai.
Thử thời tương vọng bất tương văn,
Nguyệt trục nguyệt hoa lưu chiếu quân.
Hồng nhạn trường phi quang bất độ,
Ngư long tiềm dược thủy thành văn.
Tạc dạ nhàn đàm mộng lạc hoa,
Khả liên xuân bán bất hoàn gia.
Giang thủy lưu xuân khứ dục tận,
Giang đàm lạc nguyệt phục tây tà.
Tà nguyệt trầm trầm tàng hải vụ,
Kiệt Thạch, Tiêu Tương vô hạn lộ.
Bất tri thừa nguyệt kỷ nhân qui,
Lạc nguyệt dao tình mãn giang thụ.

Đêm trăng hoa trên sông xuân

Sông xuân sáng nước liền ngang bể,

Vầng trăng trong mặt bể lên cao.
Ánh trăng theo sóng đẹp sao!
Sông xuân muôn dặm chỗ nào không trăng?
Dòng sông chảy quanh rừng hoa ngát,
Trăng soi hoa như tán trập trùng.
Sương bay chẳng biết trong không
Trên soi cát trắng nhìn không thấy gì.
Trời in nước một ly không bụi.
Mảnh trăng trong ròi rọi giữa trời.
Thấy trăng thoạt mới là ai?
Trăng sông thoạt mới soi người năm nao?
Người sinh mãi, kiếp nào cho biết,
Nhìn trăng sông năm hệt không sai.
Trăng sông chẳng biết soi ai,
Dưới trăng chỉ thấy sông dài nước trôi.
Đám mây trắng ngùi ngùi đi mãi,
Rặng phong xanh một dải sông sầu.
Đêm nay ai đó, ai đâu?
Chiếc thuyền để nhớ trên lầu trăng soi.
Trăng thờ thẫn nơi người xa ngóng,
Chốn đài gương tựa bóng thương ai.
Trong rèm cuốn chẳng đi thôi,
Trên bàn đập áo quét rồi lại ngay.
Cùng nghe ngóng lúc nay chẳng thấy,
Muốn theo trăng trôi chảy đến chàng.
Hồng bay, ánh sáng không màng,
Nước sâu cá quẫy chỉ càng vẩn tăm.
Đêm nọ giấc trong đầm hoa rữa,
Ai xa nhà xuân nửa còn chi!
Nước sông trôi mãi xuân đi,
Trăng tà lặn xuống bên kia cánh đầm.
Vầng trăng lặn êm chìm khói bể,
Đường bao xa non kệ sông Tương.
Về trăng mấy kẻ thừa lương,
Trăng chìm lay bóng đầy hàng cây sông.

Bản dịch của Tản Đà.
-----
Chú thích:
(*) Lý Bạch (701- 762): là nhà thơ danh tiếng nhất thời thịnh Đường nói riêng và Trung Hoa nói chung, được hậu bối tôn là Thi Tiên. Nhà thơ Bì Nhật Hưu thời vãn Đường nói rằng: "Từ khi nhà Đường dựng nghiệp đến giờ, ngữ ngôn ra ngoài trời đất, tư tưởng vượt xa quỷ thần, đọc xong thì thần ruổi tám cực, lường rồi thì lòng ôm bốn bể, lỗi lạc dị thường, không phải lời của thế gian, thì có thơ Lý Bạch".
(**) Núi Nga Mi: Nga Mi sơn hay núi Nga Mi hay Đại Quang Minh sơn là một ngọn núi nằm ở phía trung nam tỉnh Tứ Xuyên thuộc miền tây Trung Quốc, trên khu vực quá độ của lòng chảo Tứ Xuyên theo hướng cao nguyên Thanh -Tạng. Nga Mi sơn là một trong Tứ đại Phật giáo danh sơn. Vị Bồ Tát bảo trợ của Nga Mi sơn là Samantabhadra, trong tiếng Việt còn được gọi là Phổ Hiền bồ tát.
Đỉnh cao nhất của Nga Mi sơn là đỉnh Vạn Phật của ngọn núi chính Kim Đỉnh, với độ cao 3.099 m. Với địa thế cao chót vót, phong cảnh đẹp nên người ta nói tới Nga Mi sơn như là "Nga Mi thiên hạ tú". Là một trong Tứ đại Phật giáo danh sơn, tại Nga Mi sơn có khoảng 26 ngôi chùa; miếu, trong đó có 8 ngôi chùa; miếu lớn là cơ bản nhất. Người ta cho rằng Nga Mi sơn chính là đạo tràng của Phổ Hiền bồ tát. Nga Mi sơn cùng bức tượng đại Phật Lạc sơn, bức tượng Phật tạc trên vách đá lớn nhất thế giới ở núi Thê Loan, được UNESCO công nhận là Di sản thế giới ngày 6 tháng 12 năm 1996.
(***) Khổng Sào Phủ “Trúc khê lục dật”: Những ẩn sĩ của “Trúc khê lục dật” tôn sùng Sào Phủ… Sào Phủ , Hứa Do đều là những bậc đại hiền ở ẩn thời Nghiêu Thuấn  (thời Tam Hoàng Ngũ Đế). Một hôm Sào Phủ dắt trâu ra ruộng uống nước thấy Hứa Do đang ngồi vốc nước rửa tai liền hỏi tại sao? Hứa Do đáp: “Vua Nghiêu biết tôi là người hiền nên liền mời tôi ra để truyền ngôi. Lời Danh Lợi làm rườm tai nên tôi rửa cho sạch!”. Nghe xong Sào Phủ liền dẫn trâu đi. Hứa Do hỏi tại sao? Sào Phủ nói: “Nước này anh rửa tai , tôi sợ trâu tôi uống nhằm!”.  Sào Phủ lại thủng thẳng hỏi: “Mà anh làm chuyện gì để vua Nghiêu biết anh là người hiền vậy? Đấy là do bụng anh vẫn còn nghĩ tới danh lợi mà thôi!”. 
(1) Tư Mã Tương Như tự Tràng Khanh (179 TCN-117 TCN), người ở Thành Đô đời nhà Hán. Người rất đa tài, văn hay, đàn giỏi, nổi tiếng với khúc Phượng cầu hoàng mà lấy được người đẹp Trác Văn Quân
  (2) Quách Tử Nghi (697-781), tên tự cũng là Tử Nghi, là danh tướng nhà Đường. Ông phục vụ dưới 4 đời vua Đường là Huyền Tông, Túc Tông, Đại Tông, và Đức Tông và có công dẹp loạn An Sử.
 (3) Hạ Tri Chương (659 - 744), tự Quý Chân, là nhà thơ đời Đường, người Cối Kê, tỉnh Chiết Giang, Trung Quốc. Đời Đường Trung Tông, Hạ Tri Chương đỗ tiến sĩ vào năm 684, được bổ làm Thái thường bác sĩ. Trong thời Khai nguyên, đời vua Đường Huyền Tông, ông làm Lễ bộ thị lang kiêm Tập hiền viện học sĩ, đổi làm Thái tử tân khách, rồi Bí thư giám. Đầu đời Thiên Bảo, ông xin từ quan về làm đạo sĩ. Ông cùng với Trương Húc, Trương Nhược Hư, Bao Dung được người đương thời gọi là Ngô trung tứ sĩ (Bốn danh sĩ đất Ngô). Ông là bạn vong niên với Lý Bạch, từng gọi Lý Bạch là "trích tiên" (tiên bị đày).  Khi từ quan về làng tự xưng là Cuồng khách. Hạ Tri Chương thích uống rượu, tính tình hào phóng. Ông còn để lại 20 bài thơ, trong đó bài Hồi hương ngẫu thư là nổi tiếng nhất.
(4) Trương Húc (khoảng 658 - 747), tên chữ Bá Cao, người Tô Châu, tỉnh Giang Tô; là nhà thơ và là nhà thư pháp nổi tiếng thời nhà Đường, TQ. Trong thời Khai Nguyên, đời vua Đường Huyền Tông, Trương Húc làm quan đến Thường thục úy, về sau thăng đến Hữu suất phủ trưởng Sử, nên còn được gọi là Trương trưởng sử. Ông cùng với Hạ Tri Chương, Trương Nhược Hư và Bao Dung được người đương thời liệt vào "Ngô trung tứ sĩ" (Bốn danh sĩ đất Ngô). Ngoài tài thơ, hay rượu, Trương Húc còn là một nhà thư pháp nổi tiếng. Đặc biệt ông giỏi “cuồng thảo”, là hình thức viết chữ độc đáo trong nghệ thuật thư pháp. Do vậy, ông và Hoài Tố người cùng thời, được người đời xưng tụng là “cuồng thảo nhị tuyệt” ( hai bậc tuyệt đỉnh về cuồng thảo), là “Điên Trương túy Tố” ( Trương Húc điên, Hoài Tố say). Tương truyền, ông đã lấy cảm hứng từ những màn múa kiếm của Công Tôn Ðại Nương rồi đưa vào phong cách viết đặc biệt của mình.
Thi phẩm tiêu biểu là Đào hoa khê :
Phiên âm Hán-Việt:
Ẩn ẩn phi kiều cách dã yên,
Thạch ky tây bạn, vấn ngư thuyền.
Đào hoa tận nhật tùy lưu thủy,
Động tại thanh khê hà xứ biên ?  
Nghĩa là:
Suối hoa đào
Cầu bay cách khói mờ mờ,
Hỏi thăm thuyền cá đậu bờ đá kia.
Suốt ngày nước chảy hoa đi,
Chẳng hay trong suối, động kề mé nao?
(5) Đỗ Phủ (712 - 770): là một nhà thơ nổi bật thời nhà Đường. Cùng với Lý Bạch, ông được coi là một trong hai nhà thơ vĩ đại nhất Trung Quốc. Tham vọng lớn nhất của ông là có được một chức quan để giúp đất nước, nhưng ông đã không thể thực hiện được điều này. Cuộc đời ông, giống như cả đất nước, bị điêu đứng vì Loạn An Lộc Sơn năm 755, và 15 năm cuối đời ông là khoảng thời gian hầu như không ngừng biến động. Mặc dù không nổi tiếng từ đầu, những tác phẩm của ông gây ảnh hưởng nhiều đến cả văn hóa Trung Quốc và Nhật Bản. Ông từng được các nhà phê bình Trung Quốc gọi là Thi sửThi thánh. Đối với độc giả phương Tây, tầm vóc các tác phẩm của ông sánh ngang với Virgil, Horace, Ovid, Shakespeare, Milton, Burns, Wordsworth, Béranger, Hugo hay Baudelaire.
(6) Vương Xương Linh (694 - 756): tự Thiếu Bá, người ở Vạn Niên, phủ Kinh Triệu (nay thuộc thành phố Tây An, TQ), đỗ tiến sĩ năm Khai Nguyên thứ 15 (727), giữ chức "Hiệu Thư Lang"; 7 năm sau lại đỗ Khoa Bác học Hoằng từ, nhậm chức "Giang Ninh Thừa". Năm Thiên Bảo thứ 7 (748) bị biếm làm "Long Tiêu úy" trong loạn An Sử, ông bị tên Thứ sử Hào châu là Lư Khâu Hiểu sát hại. Vương Xương Linh sở trường về thơ thất ngôn tuyệt cú, nội dung chủ yếu là tả sinh hoạt nơi biên tái và cung oán, khuê tình, phong cách thanh tân dịu dàng trong sáng. Nay còn một quyển thơ.
(8) Lý Thương Ẩn (831-858): Tự là Nghĩa Sơn, hiệu là Ngọc Khê sinh. Người huyện Hà Nội (tỉnh Hà Nam). Nhà thơ nổi tiếng thời Vãn Đường. Lý Thương Ẩn nổi tiếng ngang với Ôn Ðình Quân (8*) và Ðỗ Mục, nên người người đương thời gọi là Ôn Lý và Lý Ðỗ. Tương truyền ông có tình luyến ái với nữ đạo sĩ Tống Hoa Dương và các cung nữ Lư Phi Loan và Khinh Phượng. Những bài thơ Vô đề của ông đều được làm ra cốt để tả những mối tình bí ẩn này. Lý Thương Ẩn có ảnh hưởng rất lớn đối với thi đàn đời Tống. Vương An Thạch (8**) khen thơ Lý Thương ẩn có cái vẻ tài tình giống thơ Ðỗ Phủ. Các nhà thơ thuộc phái Tây Côn chủ trương mô phỏng thơ ông khi sáng tác. 
Vô  Đề  

Tương kiến thời nan biệt diệt nan, 
Ðông phong vô lực bách hoa tàn. 
Xuân tàm đáo tử ti phương tận, 
Lạp chúc thành hôi lệ thủy can. 
Hiểu kính đản sầu vân mấn cải, 
Dạ ngâm ưng giác nguyệt quang hàn. 
Bồng lai thử khứ vô đa lộ, 
Thanh điểu ân cần vị thám khan. 

Dịch nghĩa :  
Không đề  
Lúc gặp gỡ nhau đã khó , mà chia tay nhau cũng khó .
Gió đông không có sức , trăm hoa héo tàn .
Con tằm xuân đến lúc chết , thì tơ mới hết ;
ngọn nến khi thành tro , thì nước mắt mới khô .
Soi gương buổi sáng , chỉ buồn là tóc mây thay đổi .
Ban đêm ngâm thơ , chắc hẳn biết ánh trăng lạnh lẽo .
Từ đây đi đến núi Bồng Lai (a) , không có nhiều con đường ;
chim xanh (b) vì mình ân cần đi trước thăm dò .

chú thích:
(a)   Bồng Lai : tên của một trong ba ngọn núi tiên ở Bột Hải .
(b) Thanh điểu : chim xanh báo tin Tây Vương Mẫu đến . 

Dịch thơ : 

Vô Đề  

Xa nhau khó tựa gặp nhau, 
Gió đông không sức, hoa ràu xác xơ. 
Thác rồi, tằm mới hết tơ ; 
Tàn rồi, nến mới cạn khô lệ sầu . 
Soi gương, buồn tóc đổi màu ; 
Ngâm đêm, mới biết trăng thâu lạnh lùng. 
Có xa xôi mấy non Bồng, 
Dò đường hỏi lối, cây cùng chim xanh.
(8*) Ôn Đình Quân (812-870): vốn tên Kỳ, tự Phi Khanh, người Thái Nguyên (nay thuộc tỉnh Sơn Tây). Nhà thơ nổi tiếng thời Vãn Đường. Thoạt đầu làm chức tần quan cho Từ Thương , trấn thủ Tương Dương. Đời Đường Tuyên Tông , thi đậu tiến sĩ ; được bổ làm chức úy tại Phương thành, rồi đổi sang huyện Tùy. Năm 866 (đời Đường Ý Tông ), được cử làm chủ thí. Cuối cùng làm đến chức Quốc tử trợ giáo . 
Ôn Đình Quân tinh thông âm luật , giỏi đàn sáo , là đại từ gia của đời Đường. Nổi tiếng ngang với Lý Thương Ẩn , người đương thời gọi là Ôn Lý.
Dao sắt oán
Băng điệm ngân sàng mộng bất thành   
Bích thiên như thủy, dạ vân khinh   
Nhạn thanh viễn quá Tiêu Tương khứ   
Thập nhị lâu trung nguyệt tự minh. 
Tiếng đàn ai oán
Mộng hờ giường bạc chăn băng  
Mây đêm nhẹ hẫng nước xanh màu trời  
Tiêu Tương tiếng nhạn xa vời  
Mười hai cung Quảng trăng soi một mình. 
Quỳnh Chi phóng dịch 
(8**) Vương An Thạch (1021-1086), tự Giới Phủ, hiệu Bán Sơn Lão Nhân, người ở Phủ Châu - Lâm Xuyên (nay là huyện Đông Hương, tỉnh Giang Tây), là một nhà văn nổi tiếng thời nhà Bắc Tống và cũng là nhà kinh tế, chính trị lỗi lạc trong lịch sử Trung Quốc. Ông là một trong bát đại gia về văn xuôi và thơ phú từ thế kỷ 7 đến thế kỷ 13 ở Trung Quốc, gồm có: Hàn Dũ Liễu Tông Nguyên đời Đường, Âu Dương Tu, Tô Tuân, Tô Thức, Tô Triệt, Tằng Củng và ông. Giữa Vương An Thạch và Tô Thức (8**1) có một giai thoại: Tô Đông Pha đọc thơ của Vương An Thạch, thấy có hai câu: Minh nguyệt sơn đầu khiếu / Hoàng khuyển ngọa hoa tâm.
Đông Pha chê là vô lý: trăng sáng sao lại hót ở đầu núi, chó vàng sao lại nằm trong lòng hoa được? Nghĩ như vậy nên Đông Pha lấy bút sửa chữ khiếu ra chữ chiếu, sửa chữ tâm thành chữ âm, thành ra: Minh nguyệt sơn đầu chiếu / Hoàng khuyển ngọa hoa âm (Trăng sáng soi đầu núi / Chó vàng nằm dưới hoa). Sau đó, Tô Đông Pha bị đổi tới một nơi ở phía nam.     Ở đó, Đông Pha thấy một loài chim tên là Minh nguyệt, và một loài sâu tên là Hoàng khuyển. Lúc đó, Đông Pha nhớ lại hai câu thơ của Vương An Thạch, có nghĩa là: Con chim Minh nguyệt hót ở đầu núi / Con sâu Hoàng khuyển nằm giữa đóa hoa. Lúc ấy Đông Pha mới biết kiến thức của mình còn kém họ Vương nhiều.
(8**1) Tô Thức (1037-1101), tự Tử Chiêm, một tự khác là Hòa Trọng, hiệu Đông Pha cư sĩ nên còn gọi là Tô Đông Pha, là nhà văn, nhà thơ, nhà thư pháp, họa sĩ nổi tiếng Trung Quốc thời Tống. Ông được mệnh danh là một trong Bát đại gia Đường Tống.
Thủy Điệu Ca
Minh nguyệt kỉ thời hữu?
Bả tửu vấn thanh thiên:
"Bất tri thiên thượng cung khuyết,
Kim tịch thị hà niên?"
Ngã  dục thừa phong qui khứ,
Hựu củng huỳnh lâu ngọc vũ,
Cao xứ bất thăng hàn.
Khởi vũ lộng thanh ảnh,
Hà  tự tại nhân gian!  
Chuyển chu các,
Ðê  ỷ hộ,
Chiếu vô miên,
Bất ưng hữu hận,
Hà  sự trường hướng biệt thời viên?
Nhân hữu bi hoan li hợp,
Nguyệt hữu âm tình viên khuyết,
Thử sự cổ nan toàn.
Ðãn nguyện nhân trường cửu,
Thiên lý  cộng thiền quyên. 
Bản dịch
Mấy lúc có trăng thanh?
Cất chén hỏi trời xanh:
"Cung khuyết trên chính từng,
Ðêm nay là  đêm nào?"
Ta muốn cưỡi gió bay lên vút,
Lại sợ lầu quỳnh cửa ngọc,
Trên cao kia lạnh buốt.
Ðứng dậy múa giỡn bóng,
Cách biệt với nhân gian!  
Trăng quanh gác tía,
Cuối xuống cửa son,
Dòm kẻ thao thức,
Chẳng nên ân hận,
Sao cứ biệt li thì trăng tròn?(a)
Ðời người vui buồn li hợp,
Trăng cũng đầy vơi mờ tỏ,
Xưa nay đâu có vạn toàn.
Chỉ nguyện đời ta trường cửu,
Bay ngàn dặm cùng với thuyền quyên (b).
Người dịch: Nguyễn Hiến Lê
Chú thích: (a) Nhớ người em là Tử Do. (b)  Tiếng thuyền quyên này nghĩa gốc trỏ mọi người đẹp, không riêng đàn bà, ở đây trỏ Tử Do. Chính là thiền, ta quen đọc là thuyền.
(8**2) Hàn Dũ (768 - 824) tự Thoái Chi, sinh tại đất Hà Dương, Hà Nam, Trung Quốc (nay thuộc Mạnh Châu, tỉnh Hà Nam); làm quan về đời vua Đường Hiến Tông (806 - 820) tới Binh bộ thị lang, Lại bộ thị lang.
(8**3) Liễu Tông Nguyên (773-819), tự Tử Hậu, là nhà văn, nhà thơ nổi tiếng thời trung Đường, Trung Quốc. Dịch Quân Tả, một học giả người Trung Quốc, giới thiệu:
Thơ Liễu Tông Nguyên: siêu việt, trần tục, thanh dật, nhàn đạm, rất gần với Đào Tiềm. Hai bài hay nhất của ông còn truyền là Giang Tuyết và bài Ngư ông.
Phiên  âm Hán-Việt:
Giang tuyết
Thiên sơn điểu phi tuyệt,
Vạn kính nhân tung diệt,
Cô chu thôi lạp ông,
Độc điếu hàn giang tuyết  
Dịch nghĩa:
Tuyết trên sông
Giữa ngàn non, chim bay bổng tuyệt mù trời.
Trên vạn nẻo đường tắt, dấu vết người vắng hẳn.
Thuyền lẻ loi có ông già mang nón lá áo tơi,
Một mình ngồi câu trên dòng sông đầy tuyết lạnh.
(8**4) Âu Dương Tu (1007 - 1072) có tên tự là Vĩnh Thúc hiệu "Túy Ông" là nhà thơ thời Tống ở Trung Quốc. Quê Âu Dương Tu ở Lư Lăng (nay thuộc tỉnh Giang Tây, Trung Quốc). Năm Thiên Thánh thứ 7(1030) đỗ đầu khoa thi tiến sĩ; từng giữ các chức quan Hàn lâm học sĩ, Xu mật viện phó sứ, Tham tri chính sự... Dưới thời vua Tống Thần Tông làm Binh bộ Thượng Thư, khi mất được đặt tên thụy là Văn Trung.
Âu Dương Tu là một nhà văn nổi tiếng, một nhà thơ lớn, một nhà sử học, chính trị gia và đồng thời là một nhà làm Từ xuất sắc đời Tống. Ông là người khai sáng ra thể loại "thi thoại"(bình luận và ghi chép lại các cuộc bàn luận của các thi nhân,...), cuốn "Lục Nhất thi thoại" là cuốn thi thoại đầu tiên của Trung Quốc. Ông còn viết những bài rất nổi tiếng như Túy Ông đình kí, Mai Thánh Du thi tập tự , Thu thanh phú, Bằng đảng luận. Vì thế, Âu Dương Tu tự xưng mình là "Lục nhất cư sĩ" (cư sĩ với 6 cái "một": một vạn quyển sách, một ngàn thạch văn, một cây đàn, một bàn cờ, một bầu rượu và một thân già).
(9) Vương Duy (701-761): tự Ma Cật, người huyện Kỳ, Tấn Trung, Sơn Tây, Trung Quốc. Ông là một nhà thơ, một họa sĩ, một nhà viết thư pháp và một chính khách nổi tiếng đời Đường. Ông còn được người đời gọi là Thi Phật. Cùng với Lý Bạch (Thi Tiên) và Đỗ Phủ (Thi Thánh) là ba người nổi tiếng về tài thơ ca thời Đường. Ngày nay còn giữ được khoảng 400 bài thơ của ông, với phong cách tinh tế, trang nhã. Vương Duy còn là một nhạc sĩ, một nhà thư pháp, đặc biệt là một họa sĩ nổi tiếng. Ông cũng là người tinh thông về Phật học và theo trường phái Thiền tông. Trong Phật giáo có Duy Ma Cật kinh, là kinh sách do Duy-ma-cật dùng để giảng dạy cho môn sinh. Vương Duy là người kính trọng Duy-ma-cật do ông có tên là Duy, tự là Ma Cật.
Năm Khai Nguyên thứ 9 (721) thời Đường Huyền Tông, Vương Duy đỗ tiến sĩ, nhận chức quan đại nhạc thừa, sau phạm điều cấm, bị khiển trách và phải đến Tế Châu làm tham quân. Năm Khai Nguyên thứ 14 (726), ông từ bỏ quan chức, nhưng sau đó lại nhận chức hữu thập di, thăng tới giám sát ngự sử. Năm 40 tuổi, được thăng lên điện trung truyền ngự sử. Năm Thiên Bảo thứ 14 (755), An Lộc Sơn chiếm Trường An. Vương Duy bị An Lộc Sơn bức bách ra làm quan, nhưng sau không được như ý, ông đã lui về ở tại biệt thự Lam Điền, sáng tác thơ ca để biểu đạt lòng mình. Tô Đông Pha đời Tống khi viết về Vương Duy có câu:  “vị Ma Cật chi thi, thi trung hữu họa; quan Ma Cật chi họa, họa trung hữu thi”, dịch nghĩa: Thưởng thức thơ của Ma Cật, trong thơ có họa đồ; ngắm họa đồ của Ma Cật, trong họa đồ có thơ.
 (10) Đỗ Mục tự Mục Chi, hiệu Phàn Xuyên, người Vạn Niên, quận Kinh Triệu (nay là Trường An tỉnh Thiểm Tây), sinh vào cuối đời Đường Đức Tông (742-805). Ông nội Đỗ Hựu vừa là một tể tướng giỏi về lý tài, vừa là một sử gia biên soạn sách Thông điển. Anh ông là Đỗ Sùng, phò mã, làm đến tiết độ sứ, rồi tể tướng.
Năm 828, 26 tuổi, ông đỗ tiến sĩ, lại đỗ luôn khoa chế sách Hiền lương phương chính, được bổ chức hiệu thư lang ở Sùng văn quán, rồi ra làm đoàn luyện tuần phủ tại Giang Tây, sau đó đến Hoài Nam làm thơ ký cho tiết độ sứ Ngưu Tăng Nhụ, lại đổi về làm giám sát ngự sử tại Lạc Dương. Năm 835, ông đi chơi Hồ Châu, rồi cứ bị đổi làm thứ sử hết nơi này đến nơi khác (Hoàng Châu, Từ Châu, Mục Châu). Năm 849, ông nhờ một người bạn làm tướng quốc xin cho về thái thú Hồ Châu, sau đổi khảo công lang trung tri chế cáo, và cuối cùng làm Trung thư xá nhân.
(11)  Lý Hạ (tự là Trường Cát; 790-816) là một nhà thơ từ Xương Cốc, tỉnh Hà Nam, Trung Quốc. Cùng với Thi Thánh Đỗ Phủ, Thi Tiên Lý Bạch, Thi Phật Vương Duy, Lý Hạ được mệnh danh là Thi Quỷ mà thiên cơ khéo sắp đặt cho bốn thiên tài Phật Tiên Thánh Quỷ cùng hội tụ trong một thời đại cực thịnh của thi ca Trung Hoa - Đường thi. 
(12) Trương Nhược Hư (sinh khoảng 660 - mất khoảng 720): ở Dương Châu (nay là huyện Giang Đô, tỉnh Giang Tô) là một nhà thơ thời nhà Đường, Trung Quốc. Bản tính ông vốn không thích danh lợi, thường ngao du khắp thiên hạ để tìm bạn thơ; ông cùng với Hạ Tri Chương, Trương Húc, Bao Dung được người đương thời gọi là "Ngô trung tứ sĩ" (Bốn danh sĩ đất Ngô).
Từ điển văn học (bộ mới) nhận xét: Phong cách thơ Trương Nhược Hư trong sáng hoa lệ, giàu chất trữ tình, có vị trí quan trọng trong sự chuyển biến thơ ca từ thời sơ Đường đến thịnh Đường. Sáng tác của ông thất lạc gần hết, trong Toàn Đường thi chỉ ghi lại được 2 bài thơ của ông là Đại đáp khuê mộng hoàn (Đáp thay Khuê Mộng Hoàn) và Xuân giang hoa nguyệt dạ (Đêm hoa trăng trên sông xuân).
(13) Vương Bột:(647-675), tự Tử An, người Giáng Châu, Long Môn (ngày nay là Hòa Tân, Sơn Tây) thời nhà Đường. Vương Bột được xem là một trong "Sơ Đường tứ kiệt" (bốn nhà thơ kiệt xuất giai đoạn đầu của nhà Đường), 3 nhà thơ còn lại là: Dương Quýnh , Lư Chiếu Lân và Lạc Tân Vương . Tác phẩm nổi tiếng của ông là Đằng Vương Các Tự. Các tác phẩm nổi tiếng khác của Vương Bột có: Hán Thư Chỉ Hà (10 quyển) ; Chu Dịch Phát Huy (5 quyển) ; Thứ Luận Ngữ (10 quyển) ; Chu Trung Toản Tự (5 quyển) ; Thiên Tuế Lịch.Tất cả các tác phẩm trên đều bị thất bản.
Đằng Vương các là tên gọi của ba nhà lầu có gác do Đằng Vương Lý Nguyên Anh thời nhà Đường cho xây dựng tại các tỉnh Giang Tây, Tứ Xuyên và Sơn Đông. Trong số này, nổi tiếng nhất là Đằng Vương các ở Giang Tây, do nó gắn liền với bài thơ Đằng Vương các tự của Vương Bột. Đằng Vương các ở Nam Xương, tỉnh Giang Tây là một trong ba đại danh lầu của vùng Giang Nam, cùng với Nhạc Dương lâu ở Hồ Nam, Hoàng Hạc lâu ở Hồ Bắc.

Sài Gòn, tháng 9-2010
Đỗ Ngọc Thạch

Em ở Tây Hồ...- Đỗ Ngọc Thạch

http://sonhatour.com/www/tnd2xh/Image/Du-lich-Hanoi.jpg

Truyện ngắn Đỗ Ngọc Thạch

Truyện ngắn Đỗ Ngọc Thạch (37)

Em ở Tây Hồ

Em ở Tây Hồ Tôi có bà chị hơn tôi hai tuổi (sinh năm 1946), lấy chồng ở ngay kề sát Hồ Tây, là dân Hồ Tây chính cống. Khi bà chị tôi sinh cháu trai, tôi còn đang rảnh rỗi nên thường đến nhà chị chăm sóc cháu bé, cứ hai ba ngày lại đi một lần. 


Táo quân truyện

ong-taoNgày xưa, có hai vợ chồng son, nhà nghèo. Họ đều sinh nhai bằng nghề làm thuê làm mướn. Tuy nghèo nhưng họ rất yêu nhau. Thường buổi tối sau khi đi làm về, hai vợ chồng ngồi bên bếp lửa hay dưới ánh trăng kể cho nhau những chuyện xa gần mới nghe được, hay hát những câu tình duyên, có khi vui vẻ quên cả cơm nước.

Kim ngân điền

Huyện Lâm Đồi là một huyện vùng bán sơn địa, đất đai cây cối chỉ vào loại thường thường bậc trung, không có gì nổi bật. Người dân ở huyện Lâm Đồi được cái chăm chỉ làm ăn, chịu khó xoay trở nên cũng đủ ăn, thiên hạ thái bình…

Đọc lại Bóng Chữ của Lê Đạt

le-datCuộc đời và Thơ Lê Đạt (1) có thể chia làm ba chặng: chặng một trước “vụ Nhân văn-Giai phẩm”, từ 1955 đến 1958; chặng hai tính từ lúc “gặp nạn” cho đến lúc được “xóa tội” là 30 năm (1958-1988); chặng ba là lúc cuối đời, được tự do hoàn toàn, là 20 năm (1988-2008).

Bát Tiên (2)

battien2Hán Chung Ly, họ là Chung Ly đời nhà Hán , tên là Quyền, hiệu là Vân Phòng, làm Ðại Tướng trong triều đình nhà Hán.


Thứ Tư, 14 tháng 11, 2012

Cô gái Sơn Tây...; Tướng sát phu - Đỗ Ngọc Thạch



Ảnh riêng

Đỗ Ngọc Thạch

Cô gái Sơn Tây...; Tướng sát phu...- Đỗ Ngọc Thạch
  1. 12 truyện của THẠCH'S trên vanvn.net (trích:Cô gái S.Tây...;Tướng ...

    blog.tamtay.vn/entry/view/714041
    Tướng sát phu - chùm truyện ngắn của Đỗ Ngọc Thạch VanVN.Net ( 4/3/2009 11 :09:18 AM ). CÔ GÁI SƠN TÂY VÀ ANH LÍNH BINH NHÌ. Sơn Tây từ xa xưa đã ...
  2. 12 Truyện ngắn Đ.N. Thạch trên vanvn.net (PB cũ) | Blog | Tamtay.vn

    blog.tamtay.vn/entry/view/734679
    2 Tháng Mười 2012 – VanVN.Net ( 3/17/2009 10:58:34 AM ). CHỊ EM SINH BA & Người chép sử. Tất cả hình ảnh. CHỊ EM SINH BA. Ông Trung Dũng đã là cán bộ ...

tác phẩm của THẠCH'S trên VanVn.Net (trích:...sinh ba ... - Yume

yume.vn/.../tac-pham-cua-thach-s-tren-vanvn-net-trich-sinh-ba-chep-...
28 Tháng Chín 2011 – YuMe.vn - Tác phẩm Đỗ Ngọc Thạch trên VanVn.Net (PB cũ): trích đăng: Chị em sinh ba & Người chép sử ĐỖ NGỌC THẠCH - Sài Gòn, 1993 ...

12 truyện ngắn trên VanVn.Net (PB cũ)

Thư mục: truyện ngắn

  ĐỖ NGỌC THẠCH 2010

12 truyện ngắn trên vanvn.net:

trích: Cô gái Sơn Tây...; Tướng sát phu

Home / Mỗi tuần một truyện ngắn, một chùm thơ


Thượng Kinh ký sự
Truyện ngắn của Đỗ Ngọc Thạch
(10/5/2009 11:01:21 AM)
 
 (Hay là: Những lần về Thủ đô Hà Nội)


Sư phụ của sư phụ và sư phụ
Truyện ngắn của Đỗ Ngọc Thạch
(11/2/2009 2:59:31 PM)

Chuyến tàu đêm ba mươi - chùm truyện ngắn của Đỗ Ngọc Thạch
(7/24/2009 10:00:33 AM) Kỷ niệm 62 năm Ngày Thương binh Liệt sỹ 27-7-1947 /  27-7-2009




Con tạo xoay vần -  chùm truyện ngắn của Đỗ Võ Cẩm Thạch
(5/27/2009 10:52:14 AM)

Tướng sát phu - chùm truyện ngắn của Đỗ Ngọc Thạch
VanVN.Net
(4/3/2009 11:09:18 AM)
gồm 2 truyện: Cô gái Sơn Tây...; Tướng sát phu

Chùm truyện ngắn của Đỗ Ngọc Thạch
VanVN.Net
(3/17/2009 10:58:34 AM)
(gồm 2 truyện: Chị em sinh ba; Người chép sử)



Truyện ngắn: "Trạng Me đè trạng Ngọt"
Đỗ Ngọc Thạch
(3/4/2009 11:40:08 AM) Đỗ Ngọc Thạch viết tiểu luận về truyện ngắn thì rất cẩn thận, mạch lạc; nhưng viết truyện ngắn lại lơ đễnh đến mức từ đầu thế kỷ XVI đến hiện giờ lại chỉ có ba bốn đời nhân vật tranh đoạt nhau; cứ như thể người ta có thể sống đến hơn một trăm tuổi như thời các vua Hùng? Nhưng truyện đọc thì hay, cay đắng mà lại rất đỗi đắm say!..
Lột da mặt
Chùm truyện ngắn của Đỗ Ngọc Thạch
(2/23/2009 9:32:46 AM) Hai truyện ngắn thì cả hai đều có trại tâm thần, không hiểu nó có ẩn dụ gì? Nhưng đọc thì xót xa, muốn làm một cái gì đấy để không sa vào, để có thể thoát ra, để bổ đi tìm kiếm.

(gồm 2 truyện: Lột da mặt; Cô Tấm và quả thị)
Home / Truyện ngắn

Tướng sát phu - chùm truyện ngắn của Đỗ Ngọc Thạch
VanVN.Net
( 4/3/2009 11:09:18 AM )
CÔ GÁI SƠN TÂY VÀ ANH LÍNH BINH NHÌ
Sơn Tây từ xa xưa đã là phên giậu của kinh đô Thăng Long . “Vùng đất Sơn Tây nẩy một ông / Tuổi chửa bao nhiêu văn rất hung  /Sông Đà núi Tản ai hun đúc ?/ Bút thánh câu thần sớm vãi vung…” – ông này là ông Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu, thi sĩ quái kiệt của hai thế kỷ, là một trong số ít những ngôi sao sáng chói nhất trên bầu trời văn chương Việt Nam ở thế kỷ 20. Trong những năm cuối của thập niên 1960, tôi đã có cơ duyên được sống và chiến đấu (trong binh chủng Ra-đa) trên quê hương Bất Bạt của thi sĩ Tản Đà, và cũng ở cả những huyện khác của Sơn Tây như Quốc Oai, Tùng Thiện, Phúc Thọ…Đó là thời kỳ chúng ta đánh trả cuộc chiến tranh phá hoại của không quân Mỹ, đơn vị Ra-đa của chúng tôi làm nhiệm vụ dẫn đường cho không quân ta ở sân bay Hòa Lạc …
       Truyện ngắn này không phải nói về cuộc chiến đấu ác liệt ngày đó, mà nói về một cô gái Sơn Tây – một ký ức vẫn còn nguyên hình nguyên khối trong những năm tháng tuổi thanh niên của tôi – một ký ức đã thôi thúc, ép buộc tôi phải viết bằng được cái truyện ngắn này, dù thời gian đã qua đi gần 40 năm…
* * *
 Lúc mới nhập ngũ, tôi ở một đơn vị Ra-đa đóng quân trên quê hương Hưng Yên nổi tiếng với đặc sản nhãn lồng và những cô thôn nữ đa tình xinh đẹp. Nói đa tình vì các cô thôn nữ ở đây rất thích có người yêu là lính. Mặc dù cái câu ca “Ai ơi chớ lấy binh nhì / Năm đồng một tháng lấy gì nuôi con” được truyền lan rất rộng, nhưng cánh lính binh nhì chúng tôi kiếm người yêu không khó khăn gì. Nhát gái như tôi mà chỉ sau một tuần, tôi đã có người yêu khá xinh, và nếu như lúc đó, tôi muốn có vợ thì bố mẹ cô gái sẽ cho cưới ngay ! Nhưng, lúc đó tôi không hề biết chuyện vợ chồng là như thế nào, gọi là yêu nhưng thực ra chỉ mới là giai đoạn đầu, tức là thích, mến mà thôi. Đó là thời mà tình yêu của tuổi trẻ chúng tôi thật vô tư, trong sáng (Sau này, khi đã giải ngũ, tôi có quay trở về nơi đây tìm lại cô gái đã cho tôi mối tình vụng dại ấy thì được biết cô thôn nữ bé nhỏ ngày nào đã trở thành một cán bộ lãnh đạo cấp huyện và đã có chồng con đề huề  !). Nhắc lại cô thôn nữ Hưng Yên một chút vì có liên quan đến cô gái Sơn Tây, nhân vật của truyện ngắn này.Do yêu cầu chiến đấu, một đơn vị Ra-đa mới được thành lập để dẫn đường cho không quân ở sân bay Hòa Lạc thuộc vùng đất Sơn Tây. Tôi được điều tới đơn vị mới đó. Trước khi tôi đi Sơn Tây, mấy cô thôn nữ Hưng Yên nói :
- Sơn Tây là vùng đồi trọc nắng cháy khét, chó ăn đá gà ăn sỏi ! Anh lên đó thì làm gì có nhãn lồng ngọt lịm nữa ! Hay là anh xin ở lại đi !
- Xin sao được ! – Tôi nói ngay – Quân lệnh như sơn !...
- Mà anh đã biết gì về con gái Sơn Tây chưa ? – Một cô vừa cười vừa nói – “Con gái Sơn TâyYếm thủng đầu chầyRăng đen hạt mít, má hồng chôn niêu” !
-   Sao cô lại nói xấu người ta như vậy ? – Mặc dù tôi rất ngạc nhiên vì đây là lần đầu tôi nghe đọc câu đó, tôi vẫn không tin lại có chuyện như vậy và cãi - Ở đâu cũng có người đẹp và người xấu ! Người đàn bà xấu nhất Việt Nam là cô nàng Thị Nở ở đất  Nam Định mà nhà văn Nam Cao đã mô tả !
     Cuộc tranh luận bị chấm dứt vì có lệnh lên đường ngay ! Cùng đi với tôi là anh bạn binh nhì Thế Hùng (người Tuyên Quang – nay đã mất liên lạc). Cô người yêu của Thế Hùng thật là đa cảm, khóc như mưa rào ! Còn cô người yêu của tôi, chẳng nói được gì, đến phút chót mới dúi vào tay tôi một cái khăn thêu nhỏ thêu hình hai con chim đang bay ríu vào nhau trong một trái tim !...
      Trên đường đi Sơn Tây, thỉnh thoảng, Hùng lại đọc câu thơ :
     “Rứa là hết, chiều nay ta đi mãi
       Còn mong chi ngày gặp lại em ơi !...”
Tôi nói với Hùng :
- Thôi cái giọng ủy mị ấy đi ! Mày phải đọc câu “Bước chân đi đầu không ngoảnh lại !...” Làm người lính thời chiến không được “vương tơ lòng” !
Hùng cười mếu máo :
- Tao là con người chứ có phải gỗ đá đâu ! Mà đá cũng phải mòn dưới dòng nước chảy, “nước chảy đá mòn” đó là gì ?
- Không phải tất cả đều như thế ! Chúng mình phải là đá vẫn “trơ gan cùng tuế nguyệt” ! Bây giờ chúng mình đã “xếp bút nghiên theo việc binh đao” thì phải cứng rắn, mạnh mẽ, phải luôn luôn hát vang khúc quân hành “đời chúng ta đâu có giặclà ta cứ đi” và cương quyết “không cho chúng nó thoát ! Chúng bay vào sẽ không có đường ra !” – Tôi cao hứng nói một mạch.
     Hùng ngắt lời :
- Thôi, đủ rồi ! Bây giờ chỉ có hai thằng, chẳng ai ghi điểm cho mày đâu ! Bây giờ tao muốn hỏi mày điều này : cái vùng đất Sơn Tây nắng cháy khét “chó ăn đá gà ăn sỏi” ấy như thế nào, mày đã đến đó lần nào chưa ? 
- Tao mới đến qua sách vở như mày thôi ! Nhưng dù sao vẫn không thể bỏ ngoài tai lời các cô thôn nữ ở Hưng Yên đã nói. Tao rất sợ nóng. Vậy chúng ta cứ theo cái địa chỉ trong câu thơ của thi sĩ Tản Đà mà đến tắm mát cái đã :
     “Nước rợn sông Đà con cá nhảy,
      Mây trùm non Tản cái diều bay”.
Hùng nghe nói đến tắm sông là hứng khởi ngay. Ở Hưng Yên, bơi trong những con sông đào của công trình thủy lợi lừng danh một thời Bắc-Hưng-Hải không đã nên hai chữ Sông Đà thật là hấp dẫn đối với chúng tôi !
    Xin nói thêm là lần chuyển đến đơn vị mới này, chúng tôi phải tự tìm đường mà đi, từ Hưng Yên (huyện Văn Lâm) tới Sơn Tây (huyện Bất Bạt – quê hương thi sĩ Tản Đà). Chúng tôi đi nhờ ôtô từ Như Quỳnh về Hà Nội, rồi nhờ xe tiếp từ Hà Nội tới thị xã Sơn Tây, còn sau đó là đi bộ…Khỏi phải nói sự sung sướng tột cùng của chúng tôi khi tới Sông Đà, nhảy ào xuống rồi vùng vẫy, bơi tung tăng như con cá !...Quê tôi ở bên bờ Sông Thao, làng quê Hùng có Sông Lô, đều là những con sông nổi tiếng, và chúng tôi đã từng bơi vượt sông nhiều lần, nay đến Sông Đà, chẳng lẽ lại không dám vượt Sông Đà ? Thế là tôi và Hùng quyết định bơi qua bờ bên kia ! Có lẽ do chúng tôi đi bộ nhiều và đã quá mệt mỏi nên bơi gần tới bờ bên kia thì tôi đuối sức và bỗng nhiên có cảm giác như bị hút tuột xuống đáy sông, rồi tôi bất tỉnh, không biết gì nữa !...
    Do sức trai trẻ và cũng là dân sông nước nên chỉ năm phút sau là tôi đã tỉnh lại, thấy mình đang nằm trên bãi cát bờ sông bên kia. Hùng đang ngồi nói chuyện với một cô gái cao lớn khỏe mạnh như một vận động viên bóng chuyền, nhưng gương mặt thật phúc hậu. Thì ra lúc tôi bị hụt hơi rồi chìm nghỉm, Hùng vì cứu tôi mà cũng bị chìm luôn. May mà lúc đó, Tản Viên – tên cô gái, đang chăn bò gần đó đã nhìn thấy và cứu chúng tôi .
     Nhà Tản Viên ở bờ bên kia sông Đà, tức là phía bờ chúng tôi muốn bơi qua, tức đối diện với làng quê của thi sĩ Tản Đà. Vì ngưỡng mộ thi sĩ Tản Đà mà ông bố của cô gái đã đặt tên con là Tản Viên và cũng muốn con mình trở thành thi sĩ. Song, ông chưa kịp nhìn thấy con trưởng thành thì ông đã hi sinh ở chiến trường Điện Biên năm Tản Viên mới năm tuổi (Tản Viên cũng sinh năm 1948, tức bằng tuổi tôi và Hùng). Không biết sau này Tản Viên có thành thi sĩ hay không, nhưng lúc gặp chúng tôi thì cô đang chăn đàn bò mười con, số tài sản chính để nuôi bảy người : ông bà nội, mẹ và bốn chị em mà Tản Viên là thứ hai. Tản Viên cũng có giấy gọi vào đại học nhưng gia cảnh nhà cô quá khó khăn : ông bà nội đều già yếu, mẹ cô bị thương gãy một chân trong đợt đi dân công hỏa tuyến hồi chiến dịch Điện Biên, cho nên người lao động chính trong nhà là cô và người chị chỉ hơn cô một tuổi. Cùng tuổi với chúng tôi, lại cũng có cảnh ngộ chung là đường học vấn bị đứt đoạn (chúng tôi tuy đã là sinh viên đại học Tổng hợp Hà Nội , nhưng mới được ba tháng thì nhập ngũ) nên tôi, Hùng và Tản Viên nhanh chóng trở thành những người bạn thân. Nhưng, do chỗ đóng quân của đơn vị chúng tôi ở bên này sông, còn nhà Tản Viên lại ở bên kia sông cho nên tình bạn của chúng tôi đầy cách trở và đó cũng là nguyên nhân chính để có cái truyện ngắn này…
* * *
Đối với con gái, lúc mới tiếp xúc, người ta thường chú ý đến hình thức và cái đẹp hình thức quyết định hết thảy. Nhưng qua sự phán xét của thời gian, cái vẻ đẹp hình thức không còn là yếu tố quyết định nữa mà vẻ đẹp tâm hồn – vẻ đẹp nữ tính mới là yếu tố quyết định . Những cô gái mà có được cả hai, tức cả vẻ đẹp hình thức và vẻ đẹp tâm hồn thì tức là vẹn toàn : đẹp người đẹp nết ! Song, những cô gái được như vậy thật hiếm !
     Phải nói một cách công minh rằng cô bạn Tản Viên của chúng tôi không có gì vượt trội về vẻ đẹp hình thức, nếu chấm điểm thì chỉ trung bình, nhưng không hiểu sao, khi tiếp xúc với Tản Viên, cả tôi và Hùng đều không hề có ý nghĩ bình phẩm về hình thức bên ngoài của cô, thậm chí chúng tôi còn thấy Tản Viên rất đẹp mỗi khi nhớ tới mấy câu vần vè ác ý mà các cô thôn nữ ở Hưng Yên đã đọc về cô gái Sơn Tây ! Và điều Tản Viên khiến tôi thật sự kinh ngạc là cô có sức khỏe phi thường : cô có thể cầm hai sừng của con bò mộng mà ghìm đầu nó xuống đất hoặc đẩy nó đi giật lùi ! Tôi hỏi tại sao cô có sức khỏe như vậy thì Tản Viên chỉ cười và nói :
-  Có lẽ từ bé, lên sáu tuổi, em đã phải vật lộn với đàn bò và có thể là do ngày nào cũng bơi vượt sông một lần!...
   Chúng tôi thường hẹn nhau ở bờ sông, chỗ lần đầu tiên gặp nhau. Mỗi khi Tản Viên dẫn đàn bò tới bờ sông uống nước, thường là vào buổi chiều, thì cô lại thả một con diều sáo bay vi vu trên trời để báo hiệu cho chúng tôi biết là cô đang ở đó. Giờ đó là lúc đơn vị chúng tôi ăn cơm chiều và nghỉ ngơi đến bảy giờ tối là giờ sinh hoạt tập thể (hôm thì nghe nói chuyện thời sự, hôm thì học hát, vân vân và vân vân). Từ năm giờ chiều đến bảy giờ tối, đó là khoảng thời gian trống dài nhất để chúng tôi có thể gặp Tản Viên. Việc đi gặp Tản Viên của chúng tôi phải giữ bí mật vì nói chung, đơn vị cấm mọi quan hệ riêng tư với dân nơi đóng quân. Một tuần chỉ có một lần được vào làng xóm thoải mái gọi là đi “dân vận”, nhưng phải đi tập thể theo từng tổ ba người. Vì thế, khi nghe thấy tiếng sáo diều của Tản Viên, ngó về hướng nhà cô thấy con diều sáo đang lơ lửng trên trời, thì Hùng đọc lên câu “mật khẩu”: Nước rợn sông Đà con cá nhảy / Mây trùm non Tản cánh diều bay, và thế là chúng tôi lẳng lặng đi thật nhanh đến chỗ hẹn (khoảng nửa cây số). Thường là Tản Viên chèo con thuyền nhỏ sang bên bờ sông thuộc địa phận chúng tôi đóng quân, rồi bơi ra giữa sông, hôm thì thi bơi, hôm thì ngồi trên thuyền nói chuyện trên trời dưới biển. Cách một ngày, chúng tôi mới có thể đi gặp Tản Viên được vì cách một ngày trực ban chiến đấu một ngày. Vì thế, việc gặp gỡ của ba chúng tôi không nhiều nhặn gì. Vậy mà chỉ ba tháng sau, những cuộc hẹn hò của chúng tôi đã bị đại đội phó phát hiện và chuyện gì phải xảy ra đã xảy ra !
    Buổi chiều hôm ấy,  khi chúng tôi vừa tới chỗ hẹn bờ sông thì bất ngờ gặp đại đội phó Tân . Đại đội phó hỏi ngay :
- Các cậu đi đâu đấy ?
- Báo cáo thủ trưởng, chúng em đi bơi ! – Hùng nói ngay.
- Các cậu có biết đi khỏi doanh trại 100 mét mà không được phép là vi phạm kỷ luật quân đội không ?
- Báo cáo…Chúng em đã xin phép tiểu đội trưởng ! – Hùng lại nói thay cho cả tôi, không hiểu sao nó phản ứng nhanh thế?
    Đại đội phó nhếch mép cười, nói rõ từng tiếng :
-   Thôi, nói dối đủ rồi đấy ! Chính tiểu đội trưởng các cậu đã báo cáo với tôi rằng gần ba tháng nay, chiều chiều các cậu lại hẹn hò với một cô gái bên kia sông. Các cậu ép buộc tiểu đội trưởng phải cho các cậu “đi bơi” nếu không thì sẽ tố cáo tiểu đội trưởng “dan díu” với bà Đào mẹ cô Mận !
     Tôi cũng nói rõ từng tiếng :
- Báo cáo đại đội phó, chúng em chỉ vô tình nhìn thấy tiểu đội trưởng “dan díu” với bà Đào, chúng em không hề nói với tiểu đội trưởng rằng sẽ tố cáo anh ta. Còn việc chúng em đi bơi trong giờ nghỉ tự do là hoàn toàn hợp pháp. Thủ trưởng hãy thử hỏi chị Tình phó chủ tịch xã xem em nói đúng không ?
    Đại đội phó nghe đến mấy tiếng “chị Tình phó chủ tịch xã” thì ngớ người, mặt đỏ bừng rồi phút chốc chuyển sang tím tái, ánh mắt nhìn tôi như muốn tóe lửa! Tôi đọc được ánh mắt ấy:”A! Thằng nhóc, láo! Mày chỉ là binh nhì lính quèn mà dám nắm thóp thủ trưởng của mày à? Chúng mày đừng tưởng là lính sinh viên đại học thì muốn làm gì cũng được! Tao sẽ cho mày đi làm “hỏa đầu quân” hoặc đầy lên vùng biên ải cho mày trắng mắt ra con ạ!”. Tôi vừa “đọc” đến đó thì đại đội phó gằn giọng, nói nhanh:
- Binh nhì Hùng và binh nhì Thạch, về ngay đơn vị gặp chính trị viên đại đội !
   Tôi vụt nghĩ: A, thì ra cuộc “bắt quả tang” này đã được tính trước! Tôi vừa nghĩ vậy thì giật mình khi nhìn thấy Tản Viên đang ngồi trên con thuyền nhỏ, từ từ bơi vào bờ. Đại đội phó cũng đã nhìn thấy Tản Viên, liền đi ngay ra bờ sông, tới nơi thì con thuyền cũng cập bờ. Cả tôi và Hùng lúc ấy đều chết đứng như Từ Hải ! Không biết đại đội phó nói gì với Tản Viên mà thấy cô để cho ông ta lên thuyền và con thuyền bơi trở lại bên kia. Tới giữa sông, con thuyền như dừng lại khoảng năm phút rồi như là có sự vật lộn giữa hai người, rồi chỉ hai phút sau đó, con thuyền lật úp. Tôi và Hùng cùng thét lên khi nhìn thấy cảnh đó và cùng chạy như bay ra bờ sông. Chúng tôi vừa định nhảy xuống sông thì cùng rú lên kinh ngạc khi thấy Tản Viên nổi lên ngay sát bờ, lôi theo cả đại đội phó, đã ngất xỉu, như một xác chết!
 Chúng tôi làm hô hấp nhân tạo cho đại đội phó, rồi Hùng cõng đại đội phó chạy về đơn vị. Tôi vội hỏi Tản Viên:
- Vừa rồi xảy ra chuyện gì vậy?
 - Lúc đầu ông ta nói chở ông ta qua sông có việc khẩn cấp. Nhưng ra tới giữa sông, ông ta nói cho ông ta “ thỏa mãn” thì sẽ tha tội cho anh và Hùng. Em không chịu và nói các anh không có tội gì cả! Ông ta dám xúc phạm em, bảo em xấu xí như thế mà được ông ta “chiếu cố” thì phải cảm ơn chứ, thế là em tức quá, bóp “hạ bộ” ông ta rồi lật thuyền cho chìm luôn! Hình như ông ta không biết bơi? Em sợ quá phải lôi ông ta vào bờ ngay thì vừa gặp các anh tới. Chuyện chỉ có vậy thôi, anh cứ yên tâm, ông ta không dám trả thù đâu vì sẽ bị đau dăm ngày, “đòn đau nhớ đời” mà !
   Tôi vội chạy đuổi theo Hùng, nhưng về tới đơn vị mới kịp. Y tá đại đội tiếp tục chăm sóc cho đại đội phó, chúng tôi vội chạy ngay về tiểu đội , tìm tiểu đội trưởng nhưng không thấy đâu, tới giờ sinh hoạt tổ ba người rồi mà!...
 Sau chuyện đó, chỉ năm ngày, đại đội phó Tân đã hồi phục sức khỏe. Tôi và Hùng được gọi lên ban chỉ huy đại đội thì đã thấy đại đội phó đang ngồi ở đó. Đại đội phó nói luôn:
- Tác phong quân sự là ngắn gọn, chính xác. Tôi nói ngay thế này: có lệnh của quân lực Trung đoàn điều hai đồng chí về một đơn vị ở Nghệ Tĩnh. Ngày mai lên đường!
- Rõ ! – cả tôi và Hùng đồng thanh, như là phản xạ tự nhiên !
- Vậy là xong việc. Còn đây là câu chuyện nói thêm – đại đội phó “e hèm” rồi nói nhỏ nhẹ - Nếu hai cậu muốn ở lại, tôi có thể giúp. Nhưng hai cậu cũng phải giúp tôi một việc !...
Hùng nhanh nhẩu nói :
- Thủ trưởng cứ nói, đừng nói là một việc mà mười việc chúng em cũng sẵn sàng !
- Giỏi lắm ! – Đại đội phó vỗ vai Hùng – Cậu rất hiểu đời. Bây giờ Khu Bốn đang là biển lửa, bọn Mỹ đang tập trung đánh phá tuyến đường huyết mạch vào Nam , các cậu vào đó khó có thể bảo toàn sinh mạng !
- Em còn bố mẹ già và bốn đứa em nhỏ, em phải sống để phụng dưỡng cha mẹ và nuôi các em !... – Hùng nghẹn ngào như sắp khóc !
- Tôi hiểu hoàn cảnh của cậu ! Vì thế, tôi rất muốn giúp, tôi sẽ nói với quân lực điều người khác, các cậu sẽ được ở lại !
- Em xin đội ơn Thủ trưởng !
Trong khi Hùng đang nắm chặt lấy tay của đại đội phó van vỉ thì tôi thấy máu trong người như sôi lên, tôi như nhìn thấy cái điều kiện mà đại đội phó sẽ thò ra, tôi muốn nói với Hùng hãy nhận ngay quyết định đi Khu Bốn ngay ! Nhưng tôi lại chợt nhớ tới những bức thư đẫm nước mắt của cô em gái Hùng…Tôi hít một hơi dài và từ từ thở ra rồi ngồi im như tượng đá ! Tôi nghe thấy tiếng nói của đại đội phó như là từ ở âm phủ vọng về :
- Các cậu chỉ phải làm giúp tôi một việc rất nhẹ nhàng, rất dễ dàng : đó là làm mai mối cho tôi cưới cô bạn của các cậu là cô Tản Viên làm vợ ! Tôi tuổi Thân, cô ta tuổi Tý, rất hợp duyên số, đêm nào tôi cũng thấy Thần linh báo mộng như vậy ! Nếu làm tốt đẹp chuyện nhân duyên này, các cậu sẽ không phải đi Khu Bốn nữa mà sẽ được ở lại , sẽ làm phù rể cho tôi !...
    Máu trong người tôi lại như sôi lên và không biết sự thể sẽ ra sao nếu như Tản Viên không đột ngột xuất hiện ! Tản Viên nói nhỏ nhưng tôi nghe như tiếng sấm :
- Tôi đồng ý điều kiện của đại đội phó !
    Đại đội phó còn bất ngờ hơn cả tôi và Hùng . Việc cưới hỏi đã được định ngày : một tháng nữa sẽ ăn hỏi, ba tháng nữa sẽ đám cưới ! Đại đội phó tỏ ra rất hào phóng : cho Hùng về nhà mười ngày thăm bố mẹ và thăng quân hàm cho chúng tôi từ Binh nhì lên Binh Nhất ! Tôi đưa Hùng cả Sáu ngàn đồng – số tiền phụ cấp đầu tiên của anh Binh Nhất ! Hùng ôm chặt lấy tôi mà khóc như trẻ con ! Tôi thì lại thấy đắng ở trong miệng : đời lính sao mà…Tôi không dám nghĩ tiếp nữa mà chạy đi tìm Tản Viên, hỏi cho ra nhẽ ! Lúc gặp Tản Viên, cô tỏ vẻ bình thản như không có chuyện gì xảy ra…
- Tại sao cô lại biết chuyện chúng tôi sẽ bị điều đi Khu 4 ? Tại sao cô lại quyết định như vậy ? Tại sao?
Tản Viên từ tốn nói nhỏ :
- Anh đừng hỏi gì nữa ! Em không thể để các anh bị liên lụy vì em ! Anh không thấy anh Hùng rất tội nghiệp hay sao?
- Vậy cô đồng ý cưới ông ta thật hay sao ? ông ta có xứng đáng làm chồng cô không ?
- Đã bảo anh đừng hỏi gì nữa ! Em không bao giờ đồng ý làm vợ ông ta, dù ông ta có là tướng tá ! Đây chỉ là kế hoãn binh để cứu các anh !
Trời đất ! Tôi như người đang bay lơ lửng trên không bỗng rơi bịch xuống đất ! Cú rơi tuy rất đau nhưng đã hiểu ra đầu đuôi sự việc rắc rối này ! Trong tình thế này, hoãn binh là kế vẹn toàn nhất ! Tôi thầm thán phục Tản Viên. Người ta nói nếu bằng tuổi nhau thì con gái bao giờ cũng hiểu sự đời thấu đáo hơn con trai, quả nhiên không sai !
Tuy nhiên, tôi lại phải sống trong sự chờ đợi, thấp thỏm lo âu vì ngày ngày nối tiếp nhau qua đi rất nhanh . Hùng hết hạn nghỉ (tranh thủ - trong thời chiến không có nghỉ phép chính thức mà chỉ linh hoạt cho lính tráng về thăm nhà, gọi là tranh thủ, từ này về sau không còn nữa), đã trở lại đơn vị. Nỗi lo của chúng tôi bị nhân đôi !
Trớ trêu thay là sự đời ! Nghiệt ngã thay là số phận ! Trước ngày ăn hỏi một ngày đã xảy ra một sự cố bất ngờ : Một tốp cường kích (máy bay ném bom) của Mỹ từ phía Tây lén bay qua đèo Yên Ngựa (phía nam dãy núi Tản) hòng đánh trộm Hà Nội, chúng tưởng bay sát núi như vậy sẽ tránh được sự phát hiện của Ra-đa, nhưng chúng đã bị phát hiện và hai chiếc MIG 17 của không quân ta đã kịp thời xuất kích, đón đánh. Bị đánh bất ngờ, tốp máy bay cường kích của Mỹ hoảng sợ tháo chạy hỗn loạn, thả bom lung tung để nhẹ cánh. Một quả bom đã rơi xuống triền đồi chỗ Tản Viên đang chăn bò, và thật không may, cô ta đã trúng mảnh bom, bị thương rất nặng ! Chúng tôi đã đưa Tản Viên đến quân y viện 5 để cấp cứu. Ai cũng nghĩ Tản Viên khó qua khỏi, còn tôi và Hùng thì vẫn tin rằng Tản Viên không thể chết, chúng tôi luôn mồm cầu xin Bồ Tát, Như Lai, cầu xin các ngài cho Tản Viên sống lại, nhưng cầu đến ngày thứ ba mà Tản Viên vẫn chưa tỉnh lại ! Đại đội phó Tân thấy vậy thì lập tức tuyên bố hủy bỏ cả đám hỏi và đám cưới ! Tôi và Hùng mừng quá, ôm lấy nhau mà không nói được gì, lại cầu Trời, khấn Phật ! Lúc đang khấn Bồ Tát trăm tay ngàn mắt cứu khó phò nguy cho tai qua nạn khỏi thì có tiếng nói vang lên, như là từ trên thinh không :
-   Thôi đủ rồi, các anh khỏi phải cầu khấn làm gì nữa, em đã sống lại rồi đây này !
 Thì ra là Tản Viên nói, cô ngồi dậy, nhìn chúng tôi mỉm cười, một nụ cười hiền hậu, thánh thiện mà tôi chưa hề thấy ở bất kỳ cô gái nào! Cả tôi và Hùng cùng trố mắt kinh ngạc rồi cùng rụi mắt nhìn lại xem có đúng là Tản Viên đã tỉnh lại hay không? Tản Viên lại nói, tiếng nói cứ như tiếng sáo diều vi vu:
- Không phải là Tản Viên thì còn là ai vào đây nữa! Em được Thần Núi Tản và cả Thần Sông Đà phò trợ nên không thể chết dễ dàng như vậy được! Em đã tỉnh dậy từ hôm qua nhưng vẫn cứ nằm giả chết để kéo dài cái kế hoãn binh và nghĩ xem có kế sách gì hay tiếp theo hay không, nhưng nghĩ mãi chẳng ra, thì vừa lúc nghe các anh nói ông đại đội phó đã tuyên bố hủy bỏ cái ý đồ quái gở đó!
- Nếu ông ta không tự rút lui thì chúng tôi cũng bắt ông ta phải rút lui!...- Tôi và Hùng tranh nhau nói nhưng thực ra vẫn chưa nghĩ ra cách gì để buộc ông ta từ bỏ ý định đòi cưới Tản Viên. Tản Viên như là cũng biết vậy nên cô lại cười cười như muốn nói:”Thôi bỏ đi, đừng nghĩ đến chuyện này nữa!”…
* * *
   Tản Viên ra viện ngay và phải ba ngày sau vết thương mới lành và lên da non. Chúng tôi đang bàn tính làm đại tiệc tại nhà Tản Viên để ăn mừng “tai qua nạn khỏi”   thì đơn vị được lệnh cơ động. Thế là đành phải chia tay Tản Viên…Tưởng rằng chỉ di chuyển loanh quanh qua Quốc Oai, Tùng Thiện , Phúc Thọ rồi lại quay về Bất Bạt như mọi khi, ai ngờ đúng chiều Ba mươi Tết năm đó, chúng tôi đươc lệnh “hành quân thần tốc” vào tận chiến trường Khu Bốn!...
    …Đời lính thời chiến là như vậy, thoắt đến thoắt đi như chim!...Đoàn xe máy móc, khí tài của đơn vị chúng tôi hình như đã tới đất Thanh Hóa anh hùng. Tôi ngồi trong ca-bin của xe hiện sóng mà nửa tỉnh nửa mê, thỉnh thoảng đầu đập vào khoang cửa ca-bin là tỉnh, còn thì như đang bơi trên sông Đà cùng với Tản Viên, cùng với câu thơ “ mật khẩu”:
      Nước rợn sông Đà con cá nhảy
      Mây trùm non Tản cánh diều bay !...
Hình như tiếng anh Lạc lái xe nói:”Yêu rồi chứ gì?Thế mà nói chỉ là bạn! Nếu đã yêu rồi thì khổ đấy, vì đời lính thời chiến không thể hành quân với chữ Yêu!...Hình như Giao thừa đến rồi! Đây là cái Tết thứ ba xa vợ con!...”. Tôi nhìn ra xung quanh, tiếng pháo nổ ran khắp nơi, các phía chân trời đều có chớp sáng nhằng nhằng, vài quả pháo sáng lủng lẳng đây đó, trong tiếng pháo râm ran có cả tiếng bom rền !...
Sài Gòn, 2005
Đỗ Ngọc Thạch
http://profile.ak.fbcdn.net/hprofile-ak-snc4/49869_100000171053404_6024355_n.jpg
TƯỚNG SÁT PHU 
        Một buổi sáng cuối Xuân đầu Hạ, hai chú tiểu của chùa Pháp Vân ra mở cổng chùa thì thấy một cái bọc nhỏ đặt trong một cái hộp giấy cứng không có nắp đậy, trong cái bọc đó là một đứa bé gái khoảng một tháng tuổi, đang thiếp ngủ ! Mười ba năm sau, đứa bé gái bị cha mẹ bỏ vào nhà chùa đó đã trở thành một thiếu nữ mắt phượng mày ngài, mặt trái xoan, dáng dấp thanh tú. Hai chú tiểu ngày nào đã trở thành sư thầy, nói với nhau : “Chúng ta làm ơn cứu mạng như thế cũng được rồi, nay nên trả đứa bé lại cho cha mẹ nó, để nó ở lại đây tất sẽ gây họa lớn ! Cái trán cao rộng, hơi gồ và sáng bóng, mũi thì dài sống mũi lại quá mảnh khảnh, lưỡng quyền cao rộng nên có số sát phu, đàn ông mà dây dưa với nó tất chết bất đắc kỳ tử !” Rồi ngay sau đó, hai sư thầy gửi cô bé cho một vị giáo sư, nói là nó có tư chất thông minh, nhờ giáo sư kèm cặp, sau ắt sẽ trở thành nhân tài của đất nước ! Quả nhiên, chỉ sau ba năm, cô bé đã học xong tất cả chương trình phổ thông trung học. Các bài thi đại học những năm trước đó, cô bé đều làm dễ dàng như ăn kẹo ! Vị giáo sư đã hoàn tất mọi thủ tục để cô bé tham dự kỳ thi đại học tới, cô bé ắt sẽ đỗ thủ khoa, cả nước sẽ bị một phen bất ngờ !...
      Nhưng, người bị bất ngờ lại chỉ là hai ông sư thầy của chùa Pháp Vân : Trước ngày thi một ngày, bà vợ vị giáo sư dắt cô bé trả lại cho nhà chùa mà rằng :
-   Đứa bé này thông minh thật, đúng là Thần đồng, nhưng nó đã đem tai họa đến cho nhà tôi :  ông chồng tôi gần hết đời mới đạt được công danh, vậy mà chỉ sau một đêm dan díu với nó đã chết thật thảm thương ! (Khóc) Sáng nay, ông ấy dậy sớm tập thể dục như mọi ngày, vậy mà không thể trở về nhà với tôi được nữa : một chiếc xe tải to đùng đã nghiến nát ông ấy rồi !
     Hai vị sư thầy đành để cô bé ở lại chùa. Việc truy tìm tung tích cha mẹ đứa bé vẫn chưa có kết quả. Hai vị sư thầy bàn với nhau : “Nó đã đem tai họa đến cho người ta, vậy phải cho nó cơ hội chuộc lại tội lỗi : cho nó đi học nghề chữa bệnh cứu người . Công, tội có thể bù đắp, hóa giải cho nhau !” Cô bé liền được gửi đến ở phòng mạch Đông Y của một Lương Y danh tiếng, nghe nói đã bốn đời hành nghề chữa bệnh cứu người, cha ông đã từng thọ giáo bậc danh y Hải Thượng Lãn Ông !
      Cô bé đến phòng mạch Đông Y chưa được ba bảy hai mươi mốt ngày thì bà vợ ông Lương Y đã dắt nó đến trả cho nhà chùa mà không nói một lời ! Hai sư thầy đi tìm hiểu sự việc thì được biết : một lần đang xem bệnh, kê đơn bốc thuốc cho con bệnh thì cô bé đi vào nói đau bụng không thể chịu nổi. Vị Lương y đành bỏ dở công việc mà tìm cách cắt cơn đau cho cô bé. Sau một hồi day huyệt, cô bé đã hết đau bụng nhưng vị Lương Y đã bị cơ thể cô bé làm cho mất hồn, không thể kiềm chế được cơn sóng tình dục cứ dâng lên cuồn cuộn. Sau cuộc giao hoan vội vàng với cô bé, vị Lương Y chẳng còn minh mẫn để kê đơn bốc thuốc cho con bệnh, kết quả là cái toa thuốc ấy đã giết chết con bệnh, người nhà con bệnh tức thì vác dao đến đòi mạng, chẳng kịp ngăn cản !
     Hai vị sư thầy sau khi biết chuyện thì mười phần kinh hãi ! Mặc dù hai vị sư thầy nghiên cứu rất kỹ về thuật tử vi tướng số nhưng trong thâm tâm họ đều không mấy tin vào những chuyện tào lao đó, chẳng qua chỉ là trò chơi của tạo hóa ! Nhưng đến sự việc xảy ra ở phòng mạch Đông Y này thì cả hai vị sư thầy đều run sợ trước sự huyền bí của định mệnh mà thuật tướng số chỉ hé mở được phần nào sự huyền bí đó ! Suy nghĩ nát nước mà hai vị sư thầy vẫn chưa biết phải cho cô bé có tướng cách dị thường này đi đâu, chùa Pháp Vân này chưa có lệ thu nhận sư nữ mà tung tích cha mẹ cô bé vẫn chưa thấy tăm hơi gì ? Thời gian cứ đều đặn trôi đi từng ngày, từng ngày, nó không thể dừng lại để đợi hai vị sư thầy nghĩ xong kế vẹn toàn, một tuần lễ trôi qua như một cái chớp mắt. Sang ngày thứ tám, một vị sư thầy có việc phải đi Tây Nguyên. Ba ngày sau, vị sư thầy ở nhà được báo mộng, người báo mộng lại là đích thân Bồ Tát:”Đêm hôm trước khi đi Tây Nguyên, sư huynh con đã dại dột giao hoan với cô bé có tướng sát phu đó. Hôm qua, xe chở sư huynh con đã lăn xuống vực ở tỉnh Kon Tum, chiếc xe cháy rụi, sư huynh con đã bị cháy thành than rồi! Tiếc thay, trồng cây sắp đến ngày hái quả mà lại…Con ráng mà giữ thân đặng tu thành chính quả, đừng như sư huynh mà uổng công mấy chục năm tu hành!”. Vị sư thầy chỉ còn biết ôm bài vị của sư huynh mà khóc không thành tiếng!...
* * *
    Khi tôi đang lang thang kiếm sống ở Sài Gòn thì bất ngờ gặp một người bạn cũ là chuyên gia Hán-Nôm ở Hà Nội vào Sài Gòn làm việc. Khi biết được tình cảnh đang thất nghiệp của tôi, người bạn nói :
- Giá như ông nghe tôi, hồi còn làm ở Viện Văn học mà tranh thủ theo học một khóa Hán-Nôm thì bây giờ tôi có thể nhận ông làm việc ở chỗ tôi. Bây giờ phong trào tìm về cội nguồn rất rầm rộ, rất nhiều văn bia, thần tích, gia phả…cần được biên dịch…
- Tôi không thích nói “Giá như…”, ông không giúp được gì cho tôi cũng không sao ! – Tôi nói cứng – Mà ông cũng chẳng phải ái ngại cho tình cảm của tôi bây giờ. Cái số tôi nó “bèo dạt mây trôi” dài dài, tôi đã quen rồi !
    Người bạn vụt nhớ ra điều gì, vội nói :
- Ông nói tới chuyện tướng số làm tôi nhớ đến một vị sư thầy ở chùa Pháp Vân, vừa là bà con xa vừa là học trò Hán-Nôm của tôi. Vị sư thầy này rất giỏi tử vi tướng số, nếu ông có hứng thú, tôi sẽ dẫn ông tới chơi !
    Dĩ nhiên là tôi rất hứng thú và người bạn chuyên gia Hán-Nôm liền dẫn tôi đến chùa Pháp Vân.
    Khi chúng tôi đến chùa Pháp Vân, vị sư thầy vẫn chưa thôi ôm bài vị của sư huynh mà khóc thầm ! Gặp người bạn chuyên gia Hán-Nôm và tôi, vị sư thầy mới dứt được nỗi đau mất sư huynh đã kéo dài ba ngày ! Sau khi kể cho chúng tôi nghe đầu đuôi câu chuyện về cô bé có tướng sát phu, vị sư thầy nói :
- Tôi đã được Bồ Tát báo mộng sắp thành chính quả, vì thế bằng mọi giá phải cho cô bé đi khỏi chùa này. Tôi rất mong sư phụ và thí chủ đây giúp tôi !
- Chúng tôi xin sẵn lòng, sư thầy cho biết giúp như thế nào ? – Tôi và người bạn Hán-Nôm cùng nói .
    Vị sư thầy im lặng giây lát như lấy hơi rồi nói :
- Tôi không ngờ cái tướng sát phu của cô bé lại hiệu nghiệm kinh hoàng như vậy. Tôi đã đành phải lấy cái tướng cách đó ra mà đặt tên làm giấy khai sinh cho cô bé, gọi chệch đi một chút : Sa Phi ! Tôi chợt nghĩ, cái tên đó gần giống với tên một loại đá quí, vì thế tìm một người có tên là một loại đá quí mà gả cho cô ta thì tai họa sẽ giảm thiểu đi nhiều, nếu người đó có lá số tử vi gần giống với lá số tử vi của Hàn Tín thì không còn lo ngại gì nữa !
    Nghe tới đó, tôi giật mình kinh ngạc vì thấy mình đáp ứng đủ cả hai điều kiện mà sư thầy vừa nói. Tôi càng kinh ngạc hơn khi vị sư thầy chăm chú nhìn tôi một lát rồi nói :
-   Thí chủ đây đã lập lá số tử vi chưa ? Nếu chưa tôi xin làm giúp !
     Tôi lấy lá số tử vi của mình ra đưa cho vị sư thầy mà nói :
-   Tôi mới lập lá số này được một tháng, nhờ thầy xem lại !
     Vị sư thầy đón lấy lá số tử vi của tôi, liếc nhanh qua rồi nắm chặt lấy hai tay tôi mà rằng :
-   Người cứu mạng tôi đây rồi ! Hẳn là Bồ Tát đã đưa tới !
     Mọi việc đã được quyết định chóng vánh như là vị sư thầy đã chuẩn bị sẵn từ trước : vị sư thầy thuê cho tôi một căn nhà nhỏ ở vùng ven đô, tiền trả trước một năm, ba ngày nữa tôi sẽ đem xe hoa đến đón cô dâu Sa Phi về đó làm lễ động phòng ! Tất nhiên mọi chi phí cho tiệc cưới (gọn nhẹ), sư thầy lo hết !...
      Ngày thứ nhất, tôi làm xong cái việc khá quan trọng là tân trang căn nhà nhỏ, nơi sẽ trở thành tổ ấm gia đình của tôi sau nhiều năm phiêu bạt giang hồ, lăn lóc khắp rừng xanh núi đỏ cho đến biển bạc sóng cồn ! Có lẽ cái nhu cầu cần có điểm dừng đã quá mạnh khiến cho tôi không hề cảm thấy run sợ mảy may khi phải đối mặt với sứ giả của tử thần ! Có lúc tôi cũng tặc lưỡi mà cười thầm : “Có chết trong tay người đẹp cũng còn hơn là chết tan xác nơi sa trường mịt mù bom đạn ! Vả lại, vị sư thầy đã cam đoan với tôi rằng , cái tướng sát phu dù có dữ dội tới cỡ nào cũng không hại được tôi, vì tôi đã có quý nhân phù trợ, hơn chục lần tôi đã thoát hiểm trong đường tơ kẽ tóc đã khẳng định chắc chắn điều đó !”. Quả nhiên, trong giấc ngủ ở nhà mới đêm đầu tiên, tôi đã được Phật Tổ Như Lai hiện ra báo mộng : Ngài hiện ra trong ánh hào quang rực rỡ, nhìn tôi bằng ánh mắt nhân từ, tuy Ngài không nói gì nhưng đã mỉm cười với tôi ! Tôi hiểu ra ngay cái ẩn ý ở sau sự kiện này : tôi đã có công cứu nạn người nhà Phật (tức vị sư thầy chùa Pháp Vân) nên số phận đã mỉm cười với tôi, tôi cứ im lặng làm theo sự xếp đặt của số phận, không nói gì cả, vì im lặng là vàng mà !
    Ngày thứ hai, tôi đi thuê xe ô-tô đón dâu và một bộ complê và mua một vài thứ lặt vặt cần dùng. Xong việc, cũng vừa tới bữa trưa, tôi vào một nhà hàng nơi con hẻm yên tĩnh để tự thưởng cho mình một chầu no say,  đặng ngày mai bước vào cuộc chiến đấu mới đầy bí hiểm ! Vừa uống xong li bia đầu tiên thì thật bất ngờ, Siêu – người bạn học với tôi từ năm học lớp mười ở trường Hải An (Hải Phòng), đi vào, một mình ! Sau phút hàn huyên tôi mới được biết : Tốt nghiệp đại học Thủy sản, Siêu về làm việc ở Sở Thủy Sản Hải Phòng một thời gian rồi lên cơ quan Bộ, một thời gian sau nữa làm giám đốc một công ty xuất nhập khẩu thủy hải sản, hiện đang chuẩn bị nhận chức phó Tổng giám đốc của một Tổng công ty rất lớn. Hỏi đến chuyện vợ con, Siêu rầu rĩ nói :
- Ngày mai là ngày tao cưới vợ lần thứ hai. Nếu như vợ trước của tao đẹp như hoa hậu thì vợ này không thua gì Thị Nở của anh Chí Phèo !
     Tôi ngạc nhiên :
- Thế thì thôi đi, như mày lấy vợ đẹp có khó gì ?
- Không thể thôi dễ dàng như mày nói thế được ! – Siêu nói thong thả - Cô nàng tuy xấu mã nhưng lại tốt tướng, phải nói là quý tướng, đó là tướng “vượng phu ích tử” : nàng vừa có ngọc đới yêu vi vừa có song long nhiễu nguyệt, người như thế trong ngàn người mới có một ! Hơn nữa, cha và mẹ nàng đều có thế lực cực mạnh ở trong giới kinh doanh và quan trường !
- Thế thì còn rầu rĩ cái nỗi gì ! Cứ cưới cô vợ Thị Nở ấy đi, khi nào thích “ăn phở” thì một cú điện thoại là có liền, mà “phở” bây giờ được “nâng cấp” tới cỡ siêu người mẫu, hoa hậu, ngôi sao điện ảnh…thậm chí có cả “hàng ngoại” với đủ các màu da, các quốc tịch ! – Tôi nói như là rất sành sỏi trong đề tài này !
     Siêu như là không hứng thú với cái đề tài “phở”, hỏi sang chuyện làm ăn của tôi và tỏ ra ái ngại cho cảnh ngộ hiện tại của tôi. Siêu nói :
- Chịu khó chờ một thời gian nữa, khi nào tao nhận chức, tao sẽ lấy mày về làm việc ở Phòng thông tin – tuyên truyền, chắc là mày sẽ làm tốt ! Còn chuyện vợ con thì sao ?
   Khi tôi đưa tấm hình của Sa Phi cho Siêu xem và nói ngày mai sẽ là ngày đón dâu, Siêu kinh ngạc thốt lên :
- Tiên nữ giáng trần ! Không thua gì tứ đại mỹ nhân bên Tàu ngày xưa ! Cô gái này có vẻ đẹp bế nguyệt của Điêu Thuyền !
- Chính xác! – Tôi thừa nhận – Dung nhan thì hao hao như Điêu Thuyền, nhưng tư chất thì đặc biệt thông minh, trí nhớ thật siêu phàm. Đọc sách chỉ một lần là hiểu ngay và nhớ hết, có thể đọc ngược Truyện Kiều không sai một chữ! Cô ta đã tự học ba ngoại ngữ Anh, Pháp và Trung Hoa! Tuy không học qua trường nào nhưng có thể giải nhanh chóng tất cả các đề thi đại học!...
   Những câu chuyện về cô gái Sa Phi đã thực sự cuốn hút anh bạn Siêu của tôi, nhất là chuyện sát phu kỳ lạ và kinh hoàng! Khi chúng tôi đã uống hết một thùng bia  Heineken, Siêu nói “xì-tốp” và kêu một ấm trà Thái rồi châm rãi nói:
- Mày phải hủy bỏ ngay đám cưới này! Để rồi tao sẽ làm mối cho mày một người vợ có tướng cách cực quý, vừa vượng phu ích tử vừa rất xinh đẹp, lại có chức danh Phó Giám đốc đàng hoàng !
- Dù có là Nữ hoàng bây giờ muốn cưới tao, tao cũng không ham. Đã nhận lời người ta rồi, mọi việc đã hoàn tất, không thể thất tín được, nhất là với người nhà Phật! Hình như trong chuyện này, cả Phật Tổ Như Lai và Quan Âm Bồ Tát đều nhúng tay vào! – Tôi nói to như quát.
Hai người hai quan niệm khác nhau thật khó mà có thể đi đến một sự hòa hoãn. Những tưởng cuộc tranh luận của chúng tôi sẽ dẫn đến xung đột vì chúng tôi vốn cùng nóng tính và từ thời học trò vốn chẳng ai chịu thua ai. Song, anh bạn Siêu của tôi tỏ ra bình tĩnh và sành đời hơn. Không hiểu sao, Siêu bỗng đưa cho tôi cái điện thoại di động mới cứng và nói :
- Cái điện thoại di động này tao mua cho mụ vợ, nhưng hôm nay gặp lại mày ở đây, tặng mày luôn. Mày hãy gọi cho một người thân nào đó bất kỳ mời mai đến dự lễ cưới của mày, nếu người đó nhận lời ngay thì mọi điều mày nói từ nãy đến giờ đều đúng ! Còn nếu mày gọi tiếp cho hai người nữa mà không ai nhận lời thì mày phải nghe tao, hủy đám cưới !
     Tôi nhận cái điện thoại di động từ tay Siêu, ấn ngay số máy điện thoại của bà chị cả. Vừa nghe thấy giọng nói của tôi, bà chị đã nói ngay, giọng mếu máo :
- Mẹ ốm nặng, tình hình rất nguy kịch, cậu ra Hà Nội ngay, chị sẽ ra sau vì cả ba đứa cháu của cậu đều đang sốt ói mửa lung tung !...
     Nhận được tin dữ, tôi bảo Siêu đưa tôi đến chùa Pháp Vân ngay. Vị sư thầy chấp nhận quyết định chớp nhoáng của tôi : tôi phải đi Hà Nội ngay, Siêu sẽ thay tôi giải quyết vụ cô gái tướng sát   phu !...
* * *
   Ra Hà Nội, tôi chỉ được báo hiếu mẹ một tháng thì mẹ tôi qua đời. Trước khi nhắm mắt xuôi tay, mẹ tôi chỉ đọc cho tôi nghe một câu ca dao cổ :
     “Con ơi, nhớ lấy câu này
      Sông sâu chớ lội, đò đầy chớ đi !”
Sau cái chết của mẹ, mọi suy nghĩ của tôi về sự đời như là có sự thay đổi rất lớn : Nếu như trước đây tôi “coi trời bằng vung”, sẵn sàng “bán trời không văn tự” thì bây giờ lúc nào tôi cũng cảm thấy sợ hãi, thấy mình yếu đuối, bé nhỏ vô cùng, cô đơn vô cùng ! Tệ hại hơn là trong giấc ngủ thường có ác mộng : cảnh bom đạn nơi chiến trường ngày xưa cứ hiện về không ngớt, và kết cục những cơn ác mộng ấy là một chùm bom cứ lao thẳng vào người tôi, có lần là cả một tốp hơn chục chiếc máy bay “Thần Sấm”, “Con Ma” cứ nhằm tôi mà lao tới cùng với những âm thanh gầm rú ghê rợn !...Và cuối cùng tôi đã rút ra phương châm xử thế : tránh mọi va chạm với người đời và tránh xa mọi tai ương có thể xảy ra ! Để làm được như thế, không có cách nào tốt hơn là làm theo các ẩn sĩ thời xưa !
     Biết tôi có ý định tìm chỗ ở ẩn, Lò Giàng Páo – cậu học sinh cũ của tôi khi tôi dạy ở trường dự bị đại học Dân tộc Trung ương – nói sẽ dẫn tôi lên quê hương Hà Giang của cậu núi non trùng điệp, rất nhiều chỗ sơn thủy hữu tình có thể dựng Am cỏ như người xưa ! Páo là người Lô Lô, rất nhiệt tình nên chỉ sau một tuần, tôi đã làm xong thủ tục chuyển vùng . Chỉ chờ Páo xin nghỉ phép là thầy trò chúng tôi có thể lên đường …
    Sáng hôm ấy, tôi đang thơ thẩn ở Viện Bảo tàng dân tộc để chờ Páo thì bất ngờ gặp lại Giàng A Thạc – học cùng với tôi hồi lớp Năm ở trường Lương Ngọc Quyến – Thái Nguyên . Khi biết ý định muốn lên rừng của tôi, anh chàng họ Giàng người   H’mông cười chảy nước mắt rồi kéo tôi đi, vừa đi vừa nói :
- Tao có thằng bạn rất thân, hóa ra lại là bạn học với mày hồi lớp Mười ở Hải Phòng . Mày nhớ thằng Đông chứ, tốt nghiệp trường Đại học Mỏ - Địa chất, nó về làm ở một đoàn Địa chất ở Thái Nguyên, tao với nó chơi với nhau từ đó. Rồi nó được đi làm luận án tiến sĩ ở Nga, rồi về làm bên Dầu khí. Lần này nó rủ tao về Vũng Tàu. Chắc chắn là mày gặp nó là sẽ bỏ ngay ý định lên rừng mà sẽ đi xuống biển với chúng tao !
   Quả nhiên khi gặp Đông, tôi bị Đông thuyết phục đi Vũng Tàu với Đông và anh bạn người H’Mông, và điều đặc biệt là Đông sẽ nhờ tôi làm quản lý trang trại của Đông ở Đồng Nai – như vậy là vẫn có chỗ cho tôi dựng Am cỏ làm Ẩn sĩ. Thì ra Đông làm công tác Thanh tra của ngành Dầu khí. Đông kể cho tôi nghe khá nhiều chuyện thuộc loại “thâm cung bí sử” của ngành Dầu khí và lấy làm tiếc rằng tôi không còn làm báo nữa vì nếu còn làm báo sẽ được có những tài liệu “độc nhất vô nhị” về những vụ tham nhũng động trời mà Đông đang thu thập chứng cớ. Nếu như trước đây, hẳn là tôi sẽ bám riết lấy Đông mà khai thác tài liệu, nhưng giờ thì tôi đã “tắt lửa lòng”, không muốn quan tâm đến thế sự nữa, điều mà tôi quan tâm ở Đông là cái trang trại của Đông ở Đồng Nai. Vì thế, sau ba ngày tắm biển sảng khoái ở Vũng Tàu, tôi thúc giục Đông đưa tôi đến trang trại…
    Trang trại của Đông thật là trên cả tuyệt vời, nếu tả cảnh thuần túy và thật cô đọng, ngắn gọn cũng phải hết năm chục trang sách khổ 13x19. Còn nói về tiềm năng phát triển kinh tế của trang trại thì cũng không dưới năm mươi trang! Tuy nhiên, điều thu hút sự chú ý của tôi ở cái trang trại này không phải là thiên nhiên kỳ thú mà là những người đang làm việc ở đây, mà đáng chú ý nhất là một người đàn bà trạc tứ tuần có tên gọi là Sái phu nhân. Tôi té ngửa khi chợt nhân ra khuôn mặt của Sái phu nhân rất giống cô gái Sa Phi ở chùa Pháp Vân! Chẳng lẽ đó chỉ là sự giống nhau ngẫu nhiên? Nhưng sau khi tìm hiểu thì sự ngờ vực của tôi đã có lời giải: bà Sái phu nhân chính là mẹ đẻ của cô gái Sa Phi! Và cái tên Sái phu nhân cũng do chữ “sát phu” mà ra: từ năm mười bảy tuổi đến năm bốn mươi tuổi, bà ta đã mười lần lên xe hoa và cả mười tân lang đều chết “bất đắc kỳ tử”, điều đáng ngạc nhiên là cả mười tân lang đều là quan chức cỡ giám đốc, Tổng giám đốc, trong đó có hai vị thuộc ngành du lịch, hai vị ở ngành Ngân hàng, hai vị ở ngành Dầu khí, hai vị ở ngành Thủy hải sản và hai vị ở ngành Thương mại! Với “chiến tích” đó, bà Sái phu nhân còn có tên gọi “Thập đạo Nữ tướng quân”, đó là giới sử học gọi còn cánh nhà báo thì gọi là “Dũng sĩ diệt giám đốc”!...
    Khi tôi nói rằng tôi đã gặp cô gái Sa Phi ở chùa Pháp Vân thì bà Sái phu nhân bỗng khóc rống lên một hồi rồi nói:
- Tôi thật đáng chết khi bỏ con bé vào chùa Pháp Vân!... Con ơi, con hãy tha tội cho mẹ! Sau đó ba năm, tôi có nhờ người đến tìm nhưng không thấy, tính đến nay đã gần hai mươi năm trời, không biết con tôi thế nào? Nếu ông biết con tôi ở đâu dẫn nó về đây với tôi, tôi xin tình nguyện làm tôi tớ cho ông mãi mãi!...
Vốn có tính dễ mủi lòng trước những lời cầu xin đẫm lệ, tôi nhận lời đi tìm Sa Phi, vả lại tôi cũng có chút “duyên nợ” với cô gái này! Tôi lập tức đi tìm Siêu. Có lẽ đến nhà cô gái xấu như Thị Nở nhưng có tướng “vượng phu ích tử” mà chắc là Siêu đã cưới làm vợ thì sẽ gặp Siêu. Nhưng khi tôi đến thì cô Thị Nở nói với tôi:
- Anh Siêu chê em xấu xí quá nên đã hủy hôn mà cưới cô gái có cái tên “Sa Sát” gì đó rồi! Nghe nói họ đang hưởng tuần trăng mật ở Đà Lạt, anh lên đó sẽ gặp ngay!
   Tôi đến ngay Công ty của Siêu thì họ cũng nói vậy và cho tôi số máy di động của Siêu. Tôi gọi ngay cho Siêu thì người trả lời lại là tiếng Sa Phi:”Em là Sa Phi đây! Anh Siêu của em đang ở đâu hả ? Chúng em đang ở thác Đăm Bri, anh ấy vừa rơi xuống thác cách nay năm phút, đội cứu hộ đang tìm nhưng chưa thấy xác!...”. Không biết cô gái Sa Phi còn nói gì nữa không mà tôi chỉ nghe thấy tiếng thác dội ầm ào!...
TP.HCM, 2005-2009
Đỗ Ngọc Thạch

nguồn: tamtay.vn