Thứ Bảy, 1 tháng 10, 2011

Sân khấu Tuồng - Nguồn gốc và... - Đỗ Ngọc Thạch









 










SÂN KHẤU TUỒNG - NGUỒN GỐC VÀ QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN- Đỗ Ngọc Thạch

Xu hướng khá phổ biến vào thời kỳ đầu của việc tìm hiểu nghệ thuật tuồng là cho rằng Tuồng từ Trung Quốc truyền sang do một tù binh quân Nguyên tên là Lý Nguyên Cát (vào thời nhà Trần).. Xem xét cấu trúc kịch bản và nội dung của Tuồng cổ và kịch truyền kỳ Minh – Thanh (sau này là Việt kịch) có nhiều điểm tương đồng, có giả thuyết rằng, nghệ thuật biểu diễn ở Nam bộ vào thế kỷ 18 đã được nghệ thuật Việt kịch Trung Quốc bổ sung để hình thành nghệ thuật Tuồng (Đoàn Nồng: Sự tich nghệ thuật hát bộ -Mai Lĩnh xuất bản,H.1911;Văn Tân: Sơ thảo lịch sử VN – NXB Vă sử địa, H.1956; Sơ thảo lich sử văn học VN – Nxb Văn sử địa, H.l957; Phạm Đức Duật: Mấy ý kiến về cuốn Lược khảo lịch sử Nghệ thuật Tuồng, TC.NCNT 3-1976; Vũ Ngọc Liễn: Nền kịch hát VN và v/đ tính dân tộc…, Viện Nghệ thuật,H.1972);…
Xu hướng thứ hai là cho rằng, Tuồng là hình thức nghệ thuật cổ truyền của dân tộc. Xu hướng này bám khá chặt vào quy luật vận động phát triển từ thấp đến cao, từ dân gian đến bác học của lịch sử nghệ thuật. Cơ sở suy luận là dựa vào sử sách cũ có nói đến một hình thức sân khấu sơ khai nào đó từ xa xưa, và cơ bản là dựa vào những điểm giống nhau ở một số cách thức biểu diễn của Tuồng với những hình thức diễn xướng dân gian như hệ thống trò Xuân Phả, múa hát Ả đào, kể vè, v.v…, từ đó đi đến kết luận là : tuồng không phải từ TQ truyền sang mà hình thành từ diễn xướng dân gian để trở thành sân khấu dân gian từ rất xa xưa (Phan Huy Lê: Lịch sử chế độ phong kiến VN, T.2,Nxb GD,H.1962; Trần Quốc Vượng, Đinh Xuân Lâm: Về nguồn gốc và lịch sử Tuồng, chèo, Tạp chí Văn học, 4-1964; Mịch Quang: Tìm hiểu nghệ thuật Tuồng, Nxb Văn hóa,H.1963; Bùi Văn Nguyên, Hà Minh Đức: Thơ ca VN – hình thức và thể loại, Nxb KHXH,H.1969; Lê Ngọc Cầu: Tuồng hài ,Nxb Văn hóa,H.1980; Đặng Quốc Nhật: Tiếng cười trên sân khấu truyền thống , Nxb Văn hóa, H.1983; v.v…). Về thời điểm cụ thể, phỏng đoán tuồng có thể hình thành từ thời Lê (Mịch Quang:vài gợi ý nhỏ về nguồn gốc sân khấu tuồng – TCVH, 6-1969), từ thời Lý-Trần (Lê N. Cầu : Tuồng hài), vào khoảng hai thế kỷ 16-17 ở vùng Thanh Hóa (Hoàng Châu Ký: sơ khảo lịch sử NT Tuồng ,Nxb Văn hóa,H.1973), hoặc hình thành ở Đàng trong, thời kỳ chúa Nguyễn cát cứ sau những đợt di dân của người Thanh-Nghệ vào phương Nam (Phạm Đ. Duật: sách đã dẫn); một số ý kiến khác chủ yếu dựa vào kịch bản văn học của Tuồng, thì cho rằng Tuồng có thể phát triển ở TK 18 – 19 (Hồ Lãng: Để tìm hiểu về lịch sử Tuồng, TCVH,1-1971; Huỳnh Lý: Hợp tuyển thơ văn VN, T.3,Nxb VH,H.1978); v.v…
Tôi muốn dừng lại và nói kỹ về quan điểm của 2 bộ sách vào loại chính thống của ngành nghiên cứu văn học là cuốn Sơ thảo lịch sử văn học VN (đã dẫn) và cuốn Lịch sử văn học VN (T.1, Nxb KHXH, H.1980).
Nếu như trong cuốn SƠ THẢO…, các tác giả khẳng định Tuồng là từ TQ truyền vào và khởi đầu ở cung đình, vương phủ rồi sau đó mới phổ cập trong dân gian và về sau các nho sĩ xây dựng các vở tuồng cũng vẫn theo lề lối ấy (tr.265-266); thì trong cuốn LỊCH SỬ…, 23 năm sau, các tác giả đã thay đổi quan điểm và cho rằng:”Hát chèo, tuồng đã manh nha từ đời Tiền Lê, qua các đời Lý-Trần, đến đời Hậu Lê thì đã trở thành những ngành nghệ thuật sân khấu quen thuộc với đông đảo công chúng”(tr.180); và, “Ở miền Nam, hát tuồng do Đào Duy Từ đem từ miền Bắc vào, được sự chăm sóc của chúa Nguyễn đã phát triển dần để đến một trình độ tinh vi. Và ảnh hưởng của hát tuồng từ miền Nam ra miền Bắc lại tạo ra lối hát bội ở hý trường vào khoảng giữa TK 18”, và “Ở miền nam Trung bộ, tuồng phát triển mạnh, từ chỗ phuc vụ cho quý tộc nơi cung đình và do đó nhiễm nặng tinh chất phong kiến, dần dần được truyền bá ra ngoài dân gian và trong một chừng mực nhất định được quần chúng hóa”(tr.245 và 308). Tuy thế, ở một chỗ khác, cuốn sách lại đưa ra kết luận:”Cho đến nay, chúng ta chưa thể kết luận được địa bàn phát sinh, về nguồn gốc, về quá trình phát triển của tuồng, về sự liên quan giữa tuồng và chèo”, và “một vài sử liệu ít ỏi chép trong Việt sử lược, Đại Việt sử ký toàn thư, Hoàng Lê nhất thống chí, v.v… về một hình thức sân khấu sơ khai nào đó, hoàn toàn chưa đủ để kết luận đó chính là nghệ thuật tuồng”(tr.335). Nói về thời kỳ thịnh đạt của tuồng, cuốn Lịch sử… cho rằng, từ thời Nguyễn Phúc Khoát (1739-1765), đã có một phong trào ca xướng khá thịnh và đến triều Nguyễn thì trong cung đã có riêng một cơ quan gọi là “Hòa thanh thự” và những đội tuồng hàng trăm người, phụ trách công việc diễn tuồng… Những vở tuồng tương đối cổ nhất hiện còn , được lưu lại từ triều Nguyễn, và những vở tuồng thầy mẫu mực nhất là Sơn Hậu, Giác oan, Tam nữ đồ vương, Đào Phi Phụng…Sau đó là sự xuất hiện tuồng Pho và Tuồng đồ (tr.335). Về Tuồng đồ, cuốn sách cho rằng nó xuất hiện ở miền Nam, từ Huế trở vào (từ giữa TK 18 đến giữa TK 19), nhưng xác định thể loại chưa rõ ràng: chỗ thì cho rằng Tuồng đồ thuộc loại hài kịch ngắn của dân gian (tr.323),chỗ khác lại nói Tuồng đồ có tính hài hước (tr.335), và cũng không khẳng định một cách chắc chắn và rõ ràng về mối quan hệ giữa tuồng đồ và tuồng thầy, một vấn đề mà không ít người quan tâm khi nghiên cứu nguồn gốc và quá trình phát triển của tuồng.
Vấn đề TUỒNG HÀI đã được nhà nghiên cứu Lê Ngọc Cầu đặc biệt quan tâm. Tác giả đã viết:”Trên cơ sở một nền nghệ thuật diễn xướng dân gian và kể vè rất sâu rộng của dân tộc, tuồng của ta, đặc biệt là tuồng hài của dân gian đã hình thành từ lâu đời”( Tuồng hài, sách đã dẫn, tr.44). Trong cuốn Tuồng hài và một số bài viết khác trên Tạp chí NCNT, tác giả đều khẳng định tuồng đồ là cơ sở của tuồng thầy, có trước tuồng thầy và có trước cả các loại truyện Nôm…Ở đây, tác giả dựa vào “nguyên lý của sự hình thành lịch sử sân khấu của mọi dân tộc” là “sân khấu thế giới ở tất cả các nước đều được hình thành ngoài dân gian trước khi đến mức hoàn chỉnh rồi vua chúa mới đem vào cung đình để mua vui”( Tuồng hài ,tr.20); Tác giả bỏ qua không giải thích chi tiết trong vở tuồng đồ Nghêu Sò Ốc Hến có đoạn “như một đoạn tuồng Sơn hậu diễn ca” – điều này chứng tỏ vở tuồng thầy Sơn hậu có trước). Đẩy nguồn gốc của tuồng về những thời kỳ lịch sử xa xưa, tác giả khẳng định “tuồng nảy sinh trên cơ sở một nền ca hát dân gian”.
Trái ngược với quan điểm trên là việc khẳng định văn học tuồng có sau truyện Nôm (Huỳnh Lý: sách đã đã dẫn) và quan điểm này được thể hiện rõ hơn cả trong bài “Huế :Trung tâm sinh hoạt NT Tuồng TK19” của Tôn Thất Bình (Tap chí NCNT 3-1983) và bài “Góp phần tìm hiểu LS nghệ thuật hát bội ở miền Nam” (TC NCNT 4-1983). Tôn Thất Bình không nói về nguồn gốc của tuồng nhưng đã khẳng định:”Trong TK 19, Huế là nơi tập trung các sân khấu tuồng ở cung đình làm mẫu mực cho các sân khấu tuồng ở dân gian” và nhấn mạnh “Tuồng đồ là sản phẩm phát sinh từ Huế trong thời gian này”. Qua sự trình bày của tác giả TTB ta hiểu tuồng đồ có sau tuồng thầy. Trong bài viết của TTB có chi tiết chưa đúng là coi Sãi Vãi của Nguyễn Cư Trinh là một loại tuồng của TK18. Thực ra Sãi Vãi là truyện Nôm (còn gọi là Tăng ni truyện hoặc Vè Sãi Vãi ), tuy có sử dụng lối đối đáp nhưng là loại biền văn mới phát triển vào TK18 chứ không phải là tuồng. Trong bài viết của Minh Vũ, tác giả đã phê phán quan điểm của tác giả Tuồng hài và khẳng định rằng thơ pha tuồng tồn tại song song với tuồng và Ông Trương Tiến Bửu cũng như Văn Doan diễn ca… là những bản thơ pha tuồng chứ không phải tuồng hoặc tuồng đồ như quan niệm của Lê Ngọc Cầu. Về v/đ xác định khái niệm tuồng đồ, Minh Vũ bàn khá kỹ và kết luận:”…Tuồng phát triển đến một mức độ nào đó, do yêu cầu nội tại của nó, lại nảy ra một xu hướng lấy nhũng cốt truyện hư cấu nhằm sáng tạo mô hình phản ánh thực tại xã hội hoặc lấy đề tài từ sinh hoạt dân gian nhằm mục đích phê phán XH là chính, do đó hình thành loại tuồng đồ”.
Về vấn đề tuồng đồ, chưa có được sự lý giải rõ ràng, nói chung là hiểu một cách nôm na rằng đó không phải là tuồng thầy, tuồng pho (nghĩa là sáng tác không dựa theo sử sách, tích truyện TQ) hoặc cho rằng tuồng đồ là tuồng hài (Hoàng châu Ký: Tuồng cổ, Nxb Văn hóa,H.1978), hoặc cho rằng tuồng đồ là 1 biến thể tuồng đi vào hiện thực cuộc sống (Lộng Chương: Nhìn lại Tuồng…, TC Sân khấu số 5+6/1983),v.v…
Qua việc trình bày lại đôi nét của bức tranh đi tìm nguồn gốc và quá trình phá triển của nghệ thuật SK Tuồng ở trên, ta thấy rõ tình trạng thiếu thống nhất, thậm chí một số tác giả đã sai lầm về phương pháp luận khi nghiên cứu khả năng biến đổi lịch sử của các thể loại, loại hình trong mối quan hệ qua lại với nhau của tiến trình phát triển nghệ thuật. Lập luận của 1 số tác giả chỉ nhìn vào 1 hoăc 2 trong 3 quy luật sau:1/quá trình vận động phát triển tự thân của tuồng từ thấp đến cao; 2/sự tác động qua lại của các loại hình văn học ,nghệ thuật trong bối cảnh phát triển văn hóa chung của xã hội;3/sự tác động của các yếu tố bên ngoài trong quá trình giao lưu văn hóa xảy ra rất mạnh mẽ.Đối với tuồng, tài liệu còn lại quá ít mà độ tin cậy quá thấp, vì thế nếu nhà nghiên cứu không có phương pháp khoa học thì khó đạt tới những kết luận có giá trị…
Nhìn tổng quát, chúng ta đều thừa nhận rằng, nền văn hóa dân tộc ở nước ta nảy sinh trên nền tảng văn hóa dân gian. Các loại hình văn học nghệ thuật đều trải qua những quá trình vận động phát triển, từ sơ khai đến hoàn chỉnh, và chịu sự tác động, chi phối trong mối quan hệ nhiều chiều giữa các loại hình, loại thể khác trong tiến trình phát triển văn hóa chung của xã hội. Trong quá trình hình thành và phát triển ấy, sự giao lưu văn hóa đã diễn ra thật thiên hình vạn trạng… Các hình thức diễn xướng dân gian đã được hình thành từ thời thượng cổ trong những buổi diễn xướng sử thi Lạc Việt. Sang đến thời kỳ Đại Việt (từ TKl0 đến TK19), những hình thức diễn xướng như thế đã vận động cùng với chiều dài lịch sử, trở nên khá phổ biến như múa hát Xuân Phả, múa hát hội Rô, hội Gióng, hội đền Hùng, hội Lim,v.v… Những hình thức diễn xướng như vậy thực chất là những hình thức nghi lễ hoặc tôn giáo. Sự xuất hiện của hình thức trò diễn trong những hệ thống diễn xướng dân gian đã dần dần tạo thành những hình thức sinh hoạt văn nghệ cộng đồng riêng biệt trong các hội hè đình đám như múa rối, hát chèo . Có thể gọi đó là loại hình sân khấu dân gian. Ở đây, chúng ta cần thấy rằng, không phải tất cả các hình thức diễn xướng dân gian, các trò vui ở hội hè đình đám đều có tính chất sân khấu và đều là tiền thân của sân khấu dân gian. Chỉ có múa rối và hát chèo, đặc biệt là hát chèo , đã tổng hợp được khả năng của các loại hình văn nghệ dân gian để trở thành một hình thức nghệ thuật sân khấu dân gian độc đáo. Và ta cũng thấy rõ là sân khấu dân gian (múa rối và hát chèo) đã cùng tồn tại và phát triển với các loại hình diễn xướng dân gian khác như múa hát Xuân Phả, múa hát cửa đình,v.v… cho đến khi chúng trở thành loại hình nghệ thuật hoàn chỉnh.
Đối với Tuồng , do chỉ nhìn vào cái quy luật chung đó mà nhiều người đã cố chứng minh rằng: tuồng cũng hình thành và phát triên như múa rối, chèo và khẳng định rằng tuồng được hình thành từ những loại diễn xương dân gian như múa hát Xuân Phả, múa hát cửa đình,(thậm chí từ một điệu múa bài bông trong hệ thống múa hát cửa đình , và sau này là kể vè, nói thơ)… Ở những hình thức diễn xướng đó, có những yếu tố gần giống với tuồng, song không thể vin vào đó mà khẳng định đây là nguồn gốc của tuồng, vì chúng vẫn tồn tại bên cạnh tuồng khi tuồng đã thịnh và hoàn chỉnh vào TK19. Ở đây ta cần chú ý đến một quy luật khác: đó là tính ổn định, bền vững của 1 loại hình văn nghệ trong quá trình phát triển, mặc dù có chịu sự tác động qua lại với các loại hình văn nghệ khác. Nếu chú ý đến điều này, ta mới nhận ra quy luật đò là: ngay từ khi xuất hiện, 1 loại hình, loại thể văn nghệ nào đó đã tương đối dầy đủ những đặc điểm bền vững để tạo nên đặc trưng loại biệt của nó. “Thể loại sống bằng hiện tại, nhưng luôn NHỚ quá khứ, khởi thủy của mình” (M. Bakhơtin: Những v/đ Thi pháp của Đôxtôiepxki ). Như vậy có thể nói, sự xuất hiện của l thể loại, loại hình không phải chỉ là sự tổng hợp những thể loại, loại hình đã có, mà mỗi giai đoạn lich sử đều xuất hiện và nổi lên một vài thể loại nào đó do nhu cầu giải quyết những nhiệm vụ chính của nghệ thuật đối với nó. Và, trong tính chất phát triển theo lịch sử của các thể loại, loại hình là sự thay thế về mặt lich sử của các phong cách nghệ thuật (thể loại luôn luôn là những hiện tượng phong cách).
Theo dõi tiến trình phát triển của LS nghệ thuật, nhận ra khả năng chuyển hóa lẫn nhau,tác động qua lại lẫn nhau và nhìn thấy những điểm tương đồng, gần gũi là điều không khó lắm. Khó hơn nhiều là nắm bắt được tính quy luật bên trong cái cảnh tượng dường như hỗn loạn của những biểu hiện đa dạng ở những hỗn hợp và biến dạng về thể loại, loại hình có vẻ ngẫu nhiên của chúng. Tính qui luật bên trong này không phá vỡ, loại trừ những qui luật phổ quát mà chứng tỏ tính độc đáo của các loại hình, loại thể nghệ thuật. Tính độc đáo của một thể loại, loại hình nghệ thuật nào đó không chỉ biểu hiện ở cách thức tái hiện cuộc sống, mà còn biểu hiện ở cả thời điểm xuất hiện, phát sinh của nó nữa. Vì thế, khi nghiên cứu tuồng , một loại hình nghệ thuật đôc đáo, ta không thể gộp nó vào những qui luật phổ quát mà cần chú ý đến những qui luật nội tại, nhưng qui luật đặc thù đã tạo nên bản sắc riêng biệt của nó, cái bản sắc không thể pha trộn. Nhấn mạnh tính đặc thù không có nghĩa là phủ nhận tính phổ biến. Nhấn mạnh tính đặc thù là thừa nhận sựđa dạng, phong phú của những qui luật.
Trở lại v/đ nguồn gốc và quá trình phát triển cua tuồng, tôi sẽ chú ý nhiều đến quan niệm khẳng định tuồng phát sinh và phát triển từ những hình thức diễn xướng dân gian rồi trở thành SK dân gian (tuồng đồ) và đến TK19 thì hoàn chỉnh, tinh vi ở tuồng cổ. Nhìn vào cái tiến trình ấy, có vẻ như biện chứng, hợp qui luật.. Song, những nhà nghiên cứu theo xu hướng này đã xem nhẹ, thậm chí không chú ý đến: 1/ nhu cầu lịch sử cụ thể mang tính thời đại của sự xuất hiện thể loại tuồng ; 2/những điều kiện cần thiết cho sự ra đời l thể loại như tuồng trong bối cảnh phát triển văn hóa chung của xã hội; 3/tính độc đáo đến khác lạ, thâm chí khó hiểu và không phổ cập đối với công chúng đông đảo của cách thức biểu diễn của tuồng.
Ta biết rằng, các hình thức văn nghệ dân gian thời kỳ đầu như thần thoại, cổ tích đã dần nhường chỗ vi trí thống soái trong đời sống xã hội cho các thể loại văn học khi chữ viết ra đời. Từ TK10 đến TK15, lại nổi lên vai trò chính thống của các thể loại văn học chính luận như chiếu, sắc , cáo, hịch với nhiệm vụ đề cao ý thức dân tộc tự cường…Sang các TK18, 19 là thời đại hoàng kim của thể loại truyện thơ Nôm với nhiêm vụ giải quyế v/đ thân phận con người dưới chế độ PK. Nhìn vào nội dung chủ đạo, tư tưởng thẩm mỹ và đặc trưng nghệ thuật của tuồng, ta có thể thấy tuồng chỉ có thể xuất hiện khi chế độ PK đã sang thời kỳ suy thoái, mục nát (thế kỷ 18, 19). Còn nếu tính đến những điều kiện cần thiết cho sự ra đời một thể loại như tuồng thì ta lại phải nhìn vào cấu trúc thể loại của tuồng .Như chúng ta đều biết , mỗi làn điệu , lối nói của tuồng đều xuất phát từ một thể thơ , văn nhất định, chất tuồng nằm ở nội dung kịch bản chứ không chỉ ở hình thức diễn xuất …, và nói chung là tuồng có tính văn học cao, một thứ văn chương bác học. Như thế, rõ ràng tuồng chỉ có thể ra đời khi các thể thơ , văn đã phát triển đến độ hoàn thiện , tinh vi. Có như thế , chúng ta mới cắt nghĩa được tại sao cách xử lý làn điệu của tuồng lại đặc biệt : cố gắng tối đa của diễn viên là tập trung phát huy đến mức cao nhất sức biểu cảm của âm thanh , ngữ điệu lời thơ , lời văn .Hát tuồng là vận dụng ngữ điệu , nhất là ngữ khí , chứ không theo giai điệu ,bài bản như dân ca, như chèo . Nói cách khác , tính âm nhạc của tuồng nằm ngay trong kịch bản văn học của tuồng , một thứ văn chương giàu tính nhạc. Và trong mối quan hệ với khán giả , tuồng không đem đến cho người xem cái mới lạ của tích truyện, mà sự thưởng thức tuồng gắn liền với sự thưởng thức văn thơ và tài nghệ xử lý câu thơ , lời văn của diễn viên . Không phải vô cớ mà Tự Đức lại chọn trong đám quan lại, khoa bảng những người giỏi thơ phú , âm luật vào cung soạn tuồng . Như vậy có thể đi đến kết luận : tuồng ra đời trên cơ sở đã có một nền văn thơ hoàn thiện cao.
Muốn xác định diện mạo đích thưc của tuồng, phải nhìn vào tiến trình phát triển của văn học viết thời phong kiến, đặc biệt chú ý đến những loại văn chính mà tuồng thường sử dụng là văn xuôi (hường, kẻ), văn vần (nói lối) và thơ (theo thể lục bát và song thất lục bát cho các điệu nam, lý, theo thể thất ngôn tứ tuyệt và thể câu đối dùng cho các điệu xướng, bạch, thán, oán, ngâm, vịnh, khách… ), trong đó văn vần và thơ có vai trò đặc biệt quan trọng.
Văn vần (biền văn), phát triển mạnh vào TK18, và tác phẩm Sãi Vãi của Nguyễn Cư Trinh (l716-1777) là sự thành công đáng kể bước đầu của cách sử dụng biền văn. Thơ yêu vận (vừa có vần trắc, vần bằng, vừa có âm điệu thơ Đường, lại vừa có âm điệu thơ lục bát và song thất lục bát tuy đã ra đời từ TK16 ( Nghĩ hộ tam giáp giải thưởng hát ả đào của Lê Đức Mao), nhưng phải chờ đến cuối TKl7, thơ lục bát mới đạt tới thành tựu đầu tiên với Thiên nam ngữ lục – một tập diễn ca lịch sử dài hơn 8.000 câu. Và thơ lục bát từ đó đã phát triển đến đỉnh cao là sự ra đời Truyện Nôm ở TKl8 phù hợp với thể thơ lục bát: vừa tự sự vừa trữ tình. Thể thơ song thất lục bát thành thục từ cuối TKl6, nhưng phải chờ đến giữa TKl8 mới đạt tới trình độ cổ điển vớí Chinh phụ ngâm khúc .
Như vậy, từ giữa TKl8 đến giữa TKl9 là thời kỳ đại hoàng kim của của loại truyện thơ nôm, và đó chính là “bà đỡ” cua Tuồng – một hình thức sân khấu gắn liền với phương thức tự sự về nhiều phương diện của truyện thơ nôm. Nghiên cứu từ kịch bản văn học của tuồng, ta thấy một hiện tượng đáng chú ý là, động tác vũ đạo của tuồng phát triển là nhờ vào những đoạn đối thoại bằng văn vần, văn xuôi và lời thơ trong hát khách, chứ không phải chỉ do những qui luật của múa và kịch câm chi phối hoàn toàn như nhiều người lầm tưởng. Khi nói tuồng là sân khấu kể chuyện, ta cần thấy rằng nó đã chịu sự quy định của truyện nôm như thế nào về nhiều phương diện.
Đến đây, ta có thể đi đến kết luận: văn học tuồng chỉ có thể từ giữa TKl8 và đến giữa TKl9 thì định hình ở mức độ cổ điển. Còn việc tuồng có chịu ảnh hưởng của thơ Đường và tích truyện, điển cố Trung Quốc thì đấy là biểu hiện của quy luật giao lưu văn hóa mà chúng ta cần phải nghiên cứu sâu hơn nữa.
Đến đây cũng phải nói đến một số thể loại cùng thịnh đạt và phát triển song song với tuồng mà không ít người coi là nguồn gốc của tuồng như kể vè, diễn ca, kể chuyện thơ, hát nói v.v…
Thể loại ra đời vào khoảng giữa TKl8 đến giữa TKl9 – thế kỷ nông dân khởi nghĩa, và đặc biệt phát triển mạnh vào đầu thế kỷ 20 – thời kỳ chống Pháp xâm lược. Vè Chú Lía (Chàng Lía) mà có người cho là sơ khai của tuồng, thực ra là một truyện thơ lục bát dài (vì thế còn có tên gọi Thơ Văn Doan ) chen nhiều đoạn hát nam, hát khách, kể chuyện một nông dân Bình Định, sống vào cuối thế kỷ 18, nổi dậy chống lại triều đình. Nếu chỉ nhìn vào hiện tượng có một số vở tuồng trùng tên với một số vè mà khẳng định tuồng từ vè mà ra là sai lầm. Sự lẫn lộn giữa “tuồng vè” và “vè tuồng” đó chẳng qua chỉ là sự “chuyển thể” lẫn nhau của chúng mà thôi. Ở đây cần phân biệt loại vè kể chuyện (thực ra chữ vè được gắn vào đây không còn ý nghĩa nguyên thủy của nó) của thế kỷ 18 với loại vè đồng dao từ xa xưa của văn học dân gian. Nói cách khác, ngày xưa là đặt vè, còn bây giờ thì kể vè . Kể vè là một hình thức truyện thơ nôm. Còn hiện tượng phần lớn các truyện nôm , kể vè còn được gọi là diễn ca thì đó là cách gọi phiếm chỉ để nói chung về các hình thức kể chuyện dân gian, chứ không thể coi đó là tuồng sơ khai hoặc tuồng dân gian và giải thích rằng, khi viết thành văn (tuồng) người xưa chỉ chép kịch bản tuồng theo thể loại truyện nôm, vì họ chưa biết hoặc không cần ghi chú cách biểu diễn . Đã trở thành nếp là khá nhiều vở tuồng chỉ có chép thơ chính văn, còn lời hường , lời kẻ , cách phân lớp , bố cảnh, sắp xếp cho nhân vật ra vào sân khấu…thì họ không chép. Không thể gộp tất cả các hình thức kể chuyện dân gian thành tuồng, cũng như không thể hiểu thuật ngữ phiếm chỉ diễn ca là …diễn tuồng như tác giả cuốn Tuồng hài . Hình thức diễn ca không phải là danh từ để nói về vở diễn sân khấu mà là hình thức kể chuyện dân gian – một kiểu dân gian hóa văn chương bác học mà tác giả là những người khoa bảng gần gũi với dân gian. Cũng có thể hiểu diễn ca là một hình thức thơ trường thiên đặc biệt phổ biến vào cuối thế kỷ 19 , đầu thế kỷ 20. Về sau, nó bỏ chữ diễn và chỉ còn lại chữ ca – một hình thức thơ trường thiên của văn học cận đại, đặc biệt phát triển mạnh khi có chữ quốc ngữ. Ở đây, ta cần chú ý hai điểm quan trọng : 1. các loại truyện thơ nôm được sáng tác và lưu hành chủ yếu bằng phương thức dân gian không chuyên, còn sân khấu dân gian lại có xu hướng chuyên nghiệp hóa thành những “gánh”, “phường” (như múa rối, chèo) ; 2. tính chất phức tạp của văn học, nghệ thuật về mặt thể loại ở những thời kỳ lịch sử có nhiều biến động lớn : một thể loại có thể có mấy tên gọi, trong khi đó một tên gọi có thể chỉ đến mấy thể loại khác nhau, một số thể loại thậm chí không có tên gọi nào.
Hát nói là hình thức thơ hòa với nhạc, một biến dạng của hát cửa đình (hát ả đào) mà có địa phương gọi là ca trù. Đây là một hình thức “thu gọn” của diễn xướng nghi lễ múa hát cửa đình đã có từ lâu đời, khá thịnh hành từ giữa thế kỷ 18 đến thế kỷ 19, chứ không thể đánh dấu “bằng” giữa hai danh từ ca trù và hát ả đào, coi ca trù là một hệ thống diễn xướng từ lâu đời, và trong ca trù có điệu hát nói (Lê Ngọc Cầu : Từ ca trù đến hát bội , đã dẫn). Hát nói là loại văn chương lý thú nhất thời đó gắn liền với tên tuổi các nhà thơ Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát, Nguyễn Khuyến v.v…Đó là một cách thể văn chương phóng túng được phát triển lên từ thể song thất và nói lối : số chữ, số câu không hạn định, từng khổ bốn câu kéo dài tùy ý, có cả yêu vận và cước vận, chỗ gieo vần rất linh hoạt hai câu đầu khổ thứ hai thường là hai câu đối ngẫu thất ngôn Đường luật chữ Hán, có khi lại thêm hai câu mưỡu theo thể lục bát. Có thể nói, hát nói là sự tổng hợp nhiều thể thơ của dân tộc và của Trung Quốc. Nó là sự phát triển khi các thể thơ đã đạt đến mức tuyệt đỉnh và nhu cầu du hý của giai đoạn tiền tư bản đã bộc lộ.
Nói chung, từ giữa thế kỷ 18 đến giữa thế kỷ 19 là giai đoạn phát triển rực rỡ nhất của văn học cổ điển Việt Nam dưới chế độ phong kiến ; các thể loại truyện thơ, vè, diễn ca, hát nói…đã cùng với tuồng phát triển mạnh, tạo nên sự đa dạng và hoàn chỉnh về mặt thể loại, loại hình của văn học – nghệ thuật ; đồng thời, sự phát triển rực rỡ đó cũng là dấu hiệu của một hướng phát triển mới của văn học nghệ thuật khi chế độ phong kiến sụp đổ.
Nghệ thuật tuồng ngay từ buổi đầu hình thành đã nhanh chóng định hình, và đến giữa thế kỷ 19 thì đạt đến trình độ cổ điển ; nó là sản phẩm của chế độ phong kiến thời kỳ suy thoái. Nói tuồng là nghệ thuật cung đình ở đây có bao hàm hai nghĩa : 1. do những nho sĩ quan lại phong kiến sáng tác nhằm thỏa mãn nhu cầu thẩm mỹ của đội ngũ phong kiến quý tộc, vua chúa ; 2. từ hình thức đến nội dung đều gắn liền với đời sống của giai cấp phong kiến quý tộc, vua chúa. Vì thế, từ văn tuồng là thứ văn chương bác học, cung đình cho đến đề tài của tuồng chỉ xoay quanh những chuyện vua băng nịnh tiếm, hoặc diệt nịnh định đô, trừ đẳng khấu…và tích tuồng đều lấy từ lịch sử Trung Quốc, là điều dễ hiểu.Điều này có khác với việc một số nhà thơ khác sáng tác theo nhu cầu cá nhân mà cũng mượn tích truyện Trung Quốc. Tuy nhiên, tác phẩm của họ đã phản ánh được hiện thực cuộc sống đương thời và trở thành tác phẩm của thời đại mà điển hình là Truyện Kiều của Nguyễn Du. Ở đây, chúng ta cần chú ý một điểm quan trọng mà những nhà nghiên cứu tuồng ít chú ý là : trong bối cảnh văn học – nghệ thuật nói chung của hai thế kỷ 18, 19 với chủ đề nổi bật là vận mệnh con người dưới chế độ phong kiến, mà những tác gia có tên tuổi chói lọi nhất trên văn đàn hầu hết là những người đỗ đạt thấp quan tước thấp và đều bất mãn với chính sự, với thời cuộc (Nguyễn Du, Cao Bá Quát, Hồ Xuân Hương, v.v…), thì tuồng đứng xa, đi ngược lại với xu hướng tiến bộ, nhân văn chủ nghĩa đó. Việc Nhà nước phong kiến thực sự nắm chặt lấy tuồng, tập trung ở kinh đô Huế với một quy mô lớn chưa từng thấy, đã biểu hiện rõ tình hình đó. Cùng với các hình thức khác, nhà Nguyễn đã dùng tuồng vào việc đề cao “sự nghiệp khai quốc” của triều đại mình, một triều đại với những chính sách rất phản động ngay từ đầu đã đối lập với nhân dân, với truyền thống dân tộc, một triều đại bảo thủ nhất và do đó cũng bất lực nhất trong lịch sử dân tộc. Minh Mệnh và Tự Đức sử dụng tuồng như một thứ “vũ khí nghệ thuật” để tuyên truyền tư tưởng tôn quân và ca ngợi “công đức” của các vua Nguyễn. Việc Tự Đức quan tâm sửa chữa, cải biên lại các vở tuồng cũ và “đặt hàng” cho các quan lại sáng tác theo quan điểm của mình, là biểu hiện rõ của sự “phong kiến hóa” tuồng . Mặt khác, các vua triều Nguyễn còn đón các “chuyên gia” Trung Quốc sang dạy tuồng trong cung đình, sai người sang Trung Quốc mua sắm y phục, đạo cụ, v.v…đều chứng tỏ tuồng cung đình lúc này có những điểm giống nhau với hý khúc Trung Quốc, và cũng dễ hiểu là tư tưởng sùng ngoại của vua chúa nhà Nguyễn đã dẫn đến hành động “Trung Quốc hóa” tuồng. Qua hai con đường “phong kiến hóa” và “Trung Quốc hóa” đó, tuồng ngày càng trở thành một xu hướng nghệ thuật bảo thủ, phản động của thời kỳ này ngày càng trở thành một xu hướng nghệ thuật du hý của bọn vua chúa, và thế là cái bi hùng của nó (mà không ít nhà nghiên cứu nhấn mạnh, tâm đắc) thực chất chỉ là bi kịch của chế độ phong kiến thời kỳ suy thoái và chủ nghĩa anh hùng cá nhân phong kiến mang màu tôn quân mà thôi. Theo chúng tôi, khi đánh giá tuồng cổ từ trước tới nay, người ta còn xem nhẹ vấn đề này và đề cao tuồng cổ một cách quá đáng, đẩy tuồng tới chỗ gần như là một thứ “siêu nghệ thuật”, không phải ai cũng hiểu được, chỉ có những bậc “thầy tuồng”, những người “sành tuồng” mới thấy hết cái hay, cái kỳ diệu, tuyệt mỹ của nó mà thôi !
Như trên đã nói, khi nghiên cứu Tuồng, ta phải đặt tuồng trong bối cảnh chung của sự phát triển văn học nghệ thuật đương thời. Nếu như giá trị của văn học thế kỷ l8-l9 nằm ở ngoài hệ tư tưởng chính thống, đội ngũ tác giả của nó có xu hướng “ li khai” giai cấp phong kiến, thì tuồng cũng không thể đi ngoài quy luật này. Nhưng do đặc điểm sân khấu “cồng kềnh” của mình, tuồng không thể hình thành xu hướng tiến bộ - phản ánh hiện thực xã hội như các thể loại văn học, mà có thể nói, khuynh hướng thế sự biểu hiện ở tuồng là việc ra đời loại tuồng đồ do các nho sĩ có nỗi lòng “ưu thời mẫn thế” sáng tác và biểu diễn trong dân dã. Từ một thứ nghệ thuật cung đình, bác học ở tuồng cổ, tuồng đồ trong dân dã dã có những thay đổi cơ bản về nội dung cũng như cách thức biểu diễn, có nghĩa là nó có cấu trúc kịch bản và nghệ thuật diễn xuất mới, phù hợp với môi trường sống của nó, nhu cầu thẩm mỹ của công chúng của nó. Khi ra đời, tuồng đồ được tiếp xúc với thời kỳ mà truyện nôm, kể vè, diễn ca và các hình thức văn nghệ dân gian khác đang phát triển mạnh và có sư chuyển hướng cơ bản về chất. Như thế, tuồng đồ và các hình thức văn học nghệ thuật này đã chuyển hóa lẫn nhau, tạo nên tình trạng hỗn độn, lẫn lộn về phương diện thể loại như đã nói trên. Như vậy. có thể nói, tuồng đồ tuy là “con đẻ” của tuồng cổ, nhưng nó lại được nuôi dưỡng trong một môi trường văn hóa khác hẳn tuồng cổ, và lẽ đương nhiên nó đã trở thành một loại hình nghệ thuật mới.(*).
Đỗ Ngọc Thạch

---------

(*) Xin xem thêm :

Đỗ Ngọc Thạch: Đọc cuốn “Tiếng cười trên sân khấu truyền thống” – Tap chí Sân khấu, số 2-1984.;Đỗ Ngọc Thạch: Về vấn đề kế thừa truyền thống để xây dựng tuông hiện đại : Tạp chí Nghiên cứu Nghê thuật, số 3-83; Tô Nguyễn (Đỗ Ngọc Thach) : Góp phần tìm hiểu vấn đề nguồn gốc và quá trình phát triển của nghệ thuât Tuồng ,Tạp chí Nghiên cứu Nghệ thuật, số 2-1985; Đỗ Ngọc Thạch: Về mối quan hệ giữa sân khấu và cuộc sống hôm nay , Tập san Những vấn đề sân khấu, Viện Nghiên cứu Sân khấu, Hà Nội, số 3-1984.

về Chủ nghĩa Hậu hiện đại

Tags: THẢO LUẬN VỀ CHỦ NGHĨA HẬU HIỆN ĐẠI

CHỦ NGHĨA HẬU HIỆN ĐẠI – TỒN TẠI HAY KHÔNG TỒN TẠI?

Chủ nghĩa hậu hiện đại - Tồn tại hay không tồn tại

Nguyễn Văn Dân-Chủ nghĩa hậu hiện đại-tồn tại hay không tồn tại

«

ĐÔI LỜI TRAO ĐỔI LẠI VỚI BẠN NGUYỄN VĂN DÂN- Phương Lựu 

GS.TSKH.NGND Phương Lựu

ĐÔI LỜI TRAO ĐỔI LẠI VỚI BẠN NGUYỄN VĂN DÂN- Phương Lựu (*)

Bài viết của bạn Dân (nhà phê bình, dịch giả Nguyễn Văn Dân – TS) mang tiêu đề Chủ nghĩa hậu hiện đại – Tồn tại hay không tồn tại rất thú vị, vì nó phản ảnh sâu xa nỗi ám ảnh của tác giả với vấn đề được bàn đến, (Chủ nghĩa hậu hiện đại) tồn tại hay không tồn tại, nói nôm na là có hay không?

Đã đành những vấn đề hữu quan tiếp theo như nếu có thì đến mức nào, phải đặt tên gì cho phù hợp, rồi đánh giá hay dở thế nào.v.v… cũng rất quan trọng, nhưng trước hết là vấn đề có hay không là quan trọng hơn cả, bởi vì dù cho có ít  cũng là có, chứ nếu hoàn toàn không, thì những vấn đề hữu quan nói trên sẽ biến mất. Phải nói rạch ròi như vậy, vì thật đáng tiếc sự tự trả lời trong bài viết của bạn Dân lại là có có, không không, trong cả hai dạng ý thức lẫn vô thức. Bản thân thì rất muốn và nhiều chỗ đã khẳng định là không, nhưng rồi  nhiều chỗ khác tự nhiên lại thốt lộ ra là có. Có thể tạm hình dung thế này: bạn Dân rất kiên quyết muốn nói không, nhưng rồi không thể nào quên đi được sự cảm nhận của mình  là có, cho nên tôi dùng chữ ám ảnh ở đây là vì vậy. Sau đây xin lần lượt chứng minh!
Cuối bài viết bạn Dân có thanh minh rằng: “… Không thể nói là tôi phản đối và phủ nhận chủ nghĩa hậu hiện đại, bởi lẽ người ta không thể phản đối và phủ nhận “cái không tồn tại”. In nghiêng hẳn hoi nhé, nghĩa là rất có ý thức tuyên bố chủ nghĩa hậu hiện đại không tồn tại! Nhưng thế thì, như một hệ luận sẽ phải là “người ta cũng không thể bàn bạc và khái quát cái không tồn tại”. Ấy thế nhưng ở đầu mục 2 bạn Dân lại viết: “Trên thế giới có nhiều cách hiểu về chủ nghĩa hậu hiện đại… Từ các ý kiến khác nhau, tôi phân ra ba nhóm quan niệm chính: …1. Chủ nghĩa hậu hiện đại như là đỉnh cao của chủ nghĩa hiện đại (quan điểm của Lyotard, Hassan) …2. Chủ nghĩa hậu hiện đại như là sự quay trở về với truyền thống …3. Chủ nghĩa hậu hiện đại là một sự vượt khỏi chủ nghĩa hiện đại…  “Như thế thì chủ nghĩa hậu hiện đại tồn tại quá đi rồi còn gì nữa. Nếu không thì chả nhẽ các học giả nổi tiêng trời Tây lại xúm nhau bàn bạc cái không có gì hết hay sao. Nếu nhỡ có những người lẩm cẩm như vậy, thì chắc chắn bạn Dân sẽ không thèm bỏ công đi sưu tầm khái quát phân loại ra những trò vớ vẩn như thế. Chưa hết! Nhắc lại sự kiện Sokal, bạn Dân đã tưởng tượng ra tôi “có định kiến muốn bảo vệ chủ nghĩa hậu hiện đại”, nhưng thôi không chấp (cứ đọc kỹ hết tất cả những điều tôi viết khắc biết), tôi chỉ quan tâm cái câu “Các nhà khoa học đã phản đối chính cái bản chất của cái gọi là chủ nghĩa hậu hiện đại”. Vậy thử hỏi trên thế gian này có cái gì có bản chất mà không tồn tại nào? Còn như cái đó tốt xấu  hay dở thế nào là chuyện khác. Ở đây tôi chỉ quan tâm vấn đề tồn tại hay không tồn tại mà thôi. Xin bạn Dân chớ có nhầm lẫn hai vấn đề rất khác nhau này, vì  tôi có cảm giác rằng với bạn, chỉ cái tốt mới tồn tại. Cũng chưa hết! Phê bình Vũ Xuân Tửu, bạn Dân viết: “Tác giả này đã tỏ ra không hiểu một tí gì về chủ nghĩa hiện đại và hậu hiện đại, cả về bản chất và thời gian xuất hiện của chúng” như thế càng chứng tỏ bạn Dân hiểu rất cặn kẽ về bản chất và cả thời gian xuất hiện của chủ nghĩa hậu hiện đại, thế mà lại dám tuyên bố nó không tồn tại! Thật ra bạn Dân còn có không ít lối diễn đạt đại khái như “thái độ chủ quan của chủ nghĩa hậu hiên đại” v.v.., như thế chủ nghĩa hậu hiện đại tồn tại thật rồi, bởi vì phải tồn tại trước cái đã, rồi mới bộc lộ thái độ chủ quan ra được chứ! Chắc chắn đọc đến đây bạn Dân sẽ giật mình vì bạn đã đưa ra  những luận chứng chống lại mình mà rất hồn nhiên không hay biết gì cả. Nhưng biết làm thế nào được, cái gì tồn tại trong “vô thức” là cái thật thà nhất và nó sẽ bộc lộ ra bằng cách này cách khác. “Vô thức” không có gì huyền bí cả, đến một lúc nào đó sẽ thể hiện thành ý thức hẳn hoi. Quả vậy, ở cuối mục 2, bạn Dân đã viết: “Như vậy, cái nghĩa cho rằng chủ nghĩa hậu hiện đại là giai đoạn kịch phát của chủ nghĩa hiện đại là có vẻ xác đáng và bao quát hơn cả. Vì mức độ kịch phát đó mà chủ nghĩa hậu hiện đại còn có thể được gọi là chủ nghĩa siêu hiện đại hay chủ nghĩa tối hiện đại”. Bạn Dân viết câu này là hoàn toàn tỉnh táo với đầy đủ ý thức mà chứng cớ đanh thép là trong phần Kết luận bạn đã nhấn mạnh lại gần như vậy. Trước hết tôi rất trân trọng kiến giải riêng của bạn về việc đề xuất ra một thuật ngữ khác. Nhưng xin bạn nhớ cho thuật ngữ “chủ nghĩa hậu hiện đại” vẫn hoàn toàn gợi lên được cái quan hệ dây mơ rễ má giữa nó với “chủ nghĩa hiện đại”, chỉ thêm có chữ hậu có nghĩa là “sau” mà rắc rối đến như vậy, nay thật ra bạn cũng chỉ muốn thay thành chứ siêu hoặc tối thôi, nhưng có nghĩa là thoát lên hoặc nhất rồi không ai bằng thì chắc chắn chỉ có rắc rối hơn trở lên mà thôi. Tất nhiên đây chỉ là chuyện chữ nghĩa và ý kiến của bạn Dân còn nhiều nội dung khác nữa sẽ lần lượt bàn tiếp sau. Bây giờ hãy quay lại với cái kết luận quan trọng nói trên của bạn Dân, thấy nó trùng hợp với loại ý kiến thứ nhất của các học giả nước ngoài mà bạn “phân loại” và nói cụ thể là của Lyotard, Hassan, Hughes.v.v… Từ đây có thể rút ra những hệ luận như sau: 1. Ý kiến của một số học giả nước ngoài về chủ nghĩa hậu hiện đại không hề vu vơ chút nào mà là bàn về một hiện tương có thực. 2. Từ đó, mặc dù ăn theo nói leo, nghe hơi nồi chõ thời nào và ở đâu chả có, nhưng việc những người trong nước, kể cả Hội Nhà văn (sẽ nói rõ thêm ở sau) với không ít hội viên quan tâm tìm hiểu vấn đề này là chính đáng và cần thiết. 3. Bản thân bạn Dân từ nay về sau không nên nói nước đôi, cụ thể là không nên nói không có chủ nghĩa hậu hiện đại nữa, mà chỉ nên nói có chủ nghĩa hậu hiện đại, nhưng vẫn chưa vượt ra ngoài chủ nghĩa hiện đại. 4. Cuối cùng bạn nên nói rõ rằng chính mình cũng có dựa vào ý kiến của các học giả nước ngoài. Điều này không có gì xấu xa cả, chỉ có xấu xa những ai dối trá tự cho chỉ có chủ kiến của riêng mình, nghiên cứu nước ngoài mà không cần biết đến thành tựu của chính họ. Tất nhiên vấn đề còn ở chỗ hấp thu như thế nào, mới là đáng bàn.
Tuy có hấp thu ý kiến của học giả nước ngoài, nhưng trong nhiều năm qua, bạn Dân dồn sức vào chứng minh sự giống nhau như hệt giữa chủ nghĩa hiện đại với chủ nghĩa hậu hiện đại trên các vấn đề như phi lý tính, phi chủ thể, phi xác định .v.v… để cho rằng không có chủ nghĩa hậu hiện đại. Thật ra trong cái giống có cái khác, nhưng thôi, cứ hãy tạm giả định những điều bạn chứng minh là hoàn toàn chính xác, thì xin được nói thẳng là chưa thấm tháp vào đâu! Để cho thật khách quan, tôi xin phép dẫn ra chính ý kiến các tác giả của loại quan niệm về chủ nghĩa hậu hiện đại mà bạn tán thành, đó là Lyotard, Hassan v.v… Trong công trình Chuyển hướng sang hậu hiện đại công bố năm 1987, Ihab Hassan đã nêu ra 33 điểm khác nhau giữa chủ nghĩa hậu hiện đại với chủ nghĩa hiện đại, xin thử liệt kê ra một số: “Chủ nghĩa hiện đại// Chủ nghĩa hậu hiện đại: Hình thức// Chống hình thức. Có mục đích// Trò chơi. Sắp đặt// Ngẫu hứng. Tác phẩm hoàn kết// Quá trình, đang trình diễn. Gián cách// Can dự. Chỉnh thể hoá// Giải cấu trúc. Tổng hợp// Phân lập. Ẩn dụ// Hoán dụ. Chọn lựa// Kết hợp. Gốc rễ, chiều sâu// Cành nhánh, bề mặt. Lý giải// Ngộ nhận. Cái được biểu đạt// Cái biểu đạt. Để đọc// Để viết lại. Xác định// Bất định. Siêu thoát// Hưóng nội v.v…” (Xin xem đầy đủ trong Lý thuyết văn học hậu hiện đại, Nxb ĐHSP, H. 2011, tr. 80). Ý kiến của Hassan hiển nhiên không phải đều là chân lý, mà hơi bị rườm rà. Vậy thì sẽ được bù đắp ngay bởi duy nhất một ý kiến của Jean Francois Lyotard về một đặc điểm của chủ nghĩa hậu hiện đại là giải thể đại tự sự. Tôi không nói hễ tán thành một người nào thì phải tán thành tất cả các ý kiến họ phát biểu. Nhưng anh Dân dứt khoát phải phản bác hoặc chứng minh tất cả những đặc điểm của chủ nghĩa hậu hiện đại được Hassan và Lyotard nêu ra đều đã có trong chủ nghĩa hiện đại, nếu anh còn đeo đuổi cái quan niệm cho rằng không có chủ nghĩa hậu hiện đại.
Bạn Dân đúng là tham bác nhiều tài liệu và là người có chủ kiến, nhưng có lẽ do đọc quá nhiều, mà lại lắm chủ kiến cho nên cuối cùng không làm chủ được ý kiến của mình. Chỉ một bài viết ngắn được sửa chữa nhiều lần trong nhiều năm qua, mà ý tứ không rõ ràng nhất quán, luận chứng mâu thuẫn không trọn vẹn! Đem những thao tác tư duy như vậy để nhận xét rất trịch thượng về sách báo của đồng nghiệp trong một phần tư thế kỷ đầy những biến chuyển sôi động vừa qua, mà không hề có chút tư duy lịch sử thì làm sao mà tin được. Nhất là bạn Dân có xu hướng hay sử dụng cái chiêu “đồng đại hoá” mọi việc trong chiều lịch đại để dễ bề bắt bẻ những mâu thuẫn.
Riêng về phần tôi không phải là kẻ tiên tri biết trước hết mọi việc ngay một lúc.  Nhận thức về vấn đề chủ nghĩa hậu hiện đại vẫn phải là một quá trình, trong đó có những nhược điểm riêng cũng như hạn chế chung cùa lịch sử, song đều rất rạch ròi theo ba thời điểm chính như sau:
- Năm 1986 – 88 Nxb Giáo dục công bố bộ giáo trình 3 tập do chúng tôi làm chủ biên mà thật ra đã được khởi thảo trước thời Đổi mới và phải tuân theo chương trình của Bộ Giáo dục từ năm 1982. Thời ấy, nhất là ở nước ta, làm sao có thể nói đến chủ nghĩa hậu hiên đại? Cho nên đối với những hiện tượng văn học mới mẻ như tiểu thuyết mới v.v…, vẫn đành tạm ghi nhận nó trong mục Chủ nghĩa hiện đại. Sau này khi đã có khái niệm chủ nghĩa hậu hiện đại mới mẻ (dù là được hiểu vẫn còn nằm trong hay đã vượt ra ngoài chủ nghĩa hiện đại thì vẫn là mới mẻ) thì phải trả những hiên tượng nói trên về đúng chỗ của nó là chuyện bình thường, tất yếu, lôgic.
- Năm 2005 giáo trình bộ mới của chúng tôi thuộc vào loại sớm nhất đề cập đến chủ nghĩa hậu hiện đại. Tuy nhiên, lúc ấy cũng như nhiều người khác, trong đó có bạn Dân, chúng tôi chỉ thấy chủ nghĩa hậu hiện đại tuy là rất mới mẻ, nhưng vẫn chưa vượt ra ngoài phạm vi chủ nghĩa hiện đại. Chủ nghĩa hiện đại là một cách gọi chung, đâu phải được hình thành trong một lúc, mà vẫn luôn luôn dung nạp những cái mới, lần lượt từ chủ nghĩa tượng trưng đến chủ nghĩa  biểu hiện v.v…, và bây giờ “kết nạp” thành viên mới là chủ nghĩa hậu hiện đại. Vậy có phải là, theo lô-gic rất thông thường và hiển nhiên là cái gì nói về những “trường phái thành viên” như chủ nghĩa tượng trưng, chủ nghĩa vị lai, chủ nghĩa biểu hiện.v.v… cũng  đều có thể dẫn chứng trở lại trong khi bàn chung về chủ nghĩa hiện đại không nào? Thế thì tại sao những cái nói trong chủ nghĩa hậu hiện đại lại không thể dẫn chứng trở lại khi bàn chung về chủ nghĩa hiện đại nhỉ? Đây là việc làm tự nhiên không hề có mâu thuẫn gì cả. Bạn Dân cũng từng chủ trương là chủ nghĩa hậu hiện đại vẫn nằm trong chủ nghĩa hiện đại, thế mà tỏ ra không hiểu việc làm này của tôi thì lạ thật. Không hiểu thì chớ, lại quay ra nặng lời bắt bẻ quy chụp vô lối, thật là một sự cố tình rất đáng chê trách.
- Năm 2011 tôi đã công bố công trình Lý thuyết văn học hậu hiện đại theo yêu cầu của Hội Nhà văn mà như ý kiến của Chủ tịch Hội là: “vì đã định tâm hội nhập, thì phải ra sức cập nhật, trước hết là để hiểu rõ sát đúng tình hình bên ngoài đến mức tối đa có thể được” (Mấy lời nói đầu). Chớ có xuyên tạc thành đây là hành động cổ vũ cho chủ nghĩa hậu hiện đại! Đến đây chúng tôi mới thấy rõ tuy không hoàn toàn tách rời với chủ nghĩa hiện đại, nhưng chủ nghĩa hậu hiện đại là một trào lưu văn nghệ khác từ cơ sở xã hội và ý thức đến quan niệm về hiện thực và con người. Tuy nhiên, do nhiệm vụ và cũng do khả năng, chúng tôi chỉ có thể đi sâu riêng về phương diện lý thuyết của nó mà thôi. Nhưng qua đây có thể thấy biết bao điều mới mẻ không hề có trong lý thuyết văn học hiện đại, chẳng hạn như có sự chuyển biến nội tại ngay trong lý luận văn học hậu hiện đại từ chỗ “phá” đến chỗ “xây”, từ chỗ phủ nhận ngay cả ngôn ngữ, giải cấu trúc, đạp đổ mọi hệ thống lý thuyết cũ (Các trường phái giải cấu trúc Pháp và Hoa kỳ) đến việc quay về với lịch sử (Chủ nghĩa tân lịch sử), với xã hội (Phê bình nữ quyền),với chính trị (Phê bình hậu thực dân). Thật là mới lạ đến mức có ý kiến cho đây là Chủ nghĩa hậu hậu hiện đại (Beyond  Posmodernism). Và đến nay Lý thuyết văn học hậu hiện đại vẫn tiếp tục  sinh mệnh của mình, nhưng từ cuối thế kỷ trước đã chấm dứt vai trò chủ lưu và nhường ngôi cho trường phái Nghiên cứu văn hoá với những quan niệm và khái niệm khác hẳn, mặc dù lý luận văn học hậu hiện đại cũng có góp phần vào như là một trong những tiền đề lý thuyết. Chắc chắn là việc nghiên cứu của chúng tôi không tránh khỏi sai sót, nhưng là một sự nỗ lực phản ảnh “sát đúng với tình hình bên ngoài đến mức tối đa có thể được” theo khả năng của mình. Bởi vì giả sử tôi được phép nói gì thì nói, thì cũng không có tài hư cấu ra những nội dung như trên. Tất nhiên cho dù việc nghiên cứu của chúng tôi có hoàn toàn đúng đắn thì cũng không thể bệ nguyên si vào thực tiễn  sáng tác được, vì  giữa lý luận với sáng tác khi nào cũng có độ vênh nhất định. Cần phải có thêm những công trình chuyên sâu riêng về thơ, kịch, tiểu thuyết hậu hiện đại nữa. Rồi sau khi đã có được sự nhận thức đúng đắn, hoặc tương đối đúng đắn về lý luận phê bình và sáng tác hậu hiện đại, chúng ta mới có thể chính thức tiến hành đánh giá một cách toàn diện chuyện hay dở tốt xấu thế nào, trên cơ sở đó mới chọn lựa có nên vận dụng hay không, vận dụng đến mức nào vào nền văn học chúng ta. Công việc của chúng tôi hoá ra cũng  chỉ mới quẩn quanh ở xuất phát điểm mà thôi. Nhưng là một sự quẩn quanh cần thiết, nhằm góp phần xoá tan mối nghi ngờ về sự hiện diện của chủ nghĩa hậu hiện đại trên thế giới. Bởi vì xem ra, chịu, không có cách nào có thể cưỡng  ép những nội dung mà chúng tôi triển khai về lý luận văn học hậu hiện đại vào trong cái khung vốn có của lý luận văn học hậu hiện đại được.
T/b: Chúng tôi vốn là bạn bè đồng nghiệp rất gần gũi, nhưng tôi không hề hay biết gì về bài viết của anh Dân. Được thôi, không sao cả! Nhưng vấn đề bức bách hiện nay không phải là giữa chúng ta với nhau (lúc nào trao đổi chả được), mà là giữa chúng ta với bạn đọc, cho nên buộc tôi phải lên tiếng ngay, nhưng cũng nhân đây, xin mời bạn Dân xem luôn cho nhé!
(*) Xem thêm:
  1. ...về văn hóa hậu hiện đại - GS. TS Phương Lựu

    docamvan.vnweblogs.com/print/27344/323142Bản lưu
    14 Tháng Chín 2011 – Khái quát và tranh luận trực tiếp về văn hoá hậu hiện đại. GS.TSKH. Phương Lựu - Khoa Ngữ văn - Đại học Sư phạm Hà Nội ...
  2. Trao đổi về CHỦ NGHĨA HẬU HIỆN ĐẠI - TỒN TẠI HAY KHÔNG ...

    vanhoanghean.com.vn/.../3305-trao-doi-ve-chu-nghia-hau-hien-dai-t...Bản lưu
    1 ngày trước – GS. Phương Lựu -. Bài viết của bạn Dân (nhà phê bình, dịch giả Nguyễn ..... Và gần đây nhất, tháng 8-2011, GS Phương Lựu đã cho xuất bản ...
  

Lưu Quang Vũ "Sống mãi tuổi 17" - Đ.N.Thạch

Lưu Quang Vũ “Sống mãi tuổi 17” - Đỗ Ngọc Thạch
Xem hình

Giải thưởng Hội Nhà văn Hà Nội 2010 đã trao giải “Thành tựu trọn đời về Thơ” cho Tuyển thơ Gió và Tình yêu thổi trên đất nước tôi (NXB Hội Nhà văn và Nhã Nam hợp tác xuất bản, H.2010) của cố thi sĩ Lưu Quang Vũ (1948-1988). Gió và tình yêu thổi trên đất nước tôi (2010) với hơn 100 thi phẩm có thể xem như tuyển tập thơ Lưu Quang Vũ đầy đủ, công phu và kỹ lưỡng nhất cho đến thời điểm này. Tuyển tập thơ sẽ đem lại cho độc giả hình dung khá toàn diện về hành trình thơ Lưu Quang Vũ, nơi mỗi chặng đường đều in dấu những suy nghĩ, xúc cảm sâu đậm của tác giả và ghi dấu nhiều biến động của lịch sử, xã hội trong những thập niên cuối của thế kỷ 20.

Gió và tình yêu thổi trên đất nước tôi  được chia làm năm phần, theo thứ tự thời gian: Phần 1: Hương cây;  Phần 2: Viết cho em từ cửa biển;  Phần 3:  Đất nước đàn bầu;  Phần 4: Mắt của trời xanh ;  Phần 5: Những đám mây ban sớm.
Hình ảnh “Mây trắng” là một hình ảnh đẹp trong thơ Lưu Quang Vũ từ những vần thơ đầu tiên. Đó là những bài thơ Tình Lưu Quang Vũ viết cho Tố Uyên, chẳng hạn như trong bài Vườn trong phố:
 “Nơi ban đầu lòng ta ươm tổ mật
 Nơi ta hái những chùm thơ thứ nhất
 Nơi thu sang mây trắng vẫn bay về”.

Và đó chính là lý do để Vũ gọi “Mây trắng” là Nàng Thơ của mình, tỏa bóng suốt cuộc đời mình:
“Trên mái nhà, cao vút rừng cây
Trên rừng cây những đám mây xô dạt
Trên ngày tháng, trên cả niềm cay đắng
Thơ tôi là mây trắng của đời tôi”

(Mây trắng của đời tôi)
Lưu Quang Vũ coi Thơ là niềm đam mê lớn nhất trong cuộc đời cầm bút của mình, anh thường nói với bạn bè: “Kịch là công việc, thơ là hồn phách”. Anh làm thơ như một thôi thúc nội tại mãnh liệt, làm thơ như ghi nhật ký, làm thơ ngay cả khi không thể đăng báo hay chia sẻ cùng ai. Để lại một di sản thơ không nhỏ, nhưng sinh thời, Lưu Quang Vũ mới in được nửa tập thơ trong Hương cây - Bếp lửa (in chung cùng Bằng Việt - 1968), hai tập Mây trắng đời tôi (1989) và Bầy ong trong đêm sâu (1993) ra mắt bạn đọc sau khi anh mất. Chính vì vậy, Gió và tình yêu thổi trên đất nước tôi (2010) với hơn 100 thi phẩm có thể xem như tuyển tập thơ Lưu Quang Vũ đầy đủ, công phu và kỹ lưỡng nhất cho đến thời điểm này. Tuyển tập thơ sẽ đem lại cho độc giả hình dung khá toàn diện về hành trình thơ Lưu Quang Vũ, nơi mỗi chặng đường đều in dấu những suy nghĩ, xúc cảm sâu đậm của tác giả và ghi dấu nhiều biến động của lịch sử, xã hội trong những thập niên cuối của thế kỷ 20.
Đọc Gió và tình yêu thổi trên đất nước tôi ta hình dung được không chỉ số phận của chính nhà thơ mà là số phận của cả dân tộc, đất nước qua trường kỳ lịch sử, có những lúc rực rỡ hào hùng, cũng có cả những năm tháng vật vã khổ đau. Và riêng cuộc đời nhà thơ, dù có không ít tháng ngày u ám, cô đơn, đổ vỡ, có lúc tuyệt vọng... song  “Khổ đau dẫu nhiều tôi chọn niềm vui”, “Để luôn luôn được trở lại với đời” :
                                
Ước chi được hóa thành ngọn gió
Để được ôm trọn vẹn nước non này
Để thổi ấm những đỉnh đèo buốt giá
Để mát rượi những mái nhà nắng lửa
Để luôn luôn được trở lại với đời…
Gió và tình yêu thổi trên đất nước tôi…
(Gió và tình yêu thổi trên đất nước tôi)

Bên cạnh hơn một trăm bài thơ được chia làm năm phần, sắp xếp theo trình tự thời gian, tuyển tập còn bao gồm phần thủ bút của Lưu Quang Vũ trích trong tập Cuốn sách xếp lầm trang. Việc ra mắt một tuyển tập dày dặn, công phu về thơ Lưu Quang Vũ không chỉ là cơ hội để người đọc tìm lại những vần thơ từng một thời được say đắm, đến với những bài thơ còn ít được biết đến, mà hơn thế, đây thực sự còn là dịp để Lưu Quang Vũ được nhìn nhận, và ghi nhận ở một tầm vóc mới, xứng đáng hơn trong nền thơ ca VN hiện đại, bởi cho đến nay mà nói, thơ ca VN hiện đại thời kỳ chống Mỹ - thời kỳ thơ LQV xuất hiện, - không có tên LQV trong đội ngũ các nhà thơ tiêu biểu vốn cùng xuất hiện và cùng lứa tuổi với Lưu Quang Vũ như Phạm Tiến Duật, Nguyễn Duy, Nguyễn Đức Mậu, Thanh Thảo, v.v…
*
Lưu Quang Vũ sinh tại tại Phú Thọ, là con trai nhà viết kịch Lưu Quang Thuận (quê Đà Nẵng) và bà Vũ Thị Khánh, và tuổi thơ sống tại Phú thọ cùng cha mẹ. Khi hòa bình lập lại (1954) gia đình ông chuyển về sống tại Hà Nội. Từ 1965 đến 1970, Vũ nhập ngũ, phục vụ trong quân chủng Phòng không - Không quân. Đây là thời kỳ thơ Lưu Quang Vũ bắt đầu nở rộ. Từ 1970 đến 1978: xuất ngũ và làm đủ mọi nghề để mưu sinh, làm ở Xưởng Cao su Đường sắt do Tạ Đình Đề làm Giám đốc, làm hợp đồng cho NXB Giải phóng, chấm công trong một đội cầu đường, vẽ pa-nô, áp-phích,...Từ 1978 đến 1988: Lưu Quang Vũ làm biên tập viên Tạp chí Sân khấu, bắt đầu sáng tác kịch nói với vở kịch đầu tay Sống mãi tuổi 17, viết lại theo kịch bản của Vũ Duy Kỳ.

Chỉ trong khoảng 10 năm, Vũ đã là tác giả của gần 50 vở kịch và hầu hết các vở kịch của Vũ đều được các đoàn kịch, chèo dựng thành công dưới sự chỉ đạo của nhiều đạo diễn nổi tiếng, đã làm sôi động sân khấu Việt Nam một thời như: Hồn Trương Ba da hàng thịt, Lời thề thứ 9, Bệnh sĩ, Khoảnh khắc và vô tận, Ông không phải bố tôi, Tôi và chúng ta, Tin ở hoa hồng, Nàng Sita, v.v… Vở kịch đầu tay "Sống mãi tuổi 17" được trao tặng Huy chương Vàng Hội diễn sân khấu năm 1980. Lưu Quang Vũ được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt 2 (năm 2000) về nghệ thuật sân khấu. Tuy được giải thưởng lớn về sân khấu như vậy, nhưng theo như nhiều nhà nghiên cứu văn học, nhiều nhà thơ thì Lưu Quang Vũ là một Thi sĩ đích thực, thơ mới là cái làm nên Lưu Quang Vũ, như nhận định sau của nhà thơ Vũ Quần Phương: “Nhưng đọc hết các bản thảo anh để lại, tôi thấy thơ mới là nơi anh ký thác nhiều nhất và tôi tin nhiều bài thơ của anh sẽ thắng được thời gian. Hình như Lưu Quang Vũ cũng nhận ra điều đó. Anh nói với nhiều bạn bè rằng anh thích được làm thơ hơn cả viết kịch lẫn viết truyện, rằng thành công của thơ thường mang cho anh niềm vui lâu hơn dù nhuận bút tiêu có chóng hết hơn. Cố nhiên với Lưu Quang Vũ hay với chúng ta, không có sự khinh trọng giữa các loại hình nghệ thuật. Ở đây chỉ muốn nói tới cái tạng của anh. Tôi thấy trước sau cốt cách thi sĩ vẫn là nét trội nhất trong tâm hồn anh. Tôi cũng trộm nghĩ, về lâu dài, sự đóng góp của Lưu Quang Vũ về thơ còn lớn hơn về kịch” (Vũ Quần Phương: Đọc thơ Lưu Quang Vũ).
Nhà thơ Lưu Quang Vũ
Nhận xét trên của Vũ Quần Phương là đúng và nói “Ðắm đuối đó là một đặc điểm của suốt đời Lưu Quang Vũ” cũng rất đúng và tôi muốn nói thêm cái sự “đắm đuối” ấy không chỉ là “đặc sản” của riêng Lưu Quang Vũ mà là của cả một thế hệ cùng trang lứa khi đó, mà dễ thấy ngay ở Bằng Việt, người “bạn đường” với Lưu Quang Vũ trong tập thơ in chung “Hương cây - Bếp lửa”:
"Lẵng quả thông" trong suối nhạc nhiệm màu
Hay "Chuyến xe đêm" thẫn thờ, mê đắm
Mùi cỏ dại trên cánh đồng xa thẳm
Một bầu trời vĩnh viễn ướp hương hoa…
(Bằng Việt: Nghĩ lại về Pauxtopxki)

Song, khi Vũ Quần Phương nói tiếp : “Gần như cả tập Cuốn sách xếp lầm trang, hai mươi hai bài, đều chưa đăng cả. Mà đây là một tập hay, có lẽ hay nhất trong các tập của Lưu Quang Vũ. Tôi đọc và sửng sốt, đây là một Lưu Quang Vũ khác, một Lưu Quang Vũ mà bạn bè còn ít biết tới. Ở đây anh cô đơn hơn, cay đắng hơn và nhiều ý nghĩ của anh bế tắc quá. Nhưng cũng chính ở đây anh viết thực chân thành, trái tim trần trụi nhoi nhóp đập sau nét chữ mảnh mai như chữ con gái - chưa bao giờ tôi thấy thơ Lưu Quang Vũ chân thành đến tàn nhẫn với chính mình như ở tập này. Anh ghi lên giấy tất cả những gì đã có ở lòng anh, không cần biết những ý tình ấy có phù hợp hay không với thời cuộc. Lưu Quang Vũ không gửi đăng ở đâu. Anh viết cho anh thôi, cho nhu cầu của riêng anh, trước hết. Nhưng chắc chắn anh tin rằng tập thơ sẽ có lúc được xuất bản vì một lý do đơn giản: nó hay, hay vì nó đã diễn đạt tinh vi được một tâm trạng mà tâm trạng đang cảm xúc cao độ những gì mà nó đang sống” - thì tôi thấy không còn đúng nữa. Thứ nhất, cả tập Cuốn sách xếp lầm trang…không thể “là một tập hay, có lẽ hay nhất trong các tập của Lưu Quang Vũ”. Thứ hai, nếu nói nó hay “vì nó đã diễn đạt tinh vi được một tâm trạng mà tâm trạng đang cảm xúc cao độ những gì nó đang sống” , song tâm trạng đó lại “có nhiều ý nghĩ bế tắc”, thì quả là không ổn. Diễn tả tâm trạng cô đơn, bế tắc không phải là sở trường, không phải là cảm hứng chủ đạo trong thơ Lưu Quang Vũ, mà chỉ là một “thời kỳ đen tối” đã trở thành “kỷ niệm buồn” mà chính bản thân Vũ cũng muốn xóa bỏ trong bộ nhớ, đã được Lưu Quang Vũ bộc bạch thành cả một bài thơ:
Tôi chẳng muốn kỷ niệm về tôi là một điệu hát buồn
Bao bài ca xáo trộn trong tôi
Có tiếng khóc của con chim gẫy cánh
Tiếng đau rên của ngôi nhà đổ sập
Tiếng con thuyền không về được bờ quen
Tiếng mưa rơi trên ngọn cỏ yếu mềm…
Như đêm hội này chỉ một lần tôi được hát
Chỉ sống một cuộc đời giữa vô cùng năm tháng
Chỉ một lần gặp bạn, bạn yêu thương
Chẳng muốn kỷ niệm về tôi là một điệu hát buồn
Tôi chọn bài ca của mùa hạ nắng
Tôi chọn bài ca của người gieo hạt
Hôm nay là mầm, mai sẽ thành cây
Khổ đau dẫu nhiều tôi chọn niềm vui
Là suối mát lòng tôi gửi bạn
Một cuộc đời - một bài ca duy nhất
Tôi chẳng muốn điệu hát buồn là kỷ niệm về tôi.

 (Gió và tình yêu thổi trên đất nước tôi)
Về vấn đề “cô đơn, bế tắc” trong thơ Lưu Quang Vũ, về những “bài thơ xé lòng” của Lưu Quang Vũ đã được nhà Phê bình văn học Vương Trí Nhàn đề cập và lý giải khá thấu tình đạt lý trong bài viết “Lưu Quang Vũ và một mảng đời mảng thơ thường bị quên lãng” in trong cuốn “Cây bút, đời người” (NXB Hội Nhà văn, 2007):
“Những phiền toái đã đến với Vũ khá nhanh chóng, những phiền toái do lỡ lầm hư hỏng của chính anh gây ra cũng có, mà do cái ngặt nghèo của hoàn cảnh cũng có. Tôi không nhớ thật rõ, nhưng hình như ngay vào khoảng đầu những năm 70, khi Vũ mới 22-23, trong đầu óc một số chúng tôi, cái hình ảnh mơ mộng của một nhà thơ được ái mộ nơi anh đã nhòa đi gần hết. Thay vào đấy là hình ảnh một kẻ long đong giữa cuộc đời vô định. Những hoang tưởng ngớ ngẩn đã đẩy Vũ đến chỗ vượt ra khỏi những quy định thông thường mà một người làm thơ trẻ phải tuân thủ. Và Vũ bị trả giá đích đáng. Báo chí không in thơ Vũ nữa. Vũ rơi vào tình thế cô độc, hầu như lạc lõng giữa dòng người sôi nổi. Một điều khốn khổ nữa là chính lúc ấy, cái gia đình riêng của Vũ cũng rạn vỡ” ... “Tôi còn nhớ rất rõ cái cảm tưởng nước đôi giày vò bản thân mình khi nghe những bài thơ đó của Vũ: một mặt e ngại, cảm thấy nó đi ngược với tâm trạng chung, cái lạc quan chung nên không cần ai bảo, đã thấy là không phải. Nhưng mặt khác lại thích thú, cảm thấy ở đó có một phần vui buồn của mình nên tìm kiếm vụng trộm, tán thành vụng trộm, thèm muốn trở lại với những dòng thơ đó, như thèm muốn nhìn thấy chính hình ảnh của mình.
…Từ đầu 1970, cuộc sống Hà Nội đã bắt đầu phô ra tất cả cái khó khăn phiền phức mà thời chiến phải có. Thành phố như một người ngấm bệnh…Từ đủ mọi phía, hoài nghi len lỏi tới, những hoài nghi đủ sức làm bủn rủn con người và không cho người ta vững tâm làm việc gì cả. Thơ Vũ bắt lấy những cái đó rất nhanh. Từ hoàn cảnh riêng, Vũ suy ra cả cuộc đời chung và diễn tả những tan nát đổ vỡ với tất cả cái đắm đuối của tuổi trẻ. Chúng tôi đã thử tìm cách chống lại thứ thơ ấy. Chẳng phải là đôi lúc, Vũ đã không khỏi có chút huênh hoang? Đã vay mượn chắp vá? Đã tố cái khốn khó của mình lên? Đã rên rỉ nhiều hơn là kiên nhẫn chịu đựng và dìm nỗi đau của mình trong nước lạnh? Chúng tôi biết cả. Nhưng tận trong thâm tâm, mỗi người vẫn biết là có lòng mình, tâm trạng của mình ở trong những dòng thơ rách xé đó. Vốn xa lạ với mọi thứ giáo huấn, dạy bảo, Vũ không hẳn cố ý làm lây truyền cái nôn nao buồn bã của mình. Nhưng có lẽ chính vì thế mà tiếng kêu của anh càng tội nghiệp. Nó giống như một tiếng nức nở…”.
Và con người bằng xương thịt của Lưu Quang Vũ thì được Vương Trí Nhàn phác họa thật thảm hại: “Nay bước sang tuổi 20 - tuổi hai mươi khốn khổ của tôi ơi / Tuổi tai ương dằng dặc trận mưa dài; trong một bài thơ nào đó, hình như nay đã thất lạc, Vũ viết vậy - bước sang tuổi 20, giờ đây người anh đanh lại, xạm đi, trên nét mặt nhiều khoảng tối u uất. Lúc nào Vũ cũng như đăm chiêu không bằng lòng một điều gì, để rồi khi chịu không được, lại buột ra một câu thật suồng sã, láo lếu...”. Nhưng, cuộc đời không ruồng bỏ mà rất bao dung, bởi Vũ đã có tình bạn và tình yêu - hai thứ tình cảm rất cần đối với Thi sĩ cô đơn: “Còn ở Hà Nội, người bao dung hơn cả, là Nguyễn Lâm. Căn phòng nhỏ của Lâm ở Triệu Việt Vương là nơi Vũ thường xuyên lui tới. Những lúc vui, Vũ đi những đâu đâu, khi buồn quá, lại trở về với Lâm. Lâm có thể nghe Vũ kể đủ chuyện, có thể nghe Vũ chửi bới kêu than, lại có thể lặng đi chờ đợi khi Vũ đờ đẫn không nói gì. Lần ra ga Hàng Cỏ cùng Vũ trong một đêm trời lạnh, đó là Lâm. Ngồi xe xích lô cùng Vũ đi rong, để rồi lại trở về trầm ngâm bên chiếc điếu cày hay chén rượu nhạt, lại cũng là Lâm, ”Lâm rùa” như chúng tôi đã đặt tên. Bao nhiêu ngang ngược của Vũ, Lâm chịu được hết. Trong những năm tháng tơi tả của Vũ, Lâm là hiện thân của sự chứa chấp thông cảm mà Vũ khao khát, nhưng lại thường tự đánh mất. Cố nhiên, nói về thơ Vũ lúc này, còn phải nói về gia đình và những người đàn bà, nơi nương tựa về tâm lý của Vũ, những khi đặc biệt cơ cực. Đó là những chuyện mà ở ta ít có thói quen nói ra công khai, song thật ra, lại liên quan trực tiếp đến nhiều sáng tác cụ thể của các nghệ sĩ nói chung và Lưu Quang Vũ nói riêng. Đọc những bài thơ tình hay nhất của Vũ viết khoảng sau 1970, tôi nhớ tới lời tự thú của Picasso: “Cũng như tất cả các họa sĩ khác, tôi trước tiên là họa sĩ của phụ nữ, và với tôi, phụ nữ trước tiên là một cơ chế của sự đau khổ”.
*
Ở trên, tôi đã nói diễn tả tâm trạng cô đơn, bế tắc không phải là sở trường và cảm hứng chủ đạo của thơ Lưu Quang Vũ mà đó chính là tình yêu và cảm hứng dân tộc, lịch sử. Những bài thơ mà “Con mắt xanh” của nhà phê bình trứ danh Hoài Thanh chọn để giới thiệu Lưu Quang Vũ với Thi đàn lúc đó là những bài Thơ tình, - không phải tình trong mộng mà tình có thực - mối tình của Thi sĩ họ Lưu và “Con chim Vành khuyên” Tố Uyên: Vườn trong phố, Hơi ấm bàn tay…Ta như ngất ngây, say đắm với những vần thơ tuôn trào cuồn cuộn mà đầy nhạc tính và người ta yêu dấu hiện ra rất giản dị mà cũng rất rực rỡ:

Trong thành phố có một vườn cây mát
Trong triệu người có em của ta
Buổi trưa nắng bầy ong đi kiếm mật
Vào vườn rồi ong chẳng nhớ lối ra
Vườn em là nơi đọng gió trời xa
Hoa tím chim kêu bàng thưa lá nắng
Con nhện đi về giăng tơ trắng
Trái tròn căng mập nhựa sinh sôi…
 …………
Dưa hấu bổ ra thơm suốt ngày dài
Em cũng mát lành như trái cây mùa hạ
Nước da nâu và nụ cười bỡ ngỡ
Em như cầu vồng bảy sắc hiện sau mưa

 (Vườn trong phố)
Phút đưa nhau ta chỉ nắm tay mình
Điều chưa nói thì bàn tay đã nói
Mình đi rồi hơi ấm còn ở lại
Còn bồi hồi trong những ngón tay ta.

Như hai dòng sông gặp gỡ đổi phù sa
Nhập luồng nước, hòa nhau màu sắc
Trao cảm thương, hai bàn tay nắm chặt
Nghe máu mẹ cha chuyển giữa mỗi tay mình.

(Hơi ấm bàn tay)
Tình yêu thời đó thật lãng mạn. Những bài thơ tình đó thật là đẹp. Đó cũng là thời của những bài thơ tình nổi tiếng như Hương thầm của Phan Thị Thanh Nhàn, Cuộc chia li màu đỏ của Nguyễn Mỹ…mà các bạn trẻ 8X, 9X bây giờ không thể nào có được!
Song, hầu như Thi sĩ lớn nào cũng gặp khổ đau trong Tình yêu. Mối tình Lưu Quang Vũ và Tố Uyên đã tan vỡ. Bài thơ Từ biệt viết cho Tố Uyên, đó là cả tâm hồn tan nát của Lưu Quang Vũ:
Thôi nhé, em đi
Như một cánh chim bay mất
Phòng anh chẳng có gì ăn được
Chim bay về những mái nhà vui.
Nghĩa gì đâu kỷ niệm tháng năm dài
Lời thương mến nhớ lại thành chua chát
Lòng ta cạn hay đời quá hẹp
Nghĩ cho cùng, nào dám trách chi em.

(Từ biệt)
Dù sao đi nữa, những bài thơ tình viết cho Tố Uyên trong phần Hương cây vẫn là những bài thơ tình hay nhất của Lưu Quang Vũ, đó là những vần thơ có tính chất khai mở của thơ Lưu Quang Vũ. Không hiểu sao, khi in trong Tập Gió và tình yêu thổi trên đất nước tôi này, những lời đề tặng Tố Uyên lại bị xóa đi?
*
Trong cuộc Tọa đàm về Thơ Lưu Quang Vũ vừa rồi, nhà thơ Anh Ngọc có nhận xét :Chất thơ của Lưu Quang Vũ có nhiều tự sự, lời thơ, câu chữ rất mềm và trong sáng. Thứ hấp dẫn dài lâu với độc giả chính là chiều sâu suy tư và nhạc tính của những câu thơ. "Thơ nằm giữa văn học và âm nhạc, nên thơ cần được đọc lên. Thơ Vũ là loại thơ như thế". Cũng theo Anh Ngọc, "Lưu Quang Vũ là nhà thơ cổ điển ngay ở lứa tuổi 20" với những vần thơ giàu tính chiêm nghiệm và một cách vô tình, giàu chất triết lý. “Cổ điển ngay ở lứa tuổi hai mươi” mà Anh Ngọc nhận xét về thơ Lưu Quang Vũ chính là cảm hứng dân tộc, lịch sử, đất nước trong thơ Lưu Quang Vũ. Cái cảm hứng thi ca “già trước tuổi” này ta đã thấy trong Thơ Mới với Huy Thông, Chế Lan Viên, Huy Cận…khi cũng đang ở “Tuổi đôi mươi” như Lưu Quang Vũ. Có thể nói cảm hứng dân tộc, lịch sử, đất nước là cảm hứng chủ đạo trong thơ Lưu Quang Vũ, là thiên phú bẩm sinh của Lưu Quang Vũ. Những bài thơ Lưu Quang Vũ viết từ “cảm hứng lịch sử, dân tộc, đất nước” cứ như những dòng sông cuộn chảy với những thác ghềnh ở thượng nguồn, những cánh đồng lúc thì mát xanh lúc thì vàng rực nơi bình nguyên, và trong những âm thanh réo sôi, cuồn cuộn đó, ta nghe thấy bước chân của con người, ra đi từ thuở hồng hoang cho tới hôm nay:

Đi dọc một triền sông
Những chiếc trống đồng vùi trong cát
Những mảnh bình vỡ nát
Những mũi tên lăn lóc
Khắp đồi núi hoang vu
Những rìu đá cổ sơ những hang động khổng lồ
Những đống lửa còn tro tàn sót lại.
Đi tìm lại thời gian đã mất
Thuở biển cả điên cuồng gầm thét
Những con chim lạc mỏ dài
Bay qua vầng trăng lớn
Cánh sừng sững tắm hoàng hôn đỏ rực
Cất tiếng kêu hoang dại dưới đêm nồng.
Đi tìm lại những bông hoa xanh biếc
Những rễ cây quằn quại
Những ngà voi nhọn hoắt
Những tiếng hú dài ào ạt mưa rơi
Tôi đi tìm dòng máu của tôi
Hơi thở đầu sôi sục của tôi
Trong cuồn cuộn những ngực trần đen bóng
Những bộ lạc mình vẽ đầy rồng rắn
Quần hôn trên bờ bãi sông Hồng
Những mái tóc dài bay gió biển Đông
Những mái lá có bùi nhùi giữ lửa
Những người đàn bà tết cỏ cây che vú
Đã ngọt ngào dòng sữa
Điệu ru con đầu tiên
Bức tranh đầu tiên khắc mặt người lên đá
Điệu múa đầu tiên theo nhịp thuyền.

(Đất nước đàn bầu)
Nếu có câu “Thi trung hữu họa” thì chính là cảm hứng dân tộc, lịch sử, đất nước trong thơ Lưu Quang Vũ. Nếu nói “Thi trung hữu nhạc” thì chính là cảm xúc Tình Yêu trong thơ Lưu Quang Vũ…(*). Chính những bài Thơ Tình của Lưu Quang Vũ khiến thơ Vũ trẻ mãi không già và “Sống mãi tuổi 17”! Chính vì thế, tôi vẫn thấy những những câu thơ ở thời “Mối tình đầu” của Lưu Quang Vũ mới thật là ấn tượng:
Nơi lá chuối che nghiêng như một cánh buồm
Cánh buồm xanh đi về trong hạnh phúc
Se sẽ chứ không cánh buồm bay mất
Qua dịu dàng ẩm ướt của làn môi…

 (Vườn trong phố)
Sài Gòn, tháng 9-2010
Đ.N.T
Đón đọc chùm thơ Lưu Quang Vũ do nhà văn Đỗ Ngọc Thạch chọn (Mục Trang thơ trong nước của NBĐ)
(Theo Bản tác giả gửi NBĐ)

Vụ án chiếc nút áo Casmia - Đỗ Ngọc Thạch

http://www.hotfrog.com.au/Uploads/PressReleases2/SAPA-ADVENTURE-TOUR-TO-COC-LY-MARKET-SAPA-TOURS-SAPA-PACKAGES-SAPA-TOURS-201677_image.jpg

VỤ ÁN CHIẾC NÚT ÁO CASMIA

Truyện ngắn của Đỗ Ngọc Thạch
Gia đình ông An có bốn người, hai vợ chồng và hai người con. Hai vợ chồng ông An mới hơn năm mươi tuổi, là cán bộ của Bộ Ngoại giao. Hai người con ông An, một nữ, là người chị, tên gọi Hàn Giang, hơn hai mươi, là sinh viên năm cuối trường Đại học Ngoại Ngữ Hà Nội; một nam, là người em, tên là Ngoại Giao, gần hai mươi tuổi, là sinh viên năm thứ hai trường Đại học Sư phạm Hà Nội.

Gia đình ông An sống trong một căn hộ loại biệt thự nhà hai tầng trong một đường phố yên tĩnh, vắng vẻ, được xây dựng từ thời Pháp thuộc khá phổ biến ở Hà Nội. Loại căn hộ biệt thự này thường được phân cho các cán bộ có chức Thứ trưởng hoặc tương đương. Vợ chồng ông An là cán bộ cấp “Cục, Vụ, Viện” nên chỉ được ở nửa căn hộ, ông bà ở tầng trên. Tầng dưới là một gia đình cán bộ đồng nghiệp của ông An, hiện đang có công cán ở nước ngoài nên cửa thường đóng khóa cẩn thận, đương nhiên có nhờ gia đình ông An để mắt giùm!

Vào một buổi sáng ngày chủ nhật, vào lúc chín giờ sáng, hai vợ chồng ông An và người con trai đều có việc đi khỏi nhà, chỉ có người con gái lớn ở nhà.

Mười một giờ, hai vợ chồng ông An và người con trai cùng trở về, ấn chuông và gọi cửa liên tục nhưng không thấy người con gái ra mở cổng. Người con trai phải trèo qua cái cổng sắt vào. Người con trai chạy lên lầu, mở cửa căn phòng của người chị gái ra thì cậu ta rú lên kinh hoàng bởi trong phòng, trên giường là cái xác người chị, không một mảnh vải che thân!
Chỉ sau mười phút, đội Trọng án đã có mặt đầy đủ. Sau khi quan sát kỹ hiện trường, đội trưởng đội Trọng án nói: “Đấy là một vụ án kép, tên tội phạm vừa lấy tài sản, vừa giết người vừa hiếp dâm! Nạn nhân bị chết do ngạt thở, có thể đã bị hung thủ dùng mền hoặc gối đè lên mặt cho đến ngừng thở rồi mới dở trò đồi bại thú tính. Có thể hung thủ đã “xuất tinh” tới hai lần, vì số lượng tinh trùng trên người nạn nhân khá nhiều, một lần lúc mới giết chết nạn nhân, lần sau là trước khi đi khỏi hiện trường gây án? Khi đi khỏi hiện trường, hung thủ chỉ lấy một số đồ lặt vặt trong phòng của cô gái mà không vào các phòng khác của gia đình chủ nhà. Rất tiếc là tên tội phạm không để lại dấu vết gì của vân tay hay những đồ vật mà hung thủ mang theo hoặc quần áo mà hung thủ đang mặc trên người, ngoài tinh dịch trên người nạn nhân. Vì thế muốn tìm ra thủ phạm, không có cách nào khác là phải lấy tinh trùng của những người tình nghi!”.

Nói thì nói vậy, nhưng khi khoanh vùng đối tượng tình nghi, đội trọng án không biết bắt đầu từ đâu? Người yêu của nạn nhân ư? Không thể nào! Anh ta không bao giờ lại có những hành động đồi bại như vậy! Mà không thể xác định được trong số những người con trai bạn bè của nạn nhân và gia đình ông An thì ai là người được cô gái coi là người yêu! Cô gái chưa bao giờ công khai tuyên bố mình yêu ai, cũng chưa hề “tâm sự riêng” với mẹ hoặc bạn gái thân nào về chuyện đó!
Vì thế, đối tượng bị tình nghi để lấy tinh trùng là khá rộng: tất cả những bạn trai, dù chỉ mới quen cô gái nạn nhân! Cô gái nạn nhân đang là sinh viên năm cuối trường Đại học Ngoại ngữ nên số sinh viên, giáo viên là nam có quan hệ với nạn nhân (chỉ cần hơi thân mật) là khá đông và tổ Trọng án đành phải “xin lỗi” tất cả vì để phục vụ công tác điều tra, không thể không thử. Bởi không thử làm sao biết?!

Những chàng trai có quen biết với nạn nhân quả là phải chịu thiệt thòi khi chưa từng được cầm tay chứ đừng nói tới chuyện phải “xuất tinh” với người con gái xinh đẹp khác thường mà bất hạnh này! Song, kết quả xét nghiệm chưa cho thấy thủ phạm là ai!

Bây giờ thì đến những chàng trai bạn của người em trai cô gái nạn nhân. Những người này cũng không phải là ít và tuy là bạn của người em nhưng đến nhà thường xuyên và quan hệ với người chị gái bạn mình không phải không có những sự thân thiết. Và đối tượng những chàng trai này cũng không thể bỏ qua. Và những chàng trai chưa tới tuổi lấy vợ này quả là phải chịu thiệt thòi khi có rất nhiều người chỉ được nhìn cô gái chị bạn trai mình từ xa chứ làm gì có chuyện được “ân ái” mà vẫn phải tưởng tượng ra mình đã “quan hệ” với cô gái nạn nhân để nhà chức trách lôi cổ bọn “người có đuôi” ấy đi xét nghiệm!
Bắt hết những chàng trai đã có quen biết (thân hay sơ cũng không thể nói trước sẽ như thế nào) với cô gái nạn nhận để lấy tinh trùng đi xét nghiệm là biện pháp duy nhất của đội Trọng án, cho nên khi không có kết quả gì thì vụ án đành phải “treo” lại đó vì đội trọng án còn phải tiếp nhận những vụ án khác quan trọng hơn nhiều. Đành phải để cho thủ phạm nhởn nhơ ngoài vòng pháp luật chứ biết làm sao bây giờ, chẳng lẽ lại bắt tất cả con trai, đàn ông ở Hà Nội trong thời điểm xảy ra án mạng đi lấy tinh trùng ra xét nghiệm?

Đúng một năm sau ngày xảy ra án mạng, tức ngày giỗ đầu của cô gái xấu số, tất cả những chàng trai đã bị lấy tinh trùng đem đi xét nghiệm, không hiểu sao đều cùng có mặt. Trong số đó, có gần chục chàng trai là sinh viên và giáo viên của trường Đại học Ngoại ngữ, đã tự nhận là mình rất yêu cô gái nạn nhân và chỉ còn chờ sự lựa chọn cuối cùng của cô gái mà thôi, dự tính là sẽ vào ngày nhận bằng tốt nghiệp Đại học. Cho nên gần chục người này đã tự nguyện đeo khăn tang trong ngày đám tang cô gái cách đây một năm và hôm ngày giỗ đầu, họ cũng đeo khăn tang trắng toát và khóc như mưa rào khiến cho tất cả mọi người có mặt một phen xúc động tột độ, không ai cầm được nước mắt! Sau buổi giỗ đầu đó, những người yêu cô gái đã thành lập một tổ điều tra đặc biệt gồm chín người với chín nghề nghiệp khác nhau và đều có trình độ tốt nghiệp Đại học trở lên, do một chàng Tiến sĩ trẻ tuổi làm tổ trưởng. Tổ điều tra đặc biệt này có nhiệm vụ lôi cổ thủ phạm ra trước vành móng ngựa để dưới suối vàng, cô gái - người yêu của chín người -, được yên giấc ngàn thu!

Tổ điều tra đặc biệt ngày nào cũng họp một lần tại nhà tổ trưởng vì ba lý do: 1/ dự một khóa bổ túc nghiệp vụ điều tra phá án do các chuyên gia hàng đầu trong ngành trực tiếp lên lớp; 2/ các tổ viên nói ra những suy nghĩ của mình để tổ trưởng tổng hợp lại, khớp nối những ý tưởng rời rạc lại xem có thể nảy sinh những đường hướng phá án mới hay không? Tóm lại là tận đụng tối đa chất xám của tất cả mọi người từ nhiều kiểu tư duy, của nhiều ngành khoa học khác nhau; 3/ cùng nhau hồi tưởng lại những ngày tháng tuổi trẻ đẹp tuyệt vời của cô gái nạn nhân, bởi cả chín người đã quyết không yêu ai nữa, quyết “ở vậy thờ người yêu” cho đến khi phá án thành công, tức lôi cổ thủ phạm ra trước vành móng ngựa!

Trong số chín người của tổ điều tra đặc biệt, thực ra chỉ có hai người là có quan hệ trên mức tình cảm thông thường với cô gái nạn nhân, đó là chàng Tiến sĩ Trẻ tuổi tức thầy giáo của cô gái nạn nhân tên là Giáo Sử và một người bạn cùng học với cô gái nạn nhân tên là Bằng Hữu. Giáo Sử thường nói với người học trò Bằng Hữu: “Nếu tất cả những người bạn bè, quen biết của nạn nhân đều không phải là thủ phạm thì thủ phạm nhất định là người ngoài xã hội và với cung cách gây án thì thủ phạm phải là một tên tội phạm chuyên nghiệp, vào loại cao thủ! Tôi đã nói với tổ trọng án điều này ngay từ đầu mà họ đâu có chịu nghe!”. Người học trò Bằng Hữu nói: “Nếu họ mà nghe thầy thì họ làm sao mà gom được nhiều đối tượng tình nghi như thế? Thủ phạm thực sự là cao thủ thì việc bắt được nó không hề đơn giản, trừ phi nạn nhân sống lại và dắt chúng ta đi bắt hung thủ!... Không hiểu sao, ngay sau đám tang Hàn Giang, em cứ luôn nằm mơ gặp cô ấy trong lúc hấp hối mà thật là kỳ lạ, cô ấy luôn nói mấy tiếng Hy Mã Lạp Sơn! ” (cách đọc theo âm chữ Hán- Nôm của dãy núi Hy-ma-lay-a). Ông thầy Giáo Sử nói chậm rãi, từng tiếng: “Hy Mã Lạp Sơn!.. .Đó là kỷ niệm của hai ông bà phụ mẫu nạn nhân về chuyến đi công cán ở dãy Hy Mã Lạp Sơn, mà sau đó một năm, hai người đã sinh người con thứ ba đặt tên là Hy Mã, hiện nay cậu ta đang du học nước ngoài. Nếu nạn nhân nói Hy Mã Lạp Sơn trước lúc chết thì có lẽ đó là do nhớ tới đứa em út đang ở xa?”. – “Không loại trừ khả năng đó, nhưng theo em, ta phải chú ý tới tất cả những đồ dùng của Hàn Giang được cha mẹ cô mua từ chuyến đi Hy Mã Lạp Sơn đó. Thầy có nhớ Hàn Giang thường mặc cái áo len có bộ nút áo rất đặc biệt không? Đó chính là cái áo len Casmia được cha mẹ cô mua từ chuyến đi Hy Mã Lạp Sơn về và đã bị mất cùng một số đồ khác hôm hung thủ gây án!” – “Tôi nhớ ra rồi, cái áo len Casmia có bộ nút áo rất đẹp, rất đặc biệt! Như thế là thủ phạm đã được thu hẹp đáng kể: kẻ đã từng có chiếc áo len với bộ nút áo đặc biệt!” – “Như thế công việc của chúng ta là phải đi tìm xem cái áo len Casmia có bộ nút áo đặc biệt đó hơn một năm qua đã từng ở đâu và hiện đang ở đâu?” – “Chính xác! Không ngờ cậu lại có tư duy rất chặt chẽ và lôgic như thế! Chúng ta sẽ ra lệnh cho toàn tổ đi truy tìm cái áo len Casmia có bộ nút áo đặc biệt!”.
Trở lại với nhân vật thủ phạm của vụ án. Quả đúng như hai thầy trò Giáo Sử và Bằng Hữu phỏng đoán, thủ phạm của vụ án tên là Phi Hành -, có biệt tài bay nhảy trên những nóc nhà cao tầng ,- là một tên trộm có đẳng cấp cao của giới “nhập nha” (chuyên ăn trộm bằng cách đột nhập vào những nhà giàu có, kín cổng cao tường). Đặc điểm hành nghề của loại trộm này chỉ đột nhập vào những nhà giàu và có những loại tài sản đặc biệt quý hiếm. Khu nhà biệt thự giành cho những cán bộ Ngoại giao đã nằm trong “kế hoạch” của Phi Hành từ lâu. Buổi sáng hôm đó, Phi Hành dự tính chỉ đi “điều nghiên” con mồi chứ chưa định đột nhập. Nhưng khi vừa vào căn nhà với danh nghĩa thợ sửa điện thoại, Phi Hành thấy chỉ có một mình cô gái Hàn Giang ở nhà thì nảy sinh lòng tà dâm. Phi Hành đã tấn công và cưỡng bức cô gái Hàn Giang đúng như suy luận của tổ trọng án. Bị chống cự quyết liệt, Phi Hành đã dùng chiếc gối đè lên mặt Hàn Giang cho đến ngạt thở rồi giở trò đồi bại. Thỏa mãn thú tính xong, Phi Hành lục lọi tủ đồ của nạn nhân, lấy đi một số đồ quý giá và đẹp mắt của Hàn Giang (tính về tặng cho người vợ mới cưới). Đáng lẽ Phi Hành mở khóa các phòng của gia đình ông An vơ vét thêm một số tài sản nhưng thực ra ngày hôm đó chưa phải là “ngày ăn trộm” theo “kế hoạch” nên Phi Hành không nổi máu tham tài sản mà lại nổi hứng “làm tình” với người đẹp, dù đã chết được năm phút! Lần “làm tình” thứ hai này Phi Hành đạt tới “đỉnh điểm” rất mạnh mẽ, khiến cho tinh trùng của hắn tràn trề trên người nạn nhân!... Đó là một trong những lý do tại sao tổ trọng án lại “phát điên” lên khi liên tục bắt những người bị tình nghi phải “xuất tinh” để đem tinh trùng đi xét nghiệm! Sau này, Tổ trưởng tổ trọng án thú thực là chính cái hình ảnh “tình dục quái gở” của vụ án đã khiến cho anh mất bình tĩnh mà giận sôi người lên, muốn nhanh chóng bắt ngay thủ phạm về mà băm nát cái “của nợ” của nó ra để rửa hận cho cô gái tội nghiệp!

Hai ngày sau, Phi Hành đảo qua căn nhà đã gây án và giật mình khi dò hỏi thì được biết công an đang tiến hành điều tra vụ án rất gắt gao và quyết bắt hung thủ bằng mọi giá! Kinh nghiệm đi trốn đã cho Phi Hành một nơi an toàn nhất: đó chính là nhà tù! Sau khi bảo vợ về quê (ở một tỉnh miền núi phía Bắc), Phi Hành làm một vụ ăn trộm ô tô và yên tâm nằm ngủ trong xà lim chờ cho sóng yên biển lặng!...
Thực ra, vụ án đã chính thức được “treo” sau một năm trời tổ trọng án vẫn chưa tìm ra manh mối gì. Đó cũng là lúc Tổ điều tra đặc biệt của thầy trò ông Giáo Sử và Bằng Hữu được thành lập. Lúc đầu, người ta bị kích động bởi cái chết thương tâm của cô gái, mà những người quyết “trả thù” cho cái chết của cô đều là những người đã yêu hoặc muốn được yêu cô! Song, khi bắt tay vào công việc điều tra thu thập chứng cứ, hầu như ai cũng bị vụ án thu hút bởi sự tự ái nghề nghiệp, sĩ diện cá nhân: Chẳng lẽ toàn những khuôn mặt sáng giá, những bộ óc kiệt xuất của thời đại @ lại thua một thằng ăn trộm bệnh hoạn! Thế là từ đó, hồ sơ về vụ án cứ ngày ngày được xếp cao thêm như núi! Và đến ngày giỗ thứ hai của cô gái xấu số thì tổ điều tra đặc biệt được tăng cường thêm quân số lên gấp đôi với lý do: Hung thủ sau khi gây án đã về ẩn náu ở một miền quê yên tĩnh nào đó, vì thế phải cho người đi khắp nơi truy tìm hung thủ!

Hai thầy trò ông Giáo Sử và Bằng Hữu cùng được cử về “truy tìm hung thủ” ở mấy tỉnh miền núi phỉa Bắc. Vốn thích đi chơi chợ vùng cao từ lâu nên khi vừa đặt chân tới xứ sở của những điệu khèn H’Mông, của những điệu múa ô đầy quyến rũ của những cô gái H’Mông xinh đẹp, hai thầy trò Giáo Sử và Bằng Hữu đã mất hút trong phiên chợ tình sôi động!

Sau một ngày một đêm lặn ngụp trong chợ tình vùng cao, hai thầy trò Giáo Sử và Bằng Hữu đang thả bộ trên con đường rợp bóng cây đào, cây mận thì một chàng trai H’Mông đi tới sát bên và nói: “Chúng mày có mua bộ nút áo này không, tao bán rẻ cho!”. Hai thầy trò Giáo Sử và Bằng Hữu dừng lại, nhìn người thanh niên H’Mông mở cái hộp nhỏ ra thì cả hai đều tròn mắt kinh ngạc khi trong cái hộp nhỏ trên tay người thanh niên H’Mông là bộ nút áo chiếc áo len Casmia!

Sau khi nhận tiền bán bộ nút áo, người thanh niên H’Mông thổi một điệu khèn. Tiếng khèn vừa vang lên, một cô gái H’Mông xuất hiện, tiến lại gần chàng trai và cất tiếng hát da diết:

“Anh ơi! / Chim khuyên có gọi mùa, mùa mới về / Chim khuyên có gọi năm, năm mới tới / Tháng Giêng là mùa ra sấm mới / Con chim khuyên khôn, hãy đến hót ở đỉnh đồi nhà em/ Em ở đây - cách xa chín ngọn núi / Em ở đây - cách xa tầm chim bay / Anh có thương thì hãy làm cây ký zàng (loài chim báo mùa hạ tới) / Hãy cùng em đi qua mùa Lấu chua (loài chim báo mùa thu tới, mùa lúa chín) / Anh có yêu hãy đến đón em về…”.
Sài Gòn, tháng 4-2010
Đỗ Ngọc Thạch

Những đôi trai gái múa khèn trong lễ Tết
Ngày Tết H'mông

Thế là Mợ nó đi Tây! - Đỗ Ngọc Thạch

t r u y ệ n   n g ắ n   t r u y ệ n   n gắ n   t r u y ệ n   n g ắ n
 




http://colien.vn/images/shop/bichchautvt/thumbs/bichchautvt_1315365396.jpg
Truyện ngắn ĐỖ NGỌC THẠCH

THẾ LÀ MỢ NÓ ĐI TÂY !...

Dân gian còn lưu truyền mãi câu ca : “Trai Đinh Nhâm Quý thì tài – Gái Đinh Nhâm Quý thì hai lần đò” – Câu này hẳn là do dân tử vị tướng số đặt ra. Mặc dù đã có lúc rất mê tử vi tướng số (vì số phận quá gian truân), tôi xin “tuyên bố” rằng câu đó thật là vu vơ và xin khẳng định rằng cái sự “hai lần đò” kia là không hề chừa một ai, bất cứ tuổi gì ! Sau bài phóng sự “Lỡ thì con gái” viết về đối tượng muộn chồng (đã đăng trên báo Lao động – Xã hội), các bà các chị thuộc nhóm đối tượng “Hai lần đò” cười mà nói với tôi rằng : “Chuyện của các chị mới là trọng điểm của vấn đề hôn nhân và gia đình, sao chú không viết ? Nói về mức độ ly kỳ, gay cấn thì bằng vạn lần cái chuyện ế chồng , lỡ thì như chú đã viết. Nếu cần có thêm “tư liệu thực tế”, các chị sẽ cung cấp cho”. Chính vì vậy mà mới có “thiên truyện ký” về những người “hai lần đò” này !
Trong xã hội ta phổ biến quan niệm cho rằng người chồng là trụ cột gia đình cả về chính trị, kinh tế, văn hóa…Thế nhưng lại tồn tại một truyền thống rất đáng nể của giới nữ nhi là không ít người vợ lại đóng vai trò “kinh bang tế thế” quyết định sự sống còn của gia đình . Bà vợ của nhà thơ lớn dân tộc Tú Xương chẳng đã “Quanh năm buôn bán ở mom sông – nuôi đủ năm con với một chồng” đó sao ? Đó chỉ là một điển hình nổi tiếng , còn trong đời sống xã hội, không thiếu gì những trường hợp tương tự. Cái “Truyện ký xã hội” này chỉ chọn những “nhân vật điển hình trong hoàn cảnh điển hình” và phải thể hiện trong một khuôn khổ “đất đai” hạn hẹp nên quả là cực khó !
Nhóm đối tượng thu hút sự quan tâm của người viết nhất là những chị em xuất ngoại “tìm đường cứu…gia đình”. Với truyền thống “giặc đến nhà đàn bà phải đánh” – đây là giặc đói đang tấn công từng ngày – rất nhiều người vợ đã ra đi tìm đường cứu đói ! Ấy cũng là lúc Nhà nước cho “xuất khẩu lao động” hàng loạt sang các nước Đông Âu và Liên Xô cũ, sau này là các nước châu Á và rồi sẽ là châu Phi, châu Mỹ latin, châu Đại dương…Dường như là cái từ “xuất ngoại’ đối với dân xứ ta nó có một ma lực cám dỗ kỳ lạ, mặc dù chưa hề biết cái nước mình sẽ đến nó “mặt ngang mũi dọc” như thế nào nhưng người ta vẫn hăm hở bước tới với hy vọng sẽ kiếm được nhiều tiền! Mặt khác, tâm lý chung của người dân xứ nghèo là ở đâu cũng sẽ là “Thiên đường” nên chỉ cần “một phần ngàn tia hi vọng” là đủ để hy vọng xây mộng tương lai!.... “Vận nhà” đã tới, chị em náo nức ra đi chẳng kém phần khí thế như đấng nam nhi ! Có không ít chị em đã phải “dứt ruột” ra đi để lại cho chồng những đứa con còn đang tuổi bú mớm vì không thể bỏ lỡ thời cơ – thời cơ chỉ đến có một lần ! Những ông chồng đã tình nguyện ở nhà làm “nhũ mẫu” với một niềm tin mạnh mẽ như niềm tin vào sự thành công tất yếu. Tuy thế, những lúc con thơ đã yên giấc,“ông nhũ mẫu” không khỏi buồn tủi mà than rằng : “Thế là mợ nó đi Tây !” .
Phải nói rằng suốt thập kỷ 80 và sang cả mấy năm đầu thập kỷ 90, việc chị em ra đi “làm kinh tế” này là một “cao trào xóa đói giảm nghèo” có “ý nghĩa xã hội” rất lớn . Phải thừa nhận đây là một “hiện tượng lịch sử” đã tác động mạnh đến đời sống xã hội…
Những hợp đồng lao động ở nước ngoài mà chị em thực hiện thường là bốn năm. Với những người vợ có tướng “vượng phu ích tử”, giỏi làm ăn, lo tích cóp thì gia đình sẽ đoàn tụ sau khi hết hợp đồng (sự “đoàn tụ” này như thế nào thực ra không hề đơn giản sau những năm tháng dài…li thân”!). Nhưng với những chị em có “máu làm ăn” thì việc “làm kinh tế” ở bên trời Tây là không thể có giới hạn về thời gian. Cũng giống như “con bạc khát nước”, những thùng hàng gởi về nước nhiều khi như muối bỏ biển nên đòi hỏi phải có sự tiếp tục, nhiều khi lại kích thích “máu làm ăn” với tâm lý “càng nhiều càng ít” ! Thế là ký hợp đồng gia hạn hoặc với số chị em vào loại “cao thủ” thì bỏ hợp đồng ra ngoài mà “chiến đấu” ở thị trường tự do (những chị em này thường rất tự tin, có bản lĩnh và thường nói rằng họ - tức người nước ngoài nơi chị em làm ăn – rất “tẩm”, rất ngù ngờ ! Tuy nhiên, cũng không tránh khỏi thở dài xót của khi kể lại những lần bị bọn “mafia” trấn lột mất hàng chục “tờ”!). Những người này, hầu hết đã xây nhà lầu, có người không chỉ một nhà mà hai nhà, thậm chí có chị còn mua cả núi đồi của các vùng sâu, vùng xa ở cả quê nhà và ở cả vùng Tây Nguyên xa xôi !...
Chị N.T.H, tuổi thuộc “U 40”, sau khi xây nhà cho chồng và hai đứa con đàng hoàng, vừa li hôn xong đã xây ngay một nhà lầu mới trên miếng đất 500 mét vuông với đầy đủ tiện nghi tương đương khách sạn “ba sao” và ngày ngày đến Trung tâm mỹ viện để tập thể dục Aerobics…Với chị H, hai chữ “kiếm sống” đã bị gạt ra ngoài “từ điển cuộc đời” mà vấn đề cốt tử bây giờ là kiếm chồng !
- Tiêu chuẩn của chị cao quá hay sao mà chưa ai lọt mắt xanh ? – Tôi hỏi.
- Tôi đâu có làm cao, nhưng cũng không thể “nhắm mắt đưa chân” được ! Phải tính kỹ, vì đây là cơ hội cuối cùng…Vả lại tuy hơn bốn mươi nhưng tôi đâu có thua kém các hoa khôi về hình thức ? Người chồng mới của tôi dứt khoát không thể là loại đui què mẻ sứt, càng không thể là dạng khố rách áo ôm ! Mà phải là người có học, có hình dáng sáng sủa, lịch sự, đàng hoàng tư thế để tôi không xấu hổ với chồng cũ và xã hội…- Chị H nói một mạch, như chưa muốn dứt.
- Ý chị muốn chọn “môđen” giám đốc công ty, complê bảnh bao, đi giày Italia, tay xách cặp Samsonite !...
- Xì !...Tôi “bỏ túi” các vị ấy ! Với tôi, dân doanh nghiệp không có ấn tượng, không có “cảm hứng”…Vả lại, các vị ấy lại tít mắt với các em người mẫu chân dài cơ !...
- Hay là giáo sư, bác sĩ, nhà báo, quan chức…
- Thú thực, tôi cũng đã từng mơ đối tượng ấy vì thằng chồng cũ của tôi thất học, nó chỉ là cu li, nay tuy là ông chủ một cái xe tải hạng trung nhưng thực chất chỉ là thằng “cửu vạn” !...
- Vậy tại sao chị không tiếp tục mơ đối tượng có danh giá ấy ?
- Tôi bị dính một “quả lừa” nên tôi cạch !
- “Cao thủ” như chị mà cũng bị lừa à ?
- Ấy là tại cái bà cô tôi làm mối. Bà ta nói ông ta là giáo sư 50 tuổi rồi mà chưa hề biết yêu vì mải mê đèn sách, tuổi xuân bay qua lúc nào không hay. Nhìn cũng sáng sủa bạch mã. Nhưng khi tôi chuẩn bị đồng ý cưới thì mới phát hiện ra rằng ông ta chỉ dạy mấy đứa trẻ con thò lò mũi chứ giáo sư giáo xiếc gì !
- Trời ơi !...Chị hiểu lầm rồi. Giáo sư bây giờ không nhất thiết phải giảng dạy trên giảng đường đại học cao sang mà dạy cả con nít. Đó là những lớp thực nghiệm dạy theo phương pháp mới, rất khó nên phải cần đến những giáo sư giỏi có bằng cấp tiến sĩ !
- Thôi, anh đừng có dạy khôn tôi ! Dạy mấy đứa ranh con, thế thì tôi dạy cũng được. Tôi chỉ cần lừ mắt là chúng nó một phép và học như điên…! Với lại cái ông giáo sư này nhiều lúc cứ như là tâm thần, thấy một con chó bị cán chết ngoài đường mà lại sụt sùi khóc ! Còn nói chuyện với tôi thì cứ vòng vo Tam Quốc, dùng toàn những từ ngữ rắc rối như “về vấn đề này”, “nhìn theo quan điểm triết học thì”, “còn theo đường lối chính trị thì”…Ôi, sốt cả ruột ! Nhân tiện nói anh nghe cho vui, lúc ông ta hôn tôi, tôi chỉ muốn ông ta mạnh mẽ hơn nữa thì ông ta bỗng nghệt ra như người bị mất sổ gạo thời bao cấp !...
- Chị kỳ quá !...Người ta sống “nội tâm” thì nó thế!...Hay là chị quen cái “gu” hùng hục như trâu húc mả của chồng cũ?
- Thôi, không nói chuyện này nữa…Nhưng tôi muốn người chồng của tôi “nội lực” phải mạnh mẽ và “tính cách” thì phải nhẹ nhàng, đối với tôi phải “nâng như nâng trứng , hứng như hứng hoa”!...Nói chung là phải “rất đàn ông” nhưng…
- Thôi, tôi hiểu rồi, mẫu người của chị là “một nửa là đàn ông, một nửa là đàn bà”, đúng không?
- À, đúng…Ờ, không hẳn như thế…Ôi, tôi khó diễn đạt ý nghĩ của mình quá!...Nhưng nói chung là tôi phải duyệt từng lời ăn, tiếng nói, từng cử chỉ, động tác!...
- Ôi, vậy thì đến Tết chị mới kiếm được người như chị muốn!
- Năm nay tôi sẽ tìm được!...- chi H nói giọng quả quyết nhưng lại như là đang nén một hơi thở dài!...
…Đã hai cái Tết trôi qua, lần này tôi trở lại nhà chị H để xem kết quả “kiếm chồng” của chị thế nào thì gặp chị cùng hơn chục người bạn cùng cảnh ngộ đang ngồi “tính chuyện chồng con” với nhau! Mới có hai năm trôi qua mà nhìn chị đã già ði rất nhanh dù chị vẫn tập Aerobics ðều ðặn và chãm ði mỹ viện nhý ði chợ! Chị thở dài nói:
- Quả là “kiếm chồng” khó hơn kiếm tiền rất nhiều!
- Thế bây giờ chị tính sao? Chịu thua số phận à?
- Tôi đã suy nghĩ kỹ rồi, không thể vội vàng, hấp tấp theo kiểu nhắm mắt đưa chân được. Những cái gì đến thì tự nó sẽ đến, không cần đùn đẩy, lôi kéo!... – chị H nhấp li cà phê một cách chậm rãi, làm cho khuôn mặt có nhiều dấu hiệu của tuổi già tăng thêm vẻ bình thản.
- Ý chị là cứ để cuộc sống nó vận động theo qui luật của tự nhiên? Vừa đúng, vừa sai. Đúng là vì chúng ta không thể làm trái với qui luật của tự nhiên, sai là nếu không làm chủ được vận mệnh của mình thì chẳng khác gì sống kiếp nô lệ! – Tôi lý sự và cảm thấy như không phải là suy nghĩ của mình!
Quả nhiên chị H dường như chỉ nghe thoáng qua và như là đang theo đuổi một ý nghĩ nào đó? Và như sực nhớ ra điều gì, chị nói với tôi:
- Không biết có một triết gia nào đó có nói: mình muốn điều gì tốt đẹp thì trước hết hãy trao cho người bạn của mình! Tôi có một người bạn cực kỳ thông minh, đảm đang, vừa có địa vị xã hội đáng nể lại vừa mặn mà , quyến rũ, dù đã hai đời chồng. Chị ta mới ở Phi châu về được một năm, muốn tìm loại đàn ông đứng tuổi như anh, nếu anh chịu thì tôi sẽ làm “ông Tơ bà Nguyệt”!... - Chị H chưa dứt lời thì có tiếng chuông điện thoại. Chị nhấn số nghe máy, rồi nói tiếp – Thiêng thật! Vừa nói tới Tào Tháo là Tào Tháo xuất hiện! …
Chị H ra mở cổng, chỉ hai, ba phút sau dắt vào một người phụ nữ gần đúng như chị vừa mô tả. Cùng đi với người phụ nữ này là hai đứa bé gái khoảng từ năm đến mười tuổi. Đứa lớn nói giọng xứ Nghệ 100%, còn đứa nhỏ thì từ màu da đến dung mạo 90% là châu Phi đen, còn tiếng nói thì lơ lớ như kiểu nói tiếng Việt không có dấu! Nhìn hai đứa bé đang chơi với nhau tôi vụt nghĩ: “Ở trường học thì hiện tượng nhiều màu da có thể chấp nhận được, nhưng ở trong một gia đình thì sẽ có nhiều vấn đề phức tạp nảy sinh!” …Tuy thế, sự mai mối của chị H quả là như thần tiên biến hóa, chỉ sau một tháng làm quen, ngày cưới của tôi và người phụ nữ hai con kia đã được xác định và sẽ thành hiện thực nếu không có sự kiện: chỉ cách ngày cưới có hai ngày thì bố của đứa bé da màu đột ngột xuất hiện trên tivi với cương vị cầu thủ tiền đạo của một đội bóng đá của một tỉnh miền Nam!...
Với tính cách mạnh mẽ không chịu thua cuộc dù với bất kỳ lý do gì, chị H quyết mai mối bằng được mới chịu. Một ngày sau khi biết đích xác anh chàng cầu thủ bóng đá da đen đã gặp lại con gái và muốn “làm lại từ đầu” với người mẹ, chị H dẫn tôi đến nhà một siêu người mẫu chân dài với số đo ba vòng rất chuẩn (91-61-92) với lời giới thiệu trước: “Cô gái này mới hơn ba chục tuổi nhưng cuộc đời đầy biến động rất hợp với “chất tiểu thuyết” mà anh ưa thích: 12 tuổi đã bị mất trinh, phải đi múa hát ở phòng trà để kiếm sống, tự thân vân động trở thành siêu người mẫu đắt giá rồi cưới một đại gia kiêm quan chức, tưởng rằng sẽ yên thân ai ngờ vị đại gia-quan chức nay thô bạo hơn cà dân đâm chém, khi biết vợ đã mất trinh từ năm 12 tuổi thì hành hạ, đánh đập vợ toàn bằng chiêu thức của võ sĩ quyền anh!...” Chỉ nghe kể tôi đã bị thuyết phục năm phần và khi tiếp xúc thì bị hút hồn cả mười phần bởi cặp chân dài miên man, bởi cả ba vòng đều bốc lửa! Song, đúng vào lúc chúng tôi dắt nhau đi đăng ký kết hôn thì có hai “công an chìm” đến vỗ vai tôi nói: “Chỗ đó không phải “cánh đồng hoang”, Sếp chúng tôi chưa bỏ hẳn đâu!”. Tôi đem chuyện này nói với chị H, chị nói: “Tránh voi chẳng xấu mặt nào! Chúng ta không phải đối thủ của “Xã hội đen”, chúng ta chỉ đấu với những đối thủ quang minh chính đại! Rung chiêng thu quân!” Sau vụ đó, chị H lại cay cú, tính dẫn tôi đến một bà đã từng là ngôi sao điện ảnh thời trẻ, đã qua ba đời chồng nhưng thời gian làm vợ rất ngắn, các số đo cũng đạt chuẩn, giờ chuyên đóng vai người mẹ, bà già… nhưng điều quan trọng là có ông bố làm quan cực lớn, giới “giang hồ” chỉ nghe đến tên đã “vãi linh hồn”! Tới lần này, tôi chỉ nói: “Tùy chị sắp xếp!” và yên tâm ngồi chờ ! Chờ đến ba tuần thì chị H gọi điện, chưa nói gì đã phá lên cười muốn vỡ máy, cười đến gần 5 phút mới nói được nhưng hình như máy điện thoại của tôi bị nhiễu nên chỉ nghe rõ mấy tiếng “…ung thư giai đoạn cuối!”…
Thoạt nhìn, người ta cứ tưởng chuyện “tái giá” đơn giản, chỉ đạt được một số “tiêu chuẩn” là xong ! Nhưng nếu đi sâu vào “tận nơi sâu thẳm” con tim, mới thấy rằng chuyện “đi bước nữa” này lại phải có xuất phát điểm từ… tình yêu ! Thì ra, sau bao nhiêu năm lăn lộn “chiến đấu” nơi đất khách quê người để kiếm tiền, hai chữ “Tình yêu” trong các chị đã tìm một chỗ sâu kín nhất trong tim để ngủ ! Và bây giờ khi tiền của đã đầy đủ, tình yêu bỗng thức dậy, mà lại thức dậy trong hoàn cảnh bất bình thường !...
T.M.T.K là người đạt được cả tiền của và danh vọng, dĩ nhiên cái gia đình cũ đã tan vỡ, bất khả kháng! Sau 5 năm “chiến đấu” ở nước ngoài, chị trở về với cái bằng Tiến sĩ và hai cái nhà lầu, một cái nhà làm khách sạn mini cho thuê, một cái chị ở với cô con gái cũng chớm tuổi yêu đương. Người chồng cũ vốn là một giáo sư nghèo cũng là thầy giáo của chị . Chị lấy ông thầy khi đang làm luận án tốt nghiệp. Lấy ông thầy trong “cái thế học trò” chứ đâu có tình yêu ! Vì thế, khi đã ra trường và có nơi làm việc ổn định, chị đã thầm “nuôi ý định li hôn” sau cái lần bắt quả tang chồng mình có “chuyện” với một cô sinh viên (như là với chị trước đây) ! Vì thế, trước khi xuất ngoại, chị đã để lại toàn bộ gia tài cùng cái đơn li hôn ! Chị quyết làm lại từ đầu bằng hai bàn tay trắng !...Bạn bè, xúm vào mối mai, vì thế chỉ sau một tháng, T.K cưới một ông chồng cũng đã một đời vợ, hơi nghèo nhưng bù lại ông này có bằng cấp cao hơn và đang là một nhà phê bình khoa học có tiếng!...Nhưng chỉ sau cũng đúng một tháng, T.K đưa đơn ly hôn vì ông chồng này mắc chứng “bệnh nghề nghiệp”: tranh luận trên diễn đàn báo chí chưa “đã”, ông đem về đổ tới tấp vào tai vợ, tai vợ đầy tràn tức thì trả lại ông, thế là ngày ngày “phản biện” nhau hoài, riết T.K không chịu nổi!...Sau đó T.K đăng ký tham gia một “Câu lạc bộ kết bạn”, chưa rõ kết quả thế nào?
T.T.L là một gái quê trăm phần trăm, dù bây giờ đã là bà giám đốc một công ty TNHH, những dáng nét “hương đồng gió nội” vẫn như là còn nguyên. L lấy chồng khi mới mười bảy tuổi. Khi ấy chồng L là chủ tịch xã cho nên L về nhà chồng theo đúng kiểu thời xưa : giao cả sinh mạng cho chồng và chỉ biết làm nội trợ và…đẻ ! Khi chức chủ tịch xã của chồng còn đang thịnh, L tích cực thái quá, đẻ cho chồng những 5 đứa con mà là con gái cả, tức “ngũ long công chúa”. Đúng là “quan nhất thời, dân vạn đại”, đúng lúc chồng L chuẩn bị lên chức phó chủ tịch huyện (một huyện ngoại thành) thì dính phốt và rớt xuống chức “phó thường dân”. Gia cảnh lâm vào tình thế chạy ăn từng bữa nhưng người chồng tỏ ra bất lực, thúc thủ ,bó gối suốt ngày ngồi hút thuốc lào vặt ! Đúng lúc ấy, L đã ra tìm đường cứu gia đình ! Không có ai có thể ngờ một cô gái quê nhút nhát, kém văn hóa như L lại có thể trở thành một bà chủ một Shop rất lớn tận bên đất Tây !
Nhưng trong quá trình làm ăn ấy, L đã gần gũi và nảy nở tình yêu với chính người em út của chồng mình lúc đó cũng là một “cao thủ” trong giới làm ăn ở bên trời Tây ! L yêu em chồng nhưng không bỏ rơi chồng con mà đã gửi tiền về xây nhà lầu và chu cấp đầy đủ mọi thứ ! L dự tính sẽ li hôn và cùng người tình ở lại luôn, tức sẽ trở thành “Việt kiều”. Nhưng được ba năm, khi đã có một đứa con trai kháu khỉnh với chồng mới, tức em chồng cũ, L bỗng nhớ năm đứa con gái của mình và cũng thương cảm chồng cũ, bèn kéo cả về nước…
Khi tôi đến công ty TNHH tìm gặp bà giám đốc thì chỉ gặp ông phó giám đốc, tức chồng mới của bà L tức em út của ông chồng cũ. Ông phó giám đốc vui vẻ nói về công việc làm ăn phát đạt và tài điều khiển kinh doanh cũng như gia đình của bà giám đốc L.
- Đó thật là một người phụ nữ tuyệt vời…Khi mới “dính” vào chuyện yêu đương với bà chị dâu, tôi cứ nghĩ rồi sẽ rối mù cả lên, rồi sẽ ghen tuông, đau khổ, gia đình anh tôi sẽ tan nát…Nhưng không, bây giờ mỗi tuần bà giám đốc của tôi ở ngoài này điều khiển công ty 3 ngày, về nhà với chồng cũ và năm cô con gái 3 ngày. Còn một ngày thì là “khoảng trời riêng” của bà giám ðốc…
- Tức là bà giám đốc lại có tình yêu mới ?
- Đâu phải ! Ngày ấy, bà giám đốc đến ở trong một khách sạn mini của bà để viết hồi ký !
- Trời đất…Bà ấy chưa học hết lớp 4 mà cũng đòi viết văn ?
- Chứ sao ! Hôm nay anh ở lại đây uống bia với tôi, rồi tôi sẽ giới thiệu với anh một người quen của tôi từ hồi bên kia. Người này cũng giỏi như vợ của chúng tôi vậy…
- Tức là Nàng cũng giống như …?
- Không , không . Mỗi người một khác chứ. Nàng xấp xỉ tuổi anh có cái vila trên mảnh đất 500 mét vuông rất đẹp, đạt tiêu chuẩn ba sao, tiền tiêu xài đến hai, ba đời mới hết. Về hình thức thì không thua các người mẫu thời trang mà báo chí các anh cứ ca ngợi om sòm. Nếu muốn gặp ngay thì để tôi “phôn” là nàng tới liền !
Sau cú “phôn” khoảng mười lăm phút, nàng xuất hiện. Tôi giật mình vì đó chính là N.T.H người đã từng mai mối bất thành cho tôi mà tôi đã kể ở trên ! Vừa nhìn thấy tôi, Nàng nói :
- Đúng là quả đất tròn !...Ông mối này mát tay lắm nghe, thế mà bao nhiêu lần gặp tôi, sao anh không nói chữ…yêu!.
Hà Nội, 1993 – Sài Gòn, 2009
Đỗ Ngọc Thạch
http://quocphonganninh.edu.vn/Pictures/Gallery/Lichsuvn/mig21.jpg
© tác giả giữ bản quyền.
. Đăng tải theo nguyên bản của tác giả gởi từ Sài Gòn ngày 28.10.2009.
. Trích đăng lại vui lòng ghi rõ nguồn Newvietart.com.

Phê bình văn học - Một cơ chế đặc thù của văn hóa - Đỗ Ngọc Thạch

http://phongdiep.net/images/chandung/thu%20vien/do%20ngoc%20thach.jpg

Lý luận phê bình văn học

Đỗ Ngọc Thạch
Phê bình văn học - Một cơ chế đặc thù của văn hóa
Tất cả những biểu hiện của hoạt động thẩm mỹ của con người mà chúng ta
quen nói nôm na là “đời sống văn hóa- văn nghệ”  được bộ môn lý luận
văn hóa  xác định trong một cấu trúc tổng thể theo một hệ thống với
khái niệm văn hóa nghệ thuật – là một hệ thống, một thể thống nhất khép
kín. Trong  hệ thống văn hóa nghệ thuật đó, có nhiều hệ thống phụ, hệ
thông con, thể hiện cơ chế hoạt động của những lĩnh vực khác nhau của
đời sống thẩm mỹ. Một trong những hệ thống phụ đó của văn hóa nghệ
thuật là bộ môn phê bình nghệ thuật.  Các hệ thống phụ trong cấu trúc của văn hóa nghệ thuật đều vận hành theo những quy luật đặc thù, có cơ chế hoạt  động riêng nhưng đều có mối
quan hệ qua lại hữu cơ với nhau. Nếu chỉ nhìn vào qui luật đặc thù thì
dễ dẫn đến những quan niệm cực đoan, phiến diện. Nếu bị những biểu hiện
của mối quan hệ qua lại chồng chéo che lấp thì sẽ không nhìn rõ đặc
trưng loại biệt của từng đối tượng quan sát. Vì thế, dưới đây chúng ta
sẽ quan sát cơ chế hoạt động của một quá trình hoạt động nghệ thuật,
trong đó sẽ làm nổi rõ bộ môn phê bình nảy sinh từ đâu, nó có chức năng
gì, tác động như thế nào vào quá trình này?
1.   Hình thái đầu tiên, công đoạn đầu tiên của một quá trình hoạt đông
nghệ thuật là sản xuất nghệ thuật (theo chữ dùng của C.Mac). Trong cơ
chế sản xuất nghệ thuật hiện đại , bên cạnh “nhân vật chính” là nhà
sáng tác còn có một “công cụ sản xuất” rất quan trọng là nhà biên tập.
Nhiệm vụ lớn nhất của họ là thẩm định, đánh giá trước nhất tác phẩm
nghệ thuật, giúp nhà sáng tác hoàn chỉnh tác phẩm  trước khi nó được ra
mắt công chúng với tư cách là một tác phẩm nghệ thuật hoàn chỉnh. Trước
đây, người ta ít chú ý đến bàn tay của nhà biên tập, dấu ấn lao động
nghệ thuật của họ trong việc cho ra đời một tác phẩm nghệ thuật. Phải
nói rằng quá trình làm việc giữa nhà biên tập và nhà sáng tác diễn ra
khá công phu và  đó chính là một biểu hiện của hoạt động phê bình nghệ
thuật. Hoạt động phê bình ở “khâu yếu” này như thế nào, đến nay vẫn còn
là “chuyện hậu trường”,chưa được chú ý nghiên cứu. Tuy vậy, cũng có thể
nhận xét sơ bộ rằng, hoạt động phê bình đã có nhu cầu nảy sinh, nhu cầu
tồn tại ngay từ khi tác phẩm nghệ thuật chuẩn bị ra đời, thậm chí nó
còn thai nghén trong ý đồ sáng tác của nhà sáng tác. ở khía cạnh khác
có thể nói, đây chính  là cơ sở nảy sinh của kiểu phê bình tình cảm -
cá tính sáng tạo, chủ yếu dựa vào công việc bếp núc của nhà sáng tác mà
nhà phê bình (hình thành từ trong đội ngũ nhà biên tập) nắm bắt tường
tận. Những nhà phê bình này thiên về lý giải, phân tích tác phẩm trong
quá trình “mang nặng đẻ đau” của nhà sáng tác, chú ý nhiều đến cuộc đời
của nhà sáng tác và cố tìm mối quan hệ giữa tác phẩm và chính cuộc đời
của nhà sáng tác. Kiểu phê bình này thường là tạo ra được những chân
dung sinh động về nhà sáng tác hơn là sự “mổ xẻ” lạnh lùng  và khách
quan tác phẩm của nhà sáng tác.
2. Tác phẩm nghệ thuật ra đời, nó tồn tại trong đời sống thẩm mỹ với tư
cách là một vật thể mang giá trị nghệ thuật. Giá trị này được quyết
định bởi  nội dung tinh thần của nó và   phẩm chất của hình thức mang
giá trị đó. Đồng thời nó cũng được qui định bởi tính chất của những nhu
cầu xã hội và bởi  mức độ đáp ứng của tác phẩm đối với những nhu cầu
ấy. Nói cách khác, giá trị nghệ thuật này tùy thuộc vào lý tưởng thẩm
mỹ của thời đại (hệ tư tưởng chính thống của hoàn cảnh lịch sử - xã hội
mà tác phẩm nghệ thuật ra đời). Vì thế, nó mang tính cụ thể - lịch sử
và đương nhiên biến đổi theo biến động lịch sử - xã hội. Thước đo giá
trị của tác phẩm nghệ thuật này nằm trong lý tưởng thẩm mỹ của thời
đại. Thước đo này là “công cụ thẩm mỹ” đặc biệt nhằm đánh giá giá trị
tác phẩm nghệ thuật. Như vậy là, từ trong bản thân tính chất của tác
phẩm nghệ thuật đã nảy sinh nhu cầu tất yếu đánh giá giá trị tác phẩm
nghệ thuật: đó là hoạt động  phê bình nghệ thuật. Như thế, nhà phê bình
nghệ thuật chính là “công cụ thẩm mỹ” đặc biệt để một lần nữa xác định
giá trị tác phẩm nghệ thuật khi nó tồn tại trong đời sống thẩm mỹ với
tư cách là một vật thể mang giá trị nghệ thuật. Giá trị tự thân của tác
phẩm nghệ thuật và sự đánh giá của nhà phê bình có trùng khớp hay
không, đó là một công việc lớn cùa phê bình nghệ thuật.
Sự đánh giá này của hoạt động phê bình nghệ thuât mang tính chất tổng
quát và nó thể hiện lý tưởng thẩm mỹ của thời đại, nhà phê bình nhân
danh người phát ngôn cho tư tưởng  thẩm mỹ của thời đại. Vì thế người
ta thương nói đó là sự đánh giá có tính chất triết học, hoăc  triết mỹ.
Đây chính là cơ sở nảy sinh kiểu phê bình triết hoc, có từ lâu với cách
gọi “Phê bình triêt học truyền thống” (hoặc còn gọi phê bình là “mỹ học
vận động”) do V.G.Biêlinxki sáng lập ở Nga. Kiểu phê bình này thường
nhìn tác phẩm dưới con mắt triết mỹ,chú ý nhiều tới việc  tìm ra sự phù
hợp giữa tác phẩm và  thời đại với sự tồn tại của giá trị tư tưởng và
giá trị thẩm mỹ (thực ra không thể tách bạch ra như thế!). Và như trên
đã nói, giá trị này tùy thuộc vào lý tưởng thẩm mỹ của thời đại, cho
nên nó chỉ chấp nhận những tác phẩm nào “hợp gu”, hợp “khẩu vị” với nó
và đương nhiên, nó gạt ra ngoài những tác phẩm nào vượt quá “khuôn
phép” mà nó – cái lý tưởng thẩm mỹ của thời đại – ngầm qui ước! Vì thế,
khi thời đại có biến đổi, các tác phẩm có sự “đảo lộn” giá trị vì có sự
“đảo lộn các thang giá trị”!...
Như C. Mác nói  “Tác phẩm nghệ thuật  - và mọi sản phẩm khác cũng thế -
đều tạo ra một thứ công chúng sính nghệ thuật  và có khả năng thưởng
thức cái đẹp”. (C. Mác: Về văn học và nghệ thuật -  Nxb Sự thật. H.1997
,tr.96). Công chúng nghệ thuật là nhóm người có trình độ cảm thụ những
tác phẩm nghệ thuật. Việc hình thành công chúng nghệ thuật, từ tự phát
đến tự giác, từ giáo dục nghệ thuật đến giáo dục thẩm mỹ. ở một nền
văn  hóa nghệ thuật phát triển cao, việc giáo dục nghệ thuật cũng như
giáo dục thẩm mỹ (giáo dục nghệ thuật là một bộ phận hợp thành của hệ
thống giáo dục thẩm mỹ) được chú trọng thì công chúng nghệ thuật càng
phát triển, nâng cao. Công chúng ấy có nhạy cảm về nghệ thuật, am hiểu
nghệ thuật, tức là có kiến thức về nghệ thuật mới có khả năng thưởng
thức nghệ thuật, họ tiếp nhận được giá trị của tác phẩm nghệ thuật. Mà
giá trị của tác phẩm nghệ thuật luôn luôn biến đổi và đa nghĩa, lại
được “mã hóa” bằng cấu trúc nghệ thuật phức tạp, ngôn ngữ nghệ thuật
đặc thù, v.v… Việc tiếp nhận giá trị của tác phẩm nghệ thuật đối với
công chúng không dễ dàng gì. Tác phẩm nghệ thuật như là có “lớp vỏ” đặc
biệt bao bọc . Vì thế,có thể nói, chính nhu cầu cảm thụ nghệ thuật của
công chúng đã làm nảy sinh nhu cầu giáo dục nghệ thuật một cách chủ
động cho công chúng, nhu cầu  “giải mã” tác phẩm để cho công chúng tiếp
nhận hết giá trị của tác phẩm. Điều này nảy sinh tất yếu bộ môn phê
bình nghệ thuật: gồm những nhà phê bình có trình độ, kiến thức nghệ
thuật cao làm “phiên dịch”, “môi giới” giữa  công chúng với tác phẩm.
Đây cũng chính là cơ sở của kiểu phê bình chủ yếu dựa vào văn bản cấu
trúc của tác phẩm nghệ thuật. Kiểu phê bình này tập trung  vào việc
phát hiện những cái “ẩn tàng” , “ẩn ngôn” , “ý tại ngôn ngoại” trong
những cấu trúc “ đa tầng”, “đa nghĩa”, “ đa thanh” của tác phẩm nghệ
thuật.
3.
Mặt khác, xét ở giác độ tâm lý tiếp nhận, hoạt động cảm thụ của công
chúng đồng thời xảy ra với hoạt động đánh giá giá trị tác phẩm. Nói
cách khác, đánh giá giá  trị tác phẩm nghệ thuật là một nhu cầu tất yếu
của cảm thụ nghệ thuật. Nhu cầu đánh giá này không chỉ dừng lại ở sự
phản ứng trực tiếp (bản năng của trạng thái xúc cảm thẩm mỹ) của công
chúng nghệ thuật mà lan truyền, tích tụ thành  những “làn sóng dư luận
công chúng”. Làn sóng này tồn tại và phát triển trong đời sống thẩm mỹ,
đến độ nào đó sẽ nảy sinh thành nhu cầu phát ngôn thành những quan điểm thẩm mỹ. Điều này nảy sinh  tất yếu bộ môn phê bình nghệ thuật mà nhà phê bình là những đại biểu ưu  tú nhất của công chúng nghệ thuật . Việc chọn lọc những người tiếp nhận nghệ thuật có tài năng nhất  (theo cách nói của Xtanixlapxki) - những người vừa có một cảm quan nghệ thuật phát triển, tinh tế, được tôi luyện hẳn hoi lại vừa có khả năng biểu đạt
bằng ngôn ngữ các ấn tượng và thể nghiệm nghệ thuật của mình. Những
người này sẽ trở thành những nhà phê bình chuyên nghiệp . Chính vì
thoát thai từ bộ phận ưu tú nhất của công chúng , những nhà phê bình
này bao giờ cũng coi trọng hiệu quả của sự tác động thẩm mỹ của tác
phẩm nghệ thuật vào công chúng, coi trọng mối quan hệ giữa tác phẩm và
công chúng, đương nhiên không thể không có dấu ấn cá nhân của nhà phê
bình. Đây chính là cơ sở của kiểu phê bình xã hội học: tình trạng tiếp
nhận tác phẩm của công chúng thu hút sự chú ý của nhà phê bình. “Công
chúng là vị quan tòa thông minh nhất” – câu nói nổi tiếng này là chỗ
dựa vững chắc cho kiểu  phê bình xã hội học này. Lâu nay, người ta
thường dè bỉu kiểu phê bình là “xã hội học dung tục” bởi bộ môn xã hội
học nghệ thuật chưa phát triển, nhà phê bình chưa thực sự là đại diện
của bộ phận công chúng ưu tú…
*
Đến đây, ta có thể hình dung được rằng: trong cơ chế vận hành của một
quá trình hoạt động nghệ thuật gồm 3 bộ phận: sáng tạo nghệ thuật, tác
phẩm nghệ thuật và cảm thụ nghệ thuật – ba hệ thống phụ của cấu trúc
một quá trình hoạt động nghệ thuật – đều có những cơ sở nảy sinh, những
nhu cầu tất yếu của sự có mặt của bộ môn phê bình nghệ thuật. Bộ môn
phê bình nghệ thuật nảy sinh từ trong quá trình vận hành của ba hệ
thống phụ đó và ngay lập tức quay  trở lại tác động vào quá trình vận
hành  ấy. Như vậy, có thể nói: Phê bình nghệ thuật là hệ thống phụ thứ
tư của hệ thống văn hóa nghệ thuật – một thể thống nhất khép kín.
Điều cần nhấn mạnh ở đây là: phê bình nghệ thuật là một cơ chế đặc thù
của văn hóa, nó là một bộ phận thiết yếu thuộc hệ thống văn hóa nghệ
thuật. Nó có chức năng tạo nên cái “bình thông nhau”, cái cầu nối giữa
cảm thụ nghệ thuật và sản xuất nghệ thuật, nó giải quyết nhiệm vụ xác
định giá trị của tác phẩm nghệ thuật và do đó nó điều chỉnh định hướng
tư tưởng và thẩm mỹ của sản xuất nghệ thuật. Đồng thời nó có khả năng
tác động trở lại vào bản thân việc cảm thụ nghệ thuật, vào ý thức thẩm
mỹ và cảm quan nghệ thuật của công chúng. Điều này qui định tính biện
chứng của quan hệ qua lại giữa nhà phê bình và công chúng nghệ thuật.
Chức  năng vừa nêu của phê bình nghệ thuật, về nguyên tắc nó không thể
lẫn lộn với các bộ môn khoa học chuyên nghiên cứu về nghệ thuật như mỹ
học, lý luận nghệ thuật, xã hội học nghệ thuật, v.v…. Các bộ môn khoa
học về nghệ thuật này không nảy sinh từ nhu cầu nội tại tất yếu của một
quá trình hoat động nghệ thuật mà chúng chỉ quan sát, nhìn vào nền văn
hóa này từ bên ngoài, từ thế giới của các khoa học. Do đó, toàn bộ nền
văn hóa nghệ thuật, trong đó có cả phê bình nghệ thuật, đều nằm ở trong
tầm bao quát của các bộ môn khoa học về nghệ thuật vừa nêu với cái nhìn
khách quan lạnh lùng của tư duy khoa học. Vì mối quan hệ giữa phê bình
nghệ thuật và các khoa học nghiên cứu về nghệ thuật có nhiều mối quan
hệ mật thiết cho nên lâu nay người ta vẫn xếp phê bình nghệ thuật   vào
khu vực các bộ môn khoa học về nghệ thuật như lý luận nghệ thuật,
nghiên cứu nghệ thuật, lịch sử nghệ thuật,v.v… Thậm chí người ta đã đặt
câu hỏi: “Phê bình là khoa học hay nghệ thuật?”, song sự trả lời tính
nước đôi: Phê bình là bộ môn có hai quốc tịch, vừa là khoa học vừa là
nghệ thuật !...đã khiến cho câu chuyện chưa thể có hồi kết !...
*
Qua việc trình bày cơ sở nảy sinh và chức năng của bộ môn phê bình nghệ
thuật nói trên, chúng ta thấy người làm phê bình nghệ thuật phải đồng
thời đáp ứng được tất cả những yêu cầu đã nêu với những phẩm chất ,
trình độ,kiến thức, cảm thụ nghệ thuật, v.v… không thể ở mức bình
thường!... Chính vì vậy mà Lưu Hiệp, nhà phê bình trác việt của Trung
hoa cổ đại, đã nói về phê bình nghệ thuật rằng: “Tri  âm  thực là khó
thay. Cái âm thực là khó biết, người biết thực là khó gặp. Gặp được
người tri âm ngàn năm mới có một lần” (Văn tâm điêu long). /.
Đỗ Ngọc  Thạch