Thứ Sáu, 31 tháng 5, 2013

Tính ngụy tạo...- Trần Đình Sử

Ảnh của Quảng Thu Hà.


Tính ngụy tạo...- Trần Đình Sử



Tính ngụy tạo của khái niệm phương pháp sáng tác trong lí luận phê bình văn họcThứ bảy, 25 Tháng 5 2013Trần Đình Sử103



tính ngụy tạo của khái niệm phương pháp sáng tác...

Tính ngụy tạo của khái niệm phương pháp sáng tác trong lí luận phê bình văn học

EmailIn
          Trong hệ thống lí luận văn học mác xít lưu truyền từ những năm 30 thế kỉ trước đến nay có một khái niệm quyền uy ngự trị trong lí luận văn học các nước xã hội chủ nghĩa. Đó là khái niệm phương pháp sáng tác hiện thực xã hội chủ nghĩa. Nó không chỉ là phương pháp sáng tác mà còn là phương pháp phê bình văn học. Nhà văn thì phải nắm vững phương pháp sáng để sáng tác, còn nhà phê bình văn học thì phải vận dụng phương pháp ấy để phê bình, đánh giá xem tác phẩm nào đó hay cả nền văn học có đi theo định hướng của phương pháp ấy không. Nếu có thì biểu dương, nếu không thì phê phán, trường hợp nặng thì có thể đi đến chấm dứt cuộc đời sáng tác của nhà văn. Từ khi kết thúc cách mạng văn hoá, bước sang hiện đại hoá, Trung Quốc dần dần đã từ bỏ khái niệm phương pháp sáng tác. Các giáo trình lí luận văn học Trung Quốc từ năm 1995 đã lần lượt không dùng khái niệm ấy nữa[1]. Từ những năm 70 ở Liên Xô cũ, khi D. Markov nêu ra phương pháp chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa như là hệ thống mở, thì khái niệm phương pháp chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa đã có thay đổi lớn, nó không còn là phương pháp mà đã là hệ thống sáng tác, trong đó tính đảng không còn là yếu tố của phương pháp sáng tác nữa. Từ sau năm 1991 khi Liên Xô sụp đổ, chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa về cơ bản cũng bị phế bỏ luôn. Các giáo trình Đại học như của V. E. Khalizev không có khái niệm ấy nữa, mà chỉ gọi là trào lưu hay “cộng đồng văn học có tính thế giới”[2]. Giáo trình Lí luận văn học do H. D. Tamarchenco chủ biên đã loại bỏ khái niệm phương pháp sáng tác[3]. Chỉ còn một số rất ít người chủ yếu là tác giả của khái niệm này từ đầu những năm 60 thế kỉ trước là còn nhắc đến trên bình diện lịch sử, ví dụ như nhà lí luận Iu. Borev[4]. Trên thế giới, hiện nay hầu duy nhất chỉ có nước Việt Nam ta trong giáo trình lí luận văn học là vẫn còn mục phương pháp sáng tác, chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa. Gần đây nhà nghiên cứu Phương Lựu trong một bài báo viết tháng 6 – 2008, đã phê phán rất sâu sắc những “sai lầm cơ bản của lí luận hiện thực xã hội chủ nghĩa”, nhưng đối với vấn đề có tiếp tục sử dụng khái niệm phương pháp sáng tác nữa không, thì ý kiến của ông là tiếp tục, và ông còn “bước đầu hình dung phương pháp sáng tác thay thế”chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa  bằng phương pháp mà ông gọi là “chủ nghĩa chân thực, dân bản”[5]. Theo quan điểm đó thì Phương Lựu cũng đặt dấu chấm hết cho phương pháp ấy rồi. Dĩ nhiên chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa là một trào lưu văn học lớn, đã có lịch sử tồn tại gần một trăm năm, hiện diện trong văn học sử, vậy không có lí do gì để phủ nhận nó. Để học tập, nghiên cứu nó, người ta chỉ cần lí thuyết về chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa là đủ, không cần có lí thuyết về phương pháp sáng tácLẫn lộn lí thuyết về sáng tác, một chủ thuyết mà người ta gọi là “ism” của một trào lưu và lí thuyết về phương pháp sáng tác trong nghệ thuật là một  nhầm lẫn về lí luận cần được xoá bỏ.
          Lần về lịch sử khái niệm phương pháp sáng tác, trong lí luận văn học mác xít người ta thường viện dẫn ý kiến của nhà văn Đức vĩ đại W.Goethe. Đúng là Goethe trong một cuộc nói chuyện với Wenkerman từ năm 1829 đến 1830 có nhắc đến trong đoạn văn sau: “Khái niệm thơ cổ điển và thơ lãng mạn nay đã lan truyền khắp thế giới, dẫn đến nhiều tranh cãi và bất đồng. Khái niệm này bắt nguồn từ hai người là tôi và Schiller. Tôi chủ trương thơ nên theo nguyên tắc xuất phát từ khách quan, cho rằng chỉ có một phương pháp sáng tác như thế thì mới tốt. Nhưng Schiller lại dùng phương pháp sáng táchoàn toàn chủ quan để viết, cho rằng chỉ có phương pháp sáng tác của ông ấy thì mới đúng.” (Theo bản dịch của Chu Quang Tiềm năm 1978, người trích nhấn mạnh.) Trong câu này Goethe đã dùng ba lần “phương pháp sáng tác”, lại hiểu đó là “nguyên tắc”, có thể coi như định nghĩa đầy đủ về khái niệm ấy. Tuy vậy nội dung đó đã phải là “phương pháp sáng tác” chưa, cần có sự  phân tích. Xét theo cách dịch, thì Chu Quang Tiềm, vào năm 1964, trong sách Lịch sử mĩ học phương Tâytập 2  đã dịch là “phương thức”, sau lại dịch lại là “phương pháp”; xét theo các đặc điểm đem ra phân biệt văn học cổ điển và văn học lãng mạn mà họ nêu ra thì: “văn học cổ điển” gồm các tính chất như, chất phác, dị giáo, anh hùng, hiện thực, tất yếu, chức năng xã hội; còn “văn học lãng mạn” thì có các nội dung như cảm thương, cơ đốc giáo, lãng mạn, lí tưởng, tự do, theo ý muốn. Dựa vào các tính chất đó thì có thể xem là hai loại hình, hai quan niệm về sáng tác, không phải là phương pháp sáng tác. Ông Chu Quang Tiềm làm tiến sĩ mĩ học ở Đức, nhà mĩ học hiện đại Trung Quốc trứ danh, rất được trọng vọng, song trong suốt mấy chục năm sống dưới thời đại Mao Trạch Đông ông có nhược điểm mà các học giả thường chê là ông luôn luôn tự kiểm điểm và viết lại tư tưởng mĩ học của mình. Rất có thể cách dịch của ông bị chi phối bởi hoàn cảnh. Ở đây mong các vị sành tiếng Đức tra cứu lại. Nhưng dù là phương pháp hay phương thức, người ta vẫn có thể hiểu đó là bình diện phong cách, không nhất thiết là phương pháp sáng tác, vì Goethe chỉ nói hai chữ “phương pháp” thôi, không kèm định ngữ “sáng tác”.
          Tiếp theo, người nói đến “chủ nghĩa tả thực” là Champfleury.  Ngày 21 tháng 9 năm 1850 khi Champfleury nêu ra thuật ngữ “chủ nghĩa tả thực” trên báo Trật tự, ông nhằm chỉ một trào lưu, khuynh hướng, phong cách sáng tác. Duranty lập tờ báo “Chủ nghĩa tả thực”, chỉ ra được 6 số, nhưng thể hiện một chủ trương sáng tác. Ông nói: “Cái chủ nghĩa tả thực đáng sợ này là kẻ lật đổ cái trường phái mà nó đại diện. Bảo trường phái tả thực là phi lí là bởi vì nó biểu thị một lối biểu đạt thẳng thắn mà hoàn mĩ mang tính cá nhân; quy phạm, mô phỏng và bất cứ trào lưu nào đều là cái mà nó phản đối.”[6]  Các vị này nêu ra chủ trương “một lối biểu đạt”, các nguyên tắc về phong cách, cho nên lúc đầu mọi người dịch là “chủ nghĩa tả thực”. “Chủ nghĩa tả thực” nói rõ tính chất phong cách của nó, nghĩa là miêu tarnhuwngx gì trực tiếp nhìn thấy. Đương thời nhiều nghệ sĩ lớn dều hoài nghi chủ nghĩa tả thực về mặt phong cách. Baudelaire viết lời bình cho tác phẩm Bà Bovary có nói: “Chủ nghĩa tả thực là cái từ thô lỗ, buồn nôn mà người ta ném vào mặt những người sáng suốt. Đó là một thuật ngữ mơ hồ, trôi trượt, để chỉ cách viết những sự vụn vặt mà chẳng mới mẻ gì của bọn phàm phu tục tử.”[7] Bản thân tác giả Bà Bovary cũng viết: “Tôi chúa ghét cái mà người thời nay gọi là chủ nghĩa tả thực, ngay cả khi người ta tôn tôi là quyền uy của chủ nghĩa tả thực.” Bảy mươi năm sau, những năm 20, nhóm RAPP (viết tắt của Hiệp hội nhà văn vô sản Nga, vốn phần lớn xuất thân từ phái vị lai) mới suy từ “phương pháp duy vật biện chứng” trong quan điểm triết học mác xít mà đề ra khái niệm “phương pháp sáng tác”, gọi là “phương pháp sáng tác duy vật biện chứng”, đồng nhất phương pháp nghệ thuật với thế giới quan triết học. Hai chữ phương pháp của họ có cội nguồn trực tiếp từ Phương pháp duy vật biện chứng chứ chưa chắc đã có cội nguồn từ Goethe. Từ năm 30 phái RAPP bị giải tán do tính bè phái, không phải vì quan điểm chính trị và học thuật. Khi thành lập Hội nhà văn Liên Xô năm 1934, nhiều nhà văn thuộc RAPP chuyển sang hội này, mang theo cả phương pháp của họ. Do đó, “chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa” lại được coi là phương pháp sáng tác và phương pháp phê bình của nền văn học Xô viết. Định nghĩa kinh điển trong điều lệ của Hội nhà văn Liên Xô ghi: “Chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa là phương pháp cơ bản của văn học Liên Xô và phê bình văn học Liên Xô yêu cầu các nghệ sĩ phải miêu tả đời sống hiện thực một cách chân thực, lịch sử, cụ thể trong quá trình phát triển cách mạng, tính cụ thể và tính lịch sử phải kết hợp với nhiệm vụ giáo dục và cải tạo nhân dân lao động theo tinh thần và tư tưởng xã hội chủ nghĩa”. Thực chất nội dung đó là cương lĩnh chính trị của sáng tác, chứ không phải phương pháp sáng tác. Linh hồn của phương pháp sáng tác hiện thực xã hội chủ nghĩa đó vẫn là “phương pháp sáng tác duy vật biện chứng” mà phái các nhà văn vô sản Nga đã nêu ra từ giữa những năm 20. Phép biện chứng duy vật có ba quy luật cơ bản. Một là mâu thuẫn là tồn tại phổ biến, trong xã hội đó là mâu thuẫn giai cấp, mâu thuẫn mới – cũ, tiến bộ – lạc hậu. Hai là quy luật lượng đổi chất đổi. Cái mới ban đầu bao giờ cũng nhỏ yếu, song nó sẽ lớn mạnh và chiến thắng cái cũ. Ba là quy luật phủ định của phủ định, tức là khẳng định cái mới xã hội chủ nghĩa. Theo phương pháp đó, nhà văn sẽ tìm trong cuộc sống các biểu hiện của xung đột giai cấp vô sản và tư sản, đứng hẳn về phía giai cấp vô sản tiến bộ và cách mạng, miêu tả sự lớn mạnh của cái mới đi đến khẳng định sự chiến thắng tất yếu của chủ nghĩa xã hội, dưới sự lãnh đạo của Đảng. Phương pháp biện chứng duy vật còn đặc trưng bởi các cặp đối lập nhị nguyên như cái chung/cá biệt, nội dung/hình thức, tất yếu/ngẫu nhiên, bản chất/hiện tượng mà trong các cặp đó yếu tố đầu của mỗi cặp là quan trọng, giữ vai trò chi phối, còn các yếu tố sau đều không   quan trọng, bị phụ thuộc. Kết quả là theo quan hệ đó các yếu tố cá biệt, ngẫu nhiên, hiện tượng… vốn có ý nghĩa rất quan trọng đối với nhận thức thẩm mĩ đều bị coi nhẹ, và do đó các tác phẩm sáng tạo theo phương pháp biện chứng đó phần lớn là xơ cứng, công thức, sơ lược, thiếu sức hấp dẫn và thiếu sức sống. Các văn kiện của Đảng Cộng sản Việt Nam khi đánh giá văn học cách mạng đều phê bình tính chất sơ lược, thiếu phong phú của nó và thường giải thích bằng nguyên nhân nhà văn thiếu vốn sống, thế giới quan chưa vững vàng, mà không thấy nguyên nhân sâu xa là ở phương pháp sáng tác này. Đây cũng là phương pháp, nhưng là phương pháp triết học, phương pháp tư duy chính trị, dùng để xác định đề tài, chủ đề, không có phương diện thẩm mĩ. Logic của vấn đề rất rõ ràng. Theo phương pháp sáng tác đó đã sản sinh ra hàng loạt tác phẩm giả tạo, tô hồng hiện thực. Tác phẩm hay như Sông Đông êm đềm của M. Solokhov có phải là chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa như thế không, lại là chuyện khác. Tiểu thuyết đó đã nói lên sự tàn khốc của cuộc nội chiến cách mạng, chứ không thấy rõ việc đem tư tưởng và tinh thần xã hội chủ nghĩa để giáo dục nhân dân lao động. Đương thời, nhiều bạn đọc trên báo Sự thật của Đảng Cộng sản Bônsêvích yêu cầu tác giả để cho Grigori Mêlêkhôv gia nhập Đảng CS, trở thành chiến sĩ Hồng quân, chiến đấu chống lại quân Bạch vệ, nhưng tác giả không làm theo yêu cầu đó nên đã cứu tác phẩm khỏi sự sơ lược[8]. Trái lại tác phẩm Đội thanh niên cận vệ của A. Phadeev vốn là cuốn tiểu thuyết hay về thế hệ thanh niên yêu nước xô viết, song do yêu cầu cần thể hiện vai trò lãnh đạo của đảng đối với họ, nên ông đã sửa lại, bổ sung thêm tuyến người lãnh đạo vào, thế là tiểu thuyết trở thành minh hoạ chính trị giả tạo[9]. Ở Trung Quốc tác phẩm Sáng nghiệp sử của nhà văn Liễu Thanh viết về phong trào hợp tác hoá nông nghiệp Trung Quốc, một thời được coi là tác phẩm tiêu biểu, kinh điển của chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa, thì gần đây, nhìn lại người ta khẳng định nó là một tác phẩm hiện thực nguỵ tạo, bởi vì nó đã chính trị hoá các mâu thuẫn ở nông thôn, lãng mạn hóa công cuộc hợp tác hoá nông nghiệp, hư huyễn hoá cuộc sinh tồn của người nông dân và cuối cùng nó chỉ là minh hoạ chính sách của đảng[10]. Tiểu thuyết Cái sân gạch của Đào Vũ ở ta cũng thuộc vào loại này. Các trường hợp này cho thấy phương pháp hiện thực xã hội chủ nghĩa đã làm hỏng tác phẩm. Chính sự nhầm lẫn chủ trương, lí thuyết sáng tác, phương pháp triết học với phương pháp nghệ thuật đã đưa người ta vào chỗ sai lầm về lí luận và phê bình. Nhiều người muốn chứng minh nguyên tắc tính Đảng mà Lê nin nêu ra không chỉ là nguyên tắc chính trị, mà còn là nguyên tắc thẩm mĩ, nhưng đều khó tránh gượng gạo. Ở Việt Nam, ví dụ tác phẩm Hãy đi xa hơn nữa của Nguyễn Khải là tác phẩm hoàn toàn giả tạo. Bài phê bình Trách nhiệm của người viết trong tiểu thuyết Sắp cưới của Vũ Bão của Nguyễn Khải cũng thể hiện một phương pháp phê bình giả tạo. 40 năm sau Nguyễn Khải đã phải xin lỗi nhà văn Vũ Bão, và tự nhận mình là ngu[11]. Đó là những sự thật không thể bỏ qua.
          Do coi đối tượng của văn học là hiện thực, người ta đổi cách dịch chữ “realism” vốn là “chủ nghĩa tả thực” thành “chủ nghĩa hiện thực”. Việc coi phương pháp sáng tác và phương pháp phê bình như nhau cũng chứng tỏ một khái niệm thiếu khoa học, đồng nhất sáng tác và phê bình, hai lĩnh vực khác nhau. Sự phát triển của lí luận phê bình văn học thế kỉ XX cho thấy rõ, đó là hai lĩnh vực khác nhau hẳn. Một đặc điểm của phương pháp phê bình văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa là phát động quần chúng phê bình văn học. Quần chúng có quyền phê bình nghệ thuật. Ai cũng trở thành nhà phê bình văn học, một khi phát hiện thấy sáng tác xa rời phương pháp hiện thực xã hội chủ nghĩa. Các báo rất coi trọng “ý kiến độc giả”, nhiều khi lấy đó làm cơ sở để tổ chức phê bình. Cái tệ đó đã đẻ ra hàng loạt nhà phê bình nghiệp dư mà ngày nay văn học Việt Nam đang gánh chịu.
      Xét về sự truyền bá, năm 1933 Chu Dương đưa khái niệm phương pháp sáng tác đó vào Trung Quốc. Năm 1942 Mao Trạch Đông nhắc lại trong bài nói chuyện Diên An. Năm 1943, Trường Chinh đưa nó vào Đề cương văn hoá Việt Nam[12],rồi sau đó coi là phương pháp sáng tác tốt nhất. Tính chất ý thức hệ của khái niệm là rõ ràng, song tính khoa học của nó ngay từ thời Goethe đã gây tranh cãi. Sau lần đề xuất của Goethe, các nhà văn khác như V. Hugo, G. Maupassant, G. Sand, các nhà thơ tượng trưng Nga như Briusov, Belyi… và nhà lí luận người Mĩ gốc Séc R. Wellek cũng có lúc nói đến thuật ngữ “phương pháp sáng tác”, nhưng toàn bộ lí luận văn học phương Tây người ta chỉ dùng khái niệm chủ nghĩa cổ điển, chủ nghĩa lãng mạn như Geothe và Schiller đề xuất, mà không hề tiếp nhận khái niệm phương pháp sáng tác. Đó là điều rất đáng suy nghĩ. Trong một số bức thư từ bàn về văn học của Marx và Engels hai ông có bàn về chủ nghĩa hiện thực, về chủ nghĩa lãng mạn, nhưng không hề gọi đó là phương pháp sáng tác! Marx đã yêu cầu văn học nên Shakespeare hoá, không nên Schiller hoá, nghĩa là ông có thể đã đọc ý kiến của Goethe về phương thức sáng tác, nhưng lại không dùng khái niệm mà Goethe đã nêu ra đó. Đó cũng là một vấn đề cần suy nghĩ. Hồ Chí Minh lúc sinh thời trong nhiều lần nói chuyện với văn nghệ sĩ cũng không một lần nói đến phương pháp sáng tác hiện thực xã hội chủ nghĩa.
          Ở Liên Xô, do khái niệm phương pháp sáng tác có tính chung, làm việc gì đó cũng ít nhiều mang tính sáng tạo (hay sáng tác), cho nên có người gọi là “phương pháp nghệ thuật” cho cụ thể. Có người thì thấy đó chỉ là “nguyên tắc phản ánh”, không coi là phương pháp sáng tác. Thuật ngữ này đã được dùng với rất nhiều định ngữ khác nhau: “vô sản”, “biện chứng”, “hùng vĩ”, “xã hội chủ nghĩa”, “cách mạng”, “vĩ đại”… Khái niệm này khi thì hiểu rất hẹp, như là một phong cách trong hội hoạ của Courbet (“chủ nghĩa tả thực”) hoặc chỉ một trường phái cụ thể, mà M. Gorki gọi là “chủ nghĩa hiện thực phê phán”, khi lại hiểu rất rộng như “chủ nghĩa hiện thực vô bờ bến” với R. Garaudy, khi lại xem là “hệ thống mở” như viện sĩ D. Markov. Tất cả điều đó chứng tỏ khái niệm này thiếu một hạt nhân khoa học vững chắc. Cả nội hàm, lẫn ngoại diên đều đều mơ hồ. Ở Liên Xô và Trung Quốc một thời nó được coi là phương pháp sáng tác (dù là hệ thống mở) của nhà nước, có tính quan phương. Do đó một thời gian dài, tuy luôn có nhiều ý kiến không tán thành, song là vấn đề rất khó bàn, nếu bàn mà không muốn đụng chạm thì cũng luẩn quẩn và nhàm chán.
     Xét về cấu trúc nội dung khái niệm phương pháp sáng tác thiếu tính khoa học. Nhìn chung dù ở Liên Xô hay ở Trung Quốc, Việt Nam khái niệm phương pháp được hiểu đại đồng, tiểu dị. Đại đa số nhà nghiên cứu cho rằng, phương pháp sáng tác = nguyên tắc sáng tác (nhận thức, tư tưởng) + phương thức (mô hình tư duy nghệ thuật) + thủ pháp (các biện pháp miêu tả, biểu hiện), trong đó yếu tố thứ nhất được coi là hạt nhân và có tác dụng quy định đối với hai yếu tố sau. Mô hình lí luận về phương pháp này (có người gọi là cấu trúc phương pháp) có nhiều điều bất ổn. Một là từ mô hình đó ai cũng thấy rõ là quan niệm, nguyên tắc thẩm mĩ không phải là hạt nhân của phương pháp nghệ thuật, mà ở vào địa vị phụ thuộc. Một số tác giả khác coi yếu tố thứ hai (tư duy nghệ thuật) mới là hạt nhân, mà như thế là phá vỡ cấu trúc phương pháp, vì nguyên tắc nhận thức, tư tưởng lại là phụ thuộc. Thứ hai, hai yếu tố sau của phương pháp thực chất là thuộc phạm trù phong cách. Nếu để chúng vào nội dung của phương pháp thì khái niệm phương pháp sáng tác sẽ là: phương pháp sáng tác = nguyên tắc nhận thức + phong cách, như thế phong cách không có giá trị riêng mà phương pháp là khái niệm nửa dơi nửa chuột.
          Tính chất pha tạp của khái niệm được thể hiện trong định nghĩa của từ điển bách khoa. Từ điển Bách khoa văn họcLiên Xô năm 1987 nêu định nghĩa: “Cần phải nhấn mạnh rằng phương pháp sáng tác không phải là “phương thức” hay “nguyên tắc” logic – trừu tượng. Phương pháp là nguyên tắc chung trong thái độ sáng tạo của nghệ sĩ đối với hiện thực được nhận thức, tức là nguyên tăc tái tạo (peresozdanie), và do đó mà không tồn tại bên ngoài sự thể hiện cụ thể, có tính cá nhân. Với nội dung như thế, phạm trù này đã chín muồi từ lâu, và thường được gọi bằng tên gọi là “phong cách” hay tên gọi khác.”[13] Ở đây người viết cho thấy phương pháp sáng tác gốc của nó là phong cách, người ta đã lấy nội dung của phong cách mà làm phương pháp. L.I. Timofeev chủ trương gọi phương pháp sáng tác là phương pháp nghệ thuật thể hiện một cách hiểu khác, đó là nguyên tắc thiết kế mĩ học của sáng tác. Anh là nhà nghệ sĩ, khi sáng tác một tác phẩm anh phải xử lí chất liệu đời sống, anh phải xây dựng thể loại, thực hiện tự sự hay trữ tình theo một cách nào đó, tức là thực hiện nguyên tắc thiết kế mĩ học đối với tác phẩm sao cho tác động đến người đọc tốt nhất. Phương pháp sáng tác như thế là việc của nghệ sĩ, thể hiện trong sáng tác của họ, người ta có thể miêu tả nó, khái quát nó sau khi tác phẩm đã hoàn thành. Hiểu như thế phương pháp sáng tác là một phạm trù có tính chất cá nhân, tồn tại bên trong hoạt động sáng tác của nghệ sĩ. Mỗi người có phương pháp riêng, người này không thể sử dụng phương pháp của người khác. Từ logic ấy, một thời gian M. B. Khrapchenco đã nêu lên vấn đề “phương pháp sáng tác cá nhân”, mà vào đầu những năm 60, trong giáo trình lí luận văn học ở Việt Nam, Nguyễn Văn Hạnh đã nhạy bén tiếp nhận và thể hiện. Khái niệm ấy chỉ lưu hành một thời gian ngắn rồi thôi. Vì sao? Vấn đề mà lí thuyết chủ đạo quan tâm là phương pháp chung có tính ràng buộc đối với mọi người, còn phương pháp riêng thì quan tâm làm gì? Mà phương pháp chung là cái chung của mọi phương pháp cá nhân, thì nó phải có sau phương pháp riêng, như thế thì không phát huy được vai trò chỉ đạo. Từ đó sự phân biệt phương pháp chung, riêng bị thủ tiêu.
          Vấn đề là “nguyên tắc mĩ học” trong sáng tác của nhà văn như Timofeev nói là phong cách hay phương pháp? Trong sách Thi pháp văn học Nga cổ, nhà nghiên cứu Likhachev định nghĩa “Phong cách không chỉ là hình thức ngôn ngữ, mà còn là nguyên tắc mĩ học của cấu trúc, thống nhất toàn bộ nội dung và toàn bộ hình thức của tác phẩm. Hệ thồng tạo hình thức có thể được khám phá trong tất cả mọi yếu tố của tác phẩm. Phong cách nghệ thuật thống nhất trong nó toàn bộ sự cảm thụ hiện thực vốn có của nhà văn, và phương pháp nghệ thuật của nhà văn, do các nhiệm vụ mà anh đặt ra cho mình quy định.”[14]  Nếu phương pháp nghệ thuật là nguyên tắc mĩ học thì ở đây nó là yếu tố của phong cách, không phải nguyên tắc phản ánh. Cái chung trong phong cách sáng tác của các nhà văn, nghệ sĩ cùng thời đại, đó là phong cách chung trong thời đại. Đem nội dung của phong cách chung gọi bằng phương pháp, rồi xoá bỏ khái niệm phong cách chung, một khái niệm đã có từ lâu trước khái niệm phương pháp (như phong cách gothic, phong cách roman, phong cách baroc,…) là không hợp lí. Mặt khác, khái niệm phương pháp sáng tác thực chất chỉ là “nguyên tắc phản ánh” tức là nguyên tắc nhận thức, mà chỉ là nguyên tắc phản ánh thì nó còn rất trừu tượng, chưa thể là phương pháp sáng tác nghệ thuật. Một số người gọi phương pháp sáng tác là “nguyên tắc phản ánh” như ông G. N. Pospelov chính là cách bày tỏ thái độ không đồng tình với khái niệm phương pháp sáng tác, không sử dụng nó mà đặt ra thuật ngữ khác. Đến khi xem phương pháp sáng tác hiện thực xã hội chủ nghĩa là “một hệ thống mở” như D. Markov đã làm thì trên thực tế ông đã đánh tráo khái niệm phương pháp thành hệ thống văn học. Xét yêu cấu đối với sáng tác văn học, theo M. Bakhtin, mỗi sáng tác chỉ cần có ba yếu tố: chủ đề, cách tổ chức kết cấu và phong cách ngôn từ, ngoài ra không cần gì nữa[15]. Phương pháp sáng tác là thừa. Đó là lí do vì sao trong lí luận văn học các nước trên thế giới không ai sử dụng khái niệm phương pháp sáng tác cả. Chính vì đưa một khái niệm giả tạo vào hệ thống lí luận cho nên người ta đã làm méo hệ thống ấy. Một là xoá bỏ khái niệm phong cách chung. Hai là đề cao không đúng vấn đề phong cách cá nhân, có thời coi đó như là toàn bộ sự đa dạng của văn học trong sự thống nhất về phương pháp. Các nhà lí luận phong cách như A. N. Sokolov[16], G. N. Pospelov[17] đã lần lượt phủ nhận khái niệm phong cách cá nhân. Theo các ông bản chất của phong cách nghệ thuật là nguyên tắc thẩm mĩ, mĩ học, chứ không phải là cá tính. Cá tính chỉ là nhân tố tạo phong cách chứ không phải nguyên tắc của phong cách. Do đó định danh phong cách cá nhân, lấy cá tính sáng tạo làm cơ sở của phong cách là thiếu khoa học.
          Mọi ý muốn bảo vệ khái niệm phương pháp sáng tác, làm cho nó không chỉ là “nguyên tắc phản ánh”, mà còn là thẩm mĩ đều thất bại, bởi đã đi vào sáng tạo thì nó hoặc là mang tính cá nhân, hoặc là thuộc bình diện phong cách. Chẳng hạn nói đến nguyên tắc của chủ nghĩa hiện thực là chi tiết cụ thể, chân thực, mô tả đời sống trong hình thức của bản thân đời sống thì đó là nguyên tắc phong cách của trường phái này, mà lúc đầu người ta đã dịch đúng, là “chủ nghĩa tả thực”. Tả thực là miêu tả như thực, như sự vật vốn có, giống như trong tranh của Courbet. Các chủ nghĩa như tượng trưng, ấn tượng, siêu thực… đều là các phong cách, trường phái, không phải phương pháp sáng tác.
          Vậy thực chất cái gọi là phương pháp sáng tác mà lâu nay người ta mất nhiều thì giờ bản luận là cái gì? Theo tôi đó chỉ là lí thuyết về sáng tác. Lí thuyết về sáng tác không phải là phương pháp sáng tác. Thực vậy, hãy xem lại các giáo trình lí luận văn học hiện hành. Hễ nói chủ nghĩa cổ điển thì trích ý kiến của Descartes, Boileau, nói phương pháp lãng mạn thì trích Schlegel, Hugo, nói phương pháp hiện thực chủ nghĩa thì trích Balzac, Stanhdal, Tolstoi, nói về chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa thì trích F. Engels, M. Gorki, A. Fadeev… Đã nói về lí thuyết sáng tác thì ai cũng có thể bàn, kể cả nhà văn lẫn nhà phê bình, nhà chính trị. Lí thuyết sáng tác trong văn học xã hội chủ nghĩa bàn về cái gì? Bàn về đề tài, chủ đề, bàn về thái độ đối với đời sống được nhận thức, về sự phụ thuộc vào tổ chức chính trị… Các vấn đề ấy vẫn có ích cho sáng tác, nhưng không phải là phương pháp sáng tác. Lí thuyết ấy được dọi là phương pháp sáng tác hoàn toàn do uy tín của các ông Stalin, Mao Trach Đông, Trường Chinh, mà nhà lí luận văn học Trung Quốc đương đại gọi là “diễn ngôn lãnh tụ hay diễn ngôn chính đảng”, không phải thuật ngữ khoa học[18]. Nói gọn lại, cái gọi là phương pháp sáng tác thực chất chỉ là lí thuyết về đề tài và chủ đề, ta gọi thẳng nó là lí thuyết về sáng tác, hoặc chủ trương sáng tác, thế là rõ rồi, không cần gọi nó là phương pháp sáng tác làm  gì cho nhiễu loạn tư duy. Ngày nay vấn đề đề tài, chủ đề  hầu như đã được giải quyết theo hướng mở, các văn kiện chính thức chỉ có lời khuyên chứ không áp đặt đề tài, chủ đề cho nhà văn. Chính vì thế tác dụng của phương pháp cũng không còn, do đó nó rơi vào trạng thái chết dần dần lặng lẽ[19]. Rút cuộc, chỉ có các giảng viên dạy lí luận văn học là khổ, bỏ phương pháp sáng tác đi thì không dám, mà giữ nguyên thì không biết dạy thế nào. Viết giáo trình thì thêm mắm muối cho đủ mâm bát. Các giảng viên đùn đẩy cho nhau, không hào hứng dạy phần này và không ra bài tập cho sinh viên vào chỗ ấy, vì hơn ai hết họ hiểu nỗi khổ tâm của học trò.
          Từ sự phân tích trên chúng tôi cho rằng từ nay cần loại bỏ khái niệm phương pháp sáng tác ra khỏi chương trình lí luận văn học ở các cấp. Bỏ nó đi giáo trình sẽ viết lại khoa học hơn, giảng viên yên tâm, sinh viên không còn lo lắng. Các nhà lí luận giành thì giờ bàn luận về phong cách, tất cả đều hay. Bỏ khái niệm phương pháp sáng tác không phải là hành vi theo đuôi nước ngoài, mà là bỏ đi một thuật ngữ nguỵ tạo của lí luận văn học Xô viết, một thuật ngữ dị loại đối với khoa học văn học. [20].
Hà Nội 3 – 2012.
 -------

[1] Ví dụ Giáo trình lí luận văn học của các chủ biên như: Lỗ Khu Nguyên, Lí luận văn học, Hoa Đông sư phạm đại học xb, 2006; Nam Phàm, Lí luận văn học. Tân độc bản, Chiết Giang văn nghệ xb, 2002; Cát Hồng Binh, Văn học khái luận, thông dụng giáo trình, Đại học Thượng Hải xb, 2002; Dương Xuân Thời, Văn học lí luận tân biên, Đại học Bắc Kinh xb, 2007; Đồng Khánh Bính, Văn học khái luận, Đại học Bắc Kinh xb, 2006; Đồng Khánh Bính và Triệu Dũng, Văn hoc lí luận tân biên, Đại học sư phạm Bắc Kinh, Bắc Kinh xb, 2006; Vương Nhất Xuyên, Lí luận văn học, Tứ Xuyên nhân dân xb, 2003… Tất nhiên cũng có một vài giáo trình vẫn còn dùng theo quán tính, ví dụ như giáo trình của Vương Nguyên Tương, Quế Lâm, 2002.
[2] V. E. Khalizev, Lí luận văn học, M., 2004, tr. 374.
[3] H. D. Tamarchenco chủ biên, Lí luận văn học, M., 2004, 2 tập.
[4] Trong cuốn Lí luận văn học Tập 1 có tên là Văn học, Ju. Borev là biên tập chính, nxb IMLI RAN, năm 2005 có in bài Các phương pháp và các phong cách của A. V. Mikhailov và bài Về phạm trù phương pháp sáng tác của V. D. Skvoznikov, người đã viết mục từ phương pháp sáng tác trong Từ điển bách khoa mà chúng tôi đã trích, có ý muốn khẳng định lại khái niệm của lí luận văn học Xô viết, song vẫn các lập luận cũ. Bài viết của A. V. Mikhailov hẳn là bài viết cũ, vì tác giả đã mất năm 1995, sau khi Liên Xô sụp đổ ông đã phát biểu một loạt ý kiến phản tư  về lí luận văn học Xô viết.  Xem: Nghiên cứu văn học như là một vấn đề của nghiên cứu văn học, nxb. Nasledie, M., 2001. Chỉ cần chú ý điểm này là thấy đó không phải là quan điểm của các nhà nghiên cứu Nga. Trong cuốn Thi pháp học lịch sử cũng của IMLI, do Grintzer chủ biên, M, 1994, không có phạm trù phương pháp sáng tác. 
[5] Phương Lựu, Chung quanh vấn đề phương pháp sáng tác hiện nay, Tạp chí Cộng sản, số 8 – 2008. Trong sách của ông: Vì một nền lí luận văn học dân tộc hiện đại, nxb Văn học, Hà Nội, 2009, tr. 96 – 112.
[6] Theo sách Chủ nghĩa hiện thực, Chu Phát Tường dịch, nxb Côn Lôn, 1989, tr. 29.
[7] Trích theo Nam Phàm, trong sách Lí luận văn học độc bản, Chiết Giang, 2002, 150.
6 Xem lịch sử sáng tác tác phẩm Sông Đông êm đềm trong sách: Trần Đình Sử, Văn học và thời gian, Hà Nội, 2002, từ  tr. 53 – 59.
[9] Ở Trung Quốc tác giả Chu Lập Ba trong tiểu thuyết Mưa to gió lớn cũng bắt chước kiểu này. Ở Việt Nam ta thấy trongĐất nước đứng lên của Nguyên Ngọc có nhân vật anh Thế bên cạnh anh hùng Núp, trong Vơ chồng A Phủ của Tô Hoài có nhân vật A Châu lãnh đạo A Phủ căm thù Tây đứng lên chống Tây. Đến năm 1985 trong Tuyển tập truyện ngắn, nhà văn Tô Hoài đã gạch bỏ đoạn A Châu lãnh đạo A Phủ..
[10]  Xem Lí Vận Đoàn. Văn học đương đại Trung Quốc và chủ nghĩa hiện thực giả. Văn học đương đại, số 1 – 2005.
[11] Xem trong sách Rễ bèo chân sóng, hồi kí của Vũ Bão, phần phụ lục.
[12] Tuy nhiên Trường Chinh vẫn dùng “chủ nghĩa tả thực”, điều đó chứng tỏ lúc này ông chưa tiếp xúc với Bài nói chuyện tại Diên An của Mao Trạch Đông.
[13] Từ điển bách khoa văn học Liên Xô, M. 1987, tr. 218, cột 2, tác giả là V. D. Skvoznikov..
[14] Likhachev D .X. Thi pháp văn học Nga cổ, L. Khoa học, 1979, tr. 32. Tiếng Nga.
[15] Bakhtin M. M. Vấn đề thể loại lời nói. Xem Bakhtin toàn tập, tập 4, nxb Giáo dục Hà Bắc, Trung Quốc, 1998, tr. 140.
[16] A. N. Sokolov. Lí luận về các phong cách, M., Nghệ thuật, 1968.
[17] G. N. Pospelov. Mấy vấn đề phong cách văn học. Đại học tổng hợp Mascova, 1970.
[18] Dư Hồng, Chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa và diễn ngôn chính đảng, trong sách: Bàn về lịch sử tư tưởng văn nghệ Trung Quốc thế kỉ XX, Cát Hồng Binh chủ biên, tập 1, Thượng Hải, 2006, tr. 131.
[19] Văn kiện chính thức của Đảng như Nghị quyết Trung ương V (Khoá VIII) cũng có khi nhắc đến: “Khuyến khích tìm tòi, thể nghiệm mọi phương pháp, mọi phong cách sáng tác vì mục đích đáp ứng đời sống tinh thần lành mạnh, bổ ích cho công chúng”. Nghị quyết số 23 của Bộ Chính trị của Đảng ngày 16 – 6- 2008, cũng khẳng định sự đa dạng về phong cách nghệ thuật như một thành tựu của văn học thời gian qua. Khi đề ra chủ trương và giải pháp thì cũng nêu: “tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển mạnh mẽ, đa dạng của văn học, nghệ thuật về đề tài, nội dung, loại hình, phương pháp sáng tác, sự tìm tòi thể nghiệm, nâng cao chất lượng toàn diện nền văn học nghệ thuật nước nhà.” Văn học Việt Nam đương đại đã có đa dạng về phong cách, còn đa dạng về phương pháp thì chưa thấy nói. Ở đây hình như Nghị quyết 23 còn thiếu sự khuyến khích đa dạng về phong cách. Có thể hiểu đa dạng về phương pháp sáng tác ở đây chính là đa dạng về phong cách thì hợp lí hơn.
[20] Cũng có người nêu ý kiến, vấn đề phương pháp sáng tác cứ để cho nó tự chết. Hoàng Ngọc Hiến sinh thời đã có lúc viết phương pháp sáng tác hiện thực xã hội chủ nghĩa “đã đội nón ra đi”. Nhưng trong nhà trường đại học, nếu không loại bỏ nó ra khỏi chương trình thì nó vẫn cứ sống và gây phìên nhiễu. 
Nguồn: http://trandinhsu.wordpress.com/2013/05/24/tinh-nguy-tao-cua-khai-niem-phuong-phap-sang-tac-trong-li-luan-phe-binh-van-hoc/

Thi pháp học hiện đại... - Trần Đình Sử


 
 
Thi Pháp Học hiện đại... - Trần Đình Sử
 
 
Trang chủ   LÝ LUẬN - PHÊ BÌNH  LÝ LUẬN- PHÊ BÌNH: THI PHÁP HỌC HIỆN ĐẠI Ở VIỆT NAM (GS.TS.Trần Đình Sử)
LÝ LUẬN- PHÊ BÌNH: THI PHÁP HỌC HIỆN ĐẠI Ở VIỆT NAM (GS.TS.TRẦN ĐÌNH SỬ)PDF.InEmail
Thứ năm, 04 Tháng 10 2012 10:40
THI PHÁP HỌC HIỆN ĐẠI Ở VIỆT NAM
Trn Đình S
Nếu hiểu thi pháp học là học vấn về tiêu chuẩn của ngôn từ văn chương, thể thức, biện pháp tổ chức thể loại tác phẩm thì thi pháp học đã có ở Việt Nam từ những sáng tác đầu tiên trong sáng tác dân gian và văn học viết bằng chữ Hán, rồi được phản ánh vào các bộ tuyển thơ văn, bắt đầu từ Vit âm thi tp của Phan Phu Tiên thế kỉ 15.  Đó là một truyền thông thi pháp quy phạm, bất biến và quy phạm hoá. Trải qua 10 thế kỉ, đến đầu thế kỉ 20 nước ta mới có các công trình mô tả các thể thức sáng tác văn thơ truyền thống như Vit Hán văn kho của Phan Kế Bính, Quc văn c th của Bùi Kỉ, Vit Nam văn hc s yếu của Dương Quảng Hàm…Trước năm 1975 các công trình loại đó nếu ở miền Nam có tác phẩm của Lam Giang về thơ ca truyền thống, Hư Chu, Quách Tấn về thơ Đường, thì ở miền Bắc có công trình Thơ ca Vit Nam hình thc và th loicủa Bùi Văn Nguyên và Hà Minh Đức, một công trình khoa học quy mô, có hệ thống, nối tiếp việc làm của người trước, có bổ sung thêm về phần thơ mới.
Trong suốt thời kì hiện đại hoá văn học từ những năm 30 cho đến trước Cách mạng tháng Tám thi pháp được nhắc đến trong một số công trình phê bình văn học mà chưa nâng lên lí luận. Từ Cách mạng tháng Tám dến hai cuộc kháng chiến chống ngoại xâm các nhà lí luận và sáng tác văn học cách mạng dường như chỉ quan tâm nội dung phản ánh hiện thực mà hầu như bỏ quên phương diện thi pháp, mặc dù đây đó có lúc quan tâm đến phong cách, bút pháp sáng tác của nhà văn[1]. ở miền Nam trong vùng kiểm soát của chính quyền cũ tuy có điều kiện giới thiệu về lí thuyết cấu trúc song chưa nêu vấn đề nghiên cứu thi pháp văn học. Phải đến những năm 80 thi pháp học Việt Nam mới nổi lên như một trào lưu nghiên cứu.
Sự xuất hiện của thi pháp học ở Việt Nam từ những năm 80 có bối cảnh quốc tế và hoàn cảnh nghiên cứu văn học trong nước. Thi pháp học ở Nga xuất hiện từ cuối thế kỉ 19, nhưng thực sự trỗi dậy từ đầu thế kỉ 20 với chủ nghĩa hình thức Nga, sau đó nó bị trấn áp để nhường chỗ cho nghiên cứu xã hội học Mác xít. Phải đến sau những năm 50, khi Stalin mất, thời kì “băng tan”, thi pháp học mới bắt đầu trở lại với tinh thần thi pháp học lịch sử, mặc dù lúc này chủ nghĩa cấu trúc vẫn tiếp tục bị phê phán. ở Pháp thi pháp học bắt đầu được P. Valery nhắc lại trong chuyên đề giảng ở Viện Hàn Lâm Pháp năm 1935, nhưng nó thực sự trỗi dậy với chủ nghĩa cấu trúc những năm 60 do ảnh hưởng của việc giới thiệu thi pháp học Nga đầu thế kỉ. Tuy nhiên khái niệm thi pháp học hết sức phồn tạp, thiếu nhất trí. Theo trình bày của Jean Yves Tadié trong sách Phê bình văn hc th k XX, thi pháp học được hiểu là một hướng nghiên cứu trong các trường phái Phê bình văn học Đức(văn hiến học Roman), Phê bình ý thức chủ thể, Phê bình ý tượng khách thể, Phê bình phân tâm học, Phê bình xã hội học, Phê bình ngôn ngữ học, Kí hiệu học văn học, Phê bình cội nguồn. Bản thân thi pháp học Pháp cũng có nhiều cách hiểu khác nhau, hoặc thiên về nghiên cứu thi pháp thể loại như văn xuôi, thi ca, kịch, hoặc theo một lí luận nào đó như kí hiệu học. Tự sự học của Todorov, G. Genette nằm trong thi pháp học văn xuôi, lí luận đối thoại của Bakhtin được hiểu như là thi pháp tiểu thuyết[2]. Theo cách trình bày của J. Bessiere, E. Kushner, R. Mortier, J. Weiberger trong sách Lch s các thi pháp[3]thì thi pháp học bao gồm hầu như toàn bộ lí luận văn học, cả xã hội học, cả phong cách học và tu từ học. Chính vì cách hiểu phân tán như thế cho nên ở Miền Nam trước 1975, mặc dù có điều kiện tiếp thu lí luận, phê bình văn học phương Tây khá tự do, đã có một số công trình lí luận của Nguyễn Văn Trung, Trần Thiện Đạo, một số công trình nghiên cứu “cơ cấu” thú vị như của Trần Ngọc Ninh, Bùi Hữu Sũng, Lê Tuyên, Huỳnh Phan Anh, Đặng Tiến[4]…nhưng không tạo ra một “trào lưu”, một xu hướng thi pháp học, ít nhất là trong giới đại học và các viện nghiên cứu như ở Việt Nam những năm 80 -90.
Bối cảnh Việt Nam sau giải phóng, ảnh hưởng Liên Xô cũ vẫn là chủ yếu. Tại Liên Xô những năm ấy thi pháp học lịch sử được đề xướng rầm rộ. Năm 1976 trong sách Sáng to ngh thut, hin thc, con người (1976) Khrapchenco tổng kết khuynh hướng thi pháp học như là khuynh hướng nổi bật của nghiên cứu văn học Liên xô từ năm 1959 cho đến lúc ấy với các tên tuổi như V. Vinogradov, D. Likhachev, Ju. Mann, G. Friđlender, A. Chicherin, A. Sokolov, M. Poliakov. Các tác phẩm của các nhà hình thức Nga như V. Shklovski, V. Girmunski, Ju. Tynianov, B. Eikhenbaym được in lại, các công trình của Bakhtin được chỉnh lí xuất bản. Các công trình thi pháp học cấu trúc của Ju. Lotman, B. Uspenski…được xuất bản. Trên thực tế các công trình thi pháp học ở Liên Xô còn phong phú hơn rất nhiều so với sự liệt kê của Khrapchenco. Các tạp chí nghiên cứu văn học thường có mục “thi pháp học” bên cạnh mục “phong cách học”. Đó là hướng nghiên cứu xuất hiện như là phản ứng lại hướng nghiên cứu xã hội học độc tôn một thời. Chính luồng nghiên cứu đó đã ảnh hưởng tới tư tưởng thi pháp học ở Việt Nam, khuấy động sự trì trệ của nghiên cứu văn học lúc đó. Những năm 70 tôi đang dạy học ở trường Đại học sư phạm Vinh, đã bắt đầu nghiên cứu phong cách thơ Tố Hữu, Đặc trưng văn học (1971, 1974). Những năm 60 Nguyễn Đăng Mạnh cũng có những tìm tòi về thi pháp của văn thơ xô viết Nghệ Tĩnh, nhưng chưa có ý thức tự giác về phương pháp. Năm 1980 Nguyễn Trung Hiếu ở khoa Văn Đại học sư phạm Vinh cũng bắt đầu nghiên cứu tác phẩm văn học theo phương pháp hệ thống[5]. Tôi đi làm nghiên cứu sinh ở Liên Xô chọn một đề tài thi pháp học – Thời gian nghệ thuật. ở Việt Nam một số người đã giới thiệu thi pháp học Liên Xô vào Việt Nam, công trình của Khrapchenco được dịch ra tiếng Việt, do tôi hiệu đính[6], nhưng chưa gây được chú ý. Sau các bài báo về thời gian nghệ thuật và cái nhìn nghệ thuật trong Truyn Kiu của tôi in trên Tạp chí văn học gây được chú ý vào năm 1981, chuyên đề thi pháp học được tôi mở tại Đại học sư phạm Hà Nội. Năm ấy tôi được mời nói chuyện về thi pháp học tại một số tổ bộ môn ở Đại học sư phạm Hà Nội, Đại học Tổng hợp Hà Nội, ở Hội nhà văn năm 1982. Năm 1983 Hội đồng môn văn học tổ chức Hội thảo về thi pháp học ở Đại học Tổng hợp, có Nguyễn Kim Đính, Trần Đình Sử báo cáo. Cùng thời gian đó Phạm Vĩnh Cư dịch và giảng dạy về lí luận và thi pháp tiểu thuyết của Bakhtin[7]. Từ đó không khí thi pháp học được hâm nóng lên ở nhiều trường Đại học và Viện nghiên cứu. Vương Trí Nhàn ở nhà xuất bản Tác phẩm mới đặt tôi viết “Thi pháp thơ Tố Hữu”do Lại Nguyên Ân biên tập, chuẩn bị cho năm kỉ niệm 1985. Chúng tôi cũng tổ chức dịch sách của Bakhtin[8], một số sách về thi pháp đã dịch trước đó nhưng không ai chú ý, nay mới được quan tâm[9]. Trong không khí đó, một số công trình thi pháp học xuất hiện, dần dần gây thành phong trào chiếm ưu thế, lấn át hẳn khuynh hướng nghiên cứu xã hội học thịnh hành suốt mấy chục năm trước đó. Trong số những người đi tiên phong trong trào lưu này có thể kể tên các tác giả sau.
Trước hết là một số nhà ngôn ngữ học đã từ lâu ấp ủ ý định nghiên cứu thi pháp theo phương pháp ngữ học.
Phan Ngọc[10] chịu ảnh hưởng sâu sắc của thi pháp học cấu trúc chủ nghĩa và ông đã bắt đầu nghiên cứu thi pháp cấu trúc từ những năm 60, nhưng do không khí xã hội Việt Nam những năm ấy không thuận lợi cho nên mãi đến giữa những năm 80 đầu những năm 90 ông mới cho công bố các công trình nghiên cứu về Truyn Kiu (1985) và về thơ Đường (1990), thơ song thất lục bát, cách đọc văn học theo ngôn ngữ học. Công trình vềTruyn Kiu của Phan Ngọc là một tìm tòi về phong cách học trong khi bộ môn này “còn thiếu một lí luận nhất quán để có thể khẳng định nó như một khoa học thật sự” (tr.6). Ông phải tiến hành xây dựng lại các khái niệm của môn phong cách học, khám phá nét nội dung và hình thức không lặp lại phù hợp với nội dung ấy bằng cách xét tần xuất lặp đi lặp lại của một hiện tượng sau đó kiểm chứng trên trục lịch sử và thời đại(tr. 9). Ông không nghiên cứu phong cách một cách cô lập, mà sử dụng thao tác đối lập để tìm nét khu biệt về nội dung và hình thức độc đáo chỉ một mình Nguyễn Du làm được, không phải là nét mà nhiều người cùng thời với nhà văn cũng làm được. Như thế phong cách học của Phan Ngọc không còn là phong cách học hình thức, mà đã gắn chặt với nội dung, điều kiện lịch sử và khu biệt với phong cách thời đại. Phan Ngọc lấy sự lựa chọn làm nguyên tắc khu biệt cơ bản để nghiên cứu, ông thực sự đã đem lại nhiều điều mới mẻ trong cấu trúc nghệ thuật của Truyn Kiu và thơ Đường. Như thế thành công của Phan Ngọc gắn liền với tìm tòi phương pháp của chính ông.
Năm 1985 Nguyễn Phan Cảnh cũng cho xuất bản cuốn Ngôn ng thơ,[11] một công trình vừa có tính lí thuyết vừa có tính phổ cập, đề cập nhiều vấn đề của thơ được bạn đọc chú ý. Đây là công trình đầu tiên ở Việt Nam viết về đặc trưng thi pháp của ngôn ngữ thơ theo quan điểm của chủ nghĩa cấu trúc của một nhà ngữ học.

Năm 1998 Nguyễn Tài Cẩn cho công bố hai công trình: Tìm hiu kĩ xo hi văn liên hoàn trong bài Vũ trung sơn thu ca Thiu Tr và nh hưởng Hán văn Lí Trn qua thơ và ngôn ng thơ Nguyn Trung Ngn.[12]Cuốn thứ nhất đi tìm cách đọc và khả năng đọc bài thơ, liên hoàn viết dưới hình thức bát quái,một hình thức thơ độc đáo thời xưa. Cuốn thứ hai nghiên cứ về cách sử dụng chữ Hán trong văn thơ của người Việt qua trường hợp Nguyễn Trung Ngạn. Tác giả đã thống kê cách gieo vần và khảo sát câu thơlục ngôn chữ Hán của Nguyến Trung Ngạn, góp phần giải thích trường hợp câu thơ lục ngôn của Nguyễn Trãi trong Quốc âm thi tập. Đây là một hướng thi pháp học rất quan trọng, làm nền tảng để chúng ta nghiên cứu văn thơ chữ Hán Việt Nam so với văn thơ chữ Hán của người Trung Quốc. Có thể nói các nhà ngữ học có cách đi của mình vào thi pháp học một cách khoa học, coi trọng tính khách quan.
Các nhà phê bình văn học đi vào thi pháp theo cách khác.
Hoàng Trinh trải qua chặng đường từ phê phán, phủ định chủ nghĩa cấu trúc, phê bình mới, kí hiệu học đi đến thừa nhận và vận dụng các lí thuyết ấy vào văn học. Hoàng Trinh chỉ vận dụng lí thuyết kí hiệu học văn học của một trường phái Saussure và những người theo ông ta như R. Jacobson, Tz. Todorov, xem văn học, ở đây chỉ là thơ, là một hệ thống kí hiệu đặc thù thể hiện trong cách sử dụng ngôn từ theo nguyên lí ẩn dụ, hoán dụ. Phạm trù tính thơ hoán dụ, ẩn dụ được ông vận dụng dể nghiên cứu tính thơ trong tục ngữ, ca dao và trong thơ qua một số công trình như Đi thoi văn hc (1992), T kí hiu hc đến thi pháp hc(1997)[13]. Nghiên cứu của ông hoàn toàn mang tính chất minh hoạ lí thuyết, do đó chưa có những phát hiện mà người đọc chờ đợi. Mặc dù ông quan niệm thi pháp gồm: quan niệm về thơ, sử dụng chất liệu để sáng tạo ra ý thơ, vận dụng kết cấu thơ, vận dung quy luật âm vận nhất định, nhưng trên thực tế Hoàng Trinh chủ yếu đã làm việc giới thiệu, diễn giải một số vấn đề như kí hiệu, nghĩa, tạo nghĩa, tính thơ một cách thông tục trên chất liệu tục ngữ, ca dao và thơ đương đại. Ông góp phần quảng bá một số tri thức mà trước đây chưa được chú ý, thậm chí là phê phán một cách thiên lệch. Nhưng công bằng mà nói, công trình của Hoàng Trinh có nhiều mâu thuẫn, nhầm lẫn và hầu như chưa động chạm gì nhiều đên kí hiệu học văn học, một lĩnh vực rộng lớn, bao gồm các hiện tượng văn hoá nghệ thuật, do đó không mở ra được hướng thi pháp kí hiệu học lẽ ra phải có.
Đỗ Đức Hiểu đi vào phê bình mới khá muộn màng. Trước đó ông là nhà phê phán chủ nghĩa hiện sinh (1978). Bắt đầu từ giữa những năm 80 ông mới chuyển sang phê bình văn học theo hướng phê bình mới. Cũng đi theo một hướng thi pháp học phương Tây, xem thi pháp biểu hiện ở phạm vi ngôn từ, lấy tính văn học của ngôn từ làm đối tượng nghiên cứu, Đỗ Đức Hiểu cũng xem xét thi pháp học theo phạm vi thể loại như thơ, văn xuôi, kịch, nghiên cứu cách vận dụng ngôn từ trong một số tác phẩm văn học cụ thể. Thành công của Đỗ Đức Hiểu có thể do ông có trực cảm nhạy bén về ngôn ngữ hơn là vận dụng lí thuyết, bởi lí thuyết của ông vừa thiếu hệ thống, vừa sơ lược. Ông được dẫn dắt bởi một quan niệm chung: “Tôi hiểu phong cách học, nói một cách đơn giản nhất, nghiên cứu những đặc trưng ngôn từ văn chương của một tác giả, một tác phẩm, còn thi pháp học nghiên cứu tính văn học của một trào lưu, một thời đại, có thể gọi là “Phong cách lớn””, nhưng không có các phạm trù công cụ cụ thể.Thi pháp học của ông đồng nghĩa với phê bình phong cách học ngôn từ nghệ thuật với sự lệch chuẩn, các phương thức lựa chọn từ ngữ ám ảnh, từ chìa khoá, các phương thức tu từ như nhại, điệp từ gắn liền với sự cảm nhận về con người và thế giới của một tác giả, tác phẩm… Khác Hoàng Trinh, ông nghiên cứu cả thơ và văn xuôi. Ông đã có một số phát hiện khá lí thú về nghệ thuật ngôn từ trong sáng tác Vũ Trọng Phụng, Hồ Xuân Hương[14]…
Đỗ Lai Thuý cũng là nhà phê bình thi pháp học học tương tự như Đỗ Đức Hiểu, đi sâu khám phá nghệ thuật ngôn từ của một tác giả mà ông gọi là “phê bình phong cách”, dựa vào các từ ngữ mang cái nhìn của tác giả về con người và thế giới[15]. Tập sách Con mt thơ tập trung nghiên cứu phong cách của tám nhà thơ mới.
Trong quá trình học ở Liên Xô (1976 – 1980) tôi đã chọn cho mình hướng thi pháp học. Trong khi phần đông nghiên cứu sinh văn học người Việt Nam bấy giờ say mê với các đề tài thuộc về chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa, về văn học cách mạng thì tôi tìm đọc sách của các nhà thi pháp học Nga từ chủ nghĩa hình thức như Tomashevski, Shklovski, Girmunski, Eykhenbaum đến các nhà thi pháp học hiện đại như Chicherin, Likhachev, Bakhtin, Khravchenco…Nhưng tôi hấp thu tổng hợp, xây dựng một lí luận thi pháp học theo quan niệm hiện đại, không bó hẹp vào thơ ca, ngôn ngữ, “tính văn học” của ngôn từ, bởi đến lượt mình ngôn từ cũng chịu sự chi phối của một cấp độ khác cao hơn. Tôi quan niệm thi pháp học nghiên cứu văn học như những thế giới nghệ thuật. Nó khám phá các nguyên tắc tạo nên các thế giới nghệ thuật phân biệt với thực tại, bắt đầu từ quan niệm nghệ thuật, tiếp theo là các hình thức nhân vật, không gian, thời gian, kiểu sự kiện và cuối cùng là cấu trúc văn bản với các hình thức ngôn từ. Hình thức ngôn từ mang toàn bộ cái nhìn của nhà văn và các phương diện nêu trên của thế giới nghệ thuật. Nói cách khác, tôi chủ trương thi pháp học nghiên cứu cái lí hay là quan niệm nghệ thuật của hình thức. Cái lí của hình thức thể hiện trong hệ thống các nguyên tắc, phương tiện tạo dựng thế giới nghệ thuật. Vì thế tôi đặc biệt coi trọng vai trò của quan niệm nghệ thuật về con người, quan niệm về không gian, thời gian như là các yếu tố của thế giới nghệ thuật. Tôi đề ra mô hình : quan niệm nghệ thuật về con người, không gian nghệ thuật, thời gian nghệ thuật, cốt truyện nghệ thuật, phương thức lời văn nghệ thuật và nghiên cứu chúng trong sự tác động, biến đổi của lịch sử và cá tính sáng tạo của nhà văn, coi đó như một mẫu số chung để đi tìm đặc sắc riêng của thế giới nghệ thuật như là các tử số, chứ không phải để áp dụng trực tiếp một cách thô thiển. Tôi đặc biệt coi trọng tính hệ thống trong sự liên hệ giữa các nguyên tắc và phương tiện nghệ thuật trong thi pháp của tác phẩm, tác giả, thể loại hay văn học một giai đoạn. Các nhà phong cách học thường chú trọng đến sự đối lập, nhưng theo tôi, một phong cách được hình thành trước hết là do tính hệ thống nội tại của nó, và tính hệ thông mới làm cho phong cách này khu biệt với phong cách kia. Không phải mọi khác biệt đều làm nên phong cách. Đồng thời tôi chú trọng phương diện thi pháp học lịch sử, tức sự diễn biến của hình thức văn học, một vấn đề chưa được quan tâm đúng mức ở Việt Nam. Các công trình Thi pháp thơ T Hu(1985 – 1987), Thi pháp Truyn Kiu (1981 – 2002), Thi pháp văn hc trung đi Vit Nam (1998) đã nghiên cứu theo quan niệm như thế. Do nhu cầu dạy học tôi còn viết giáo trình Dn lun thi pháp hc(1987 – 1998), chú trọng khu biệt về thể loại, thời đại văn học, tác gia văn học, các phạm trù hình thức của thế giới nghệ thuật. Giáo trình này cho dù ban đầu chưa hoàn thiện vẫn phát huy ảnh hưởng, tạo thành chuyên đề cao học tại nhiều trường Đại học Việt Nam một thời gian dài. Tôi tiếp thu ở Bakhtin các gợi ý về con người, không gian, thời gian trong tiểu thuyết Đostoievski, cách phân tích của Likhachev về con người, không gian, thời gian nghệ thuật trong văn học Nga cổ, không tiếp thu cách hiểu của Khrapchenco về quan niệm nghệ thuật…. Tôi cũng là người đầu tiên giới thiệu và vận dụng các phạm trù thi pháp học quan trọng như quan niệm nghệ thuật về con người, không gian nghệ thuật, thời gian nghệ thuật, hình tượng tác giả, diểm nhìn trần thuật và các phương thức biểu hiện của ngôn từ[16]. Nhằm mở rộng thi pháp học sang lĩnh vực tự sự học, đưa vào thêm nhiều khái niệm mới, tôi chủ trì hai cuộc hội thảo về tự sự học tại trường Đại học sự phạm Hà Nội (2001, 2007).[17]Đây là hướng nghiên cứu được hưởng ứng rộng rãi, nhất là trong các trường đại học và viện nghiên cứu. Hàng loạt sinh viên, học viên cao học, nghiên cứu sinh đi theo thi pháp học, tự sự học. Điều này dễ hiểu, bởi vì văn học việt Nam có bề dày nhất định, một thời gian dài chỉ nghiên cứu như một sự phản ánh xã hội, một hiện tượng tư tưởng, thế giới quan, nay đã đến lúc phải nhìn nhận nó từ phương diện sáng tạo nghệ thuật, và mặt khác nếu không có thi pháp học họ sẽ thiếu khái niệm công cụ để tiến hành nghiên cứu.
Nhà folklor học Nguyễn Xuân Kính tiếp thu quan niệm thi pháp học từ các học giả Nga, nơi ông tu nghiệp và những người đi trước như Chu Xuân Diên…. Ông hiểu nghiên cứu thi pháp là nhằm chỉ ra cái hay cái bản chất nghệ thuật của tác phẩm, chỉ ra lí do tồn tại của hình thức, và ông nghiên cứu các yếu tố thi pháp trong ca dao từ ngôn ngữ, thể thơ, kết cấu, thời gian và không gian nghệ thuật, biểu tượng, hình ảnh. Thi pháp ca dao[18] của ông (xuất bản lần đầu năm 1993, tái bản năm 2004 và bổ sung lần thứ 3 năm 2006)) là một trong các công trình tiêu biểu về thi pháp văn học dân gian Việt Nam.
Tiếp theo các tác giả trên các công trình thi pháp học xuất hiện liên tục. Có thể kể: Nguyễn Thị Bích Hải, Thi pháp thơ Đường(1995); Lê Dục Tú, Quan nim con người trong tiu thuyết T lc văn đoàn,(1997); Phan Diễm Phương, Lc bát và song tht lc bát-Lch s phát trin, đc trưng th loi (1998), Nguyễn Duy Bắc, Bn sc dân tc trong thơ ca Vit Nam hin đi,(1998); Lê Lưu Oanh, Thơ tr tình Vit Nam 1975 – 1990 (1998); Phùng Ngọc kiếm, Con người trong truyn ngn Vit Nam 1945 – 1975 (1998); Lê Huy Bắc, Núi băng và hip sĩ(1999); Phạm Thu Yến, Nhng thế gii ngh thut ca dao, (1998); Vũ Văn Sĩ, Vmt đc trưng thi pháp thơ Vit Nam 1945 – 1995(1999); Phan Thu Hiền, S thi n Đ – Mahabharata(2000); Lê Trường Phát, Thi pháp văn hc dân gian (2000); Trần Đình Sử, Nguyễn Thanh Tú, Thi pháp truyn ngn trào phúng Nguyn Công Hoan(2001); Nguyễn Huy Hoàng, Tìm hiu thi pháp truyn ngn Gogon (2001); Trần Đăng Suyền, Ch nghĩa hin thc Nam Cao (2001); Phạm Mạnh Hùng, Thi pháp hoàn cnh trong tác phm ca Ngô Tt T, Vũ Trng Phng, Nam Cao(2001), Nguyễn Đăng Điệp, Ging điu trong thơ t tình (2002); Lê Quang Hưng, Thế gii ngh thut thơ Xuân Diu (2002); Trần Khánh Thành, Thi pháp thơ Huy Cn (2002); Đào Ngọc Chương, Thi pháp tiu thuyết và sáng tác ca E. Hemingwey (2003); Hồ Thế Hà, Thế gii ngh thut thơ Chế Lan Viên (2004); Phan Thu Hiền, Thi pháp hc c đin Đ (2006);…Có thể kể thêm nhiều tác giả khác cũng nghiên cứu thi pháp như La Khắc Hoà, Phan Huy Dũng, Bửu Nam, Trần Thị An, Chu Văn Sơn, Nguyễn Thành Thi, Lê Tiến Dũng, Trần Lê Bảo, Lê Thu Yến, Đỗ Hồng Kỳ, Hà Thị Hoà, Nguyễn ái Học, Đinh Trí Dũng, Nguyễn Khắc Sính, Hoàng Mạnh Hùng, Đào Duy Hiệp, Biện Minh Điền, Nguyễn Văn Hạnh, Nguyễn Hoài Thanh, Trương Xuân Tiếu, Nguyễn Thị Mai Chanh, Nguyễn Thị Nương, Lê Trường Phát, Lê Thị Hường, Nguyễn Thị Nhàn, Bùi Thanh Truyền, Nguyễn Sĩ Đại, Nguyễn Thị Tuyết Nga, … Tôi đánh giá cao công trình của Phan Diễm Phương, Nguyễn Thị Bích Hải, Phan Thu Hiền, Lê Dục Tú, Nguyễn Thanh Tú, Trần Thị An, Nguyễn Duy Bắc… Một số luận văn cao học, tiến sĩ, do chưa thực sự hiểu sâu đã vận dụng sống sượng các phạm trù thi pháp gây anh hưởng tiêu cực.
Điều đáng chú ý nhất là các giáo sư cao tuổi như Đỗ Bình Trị, Hoàng Tiến Tựu, Phan Đăng Nhật, Nguyễn Hải Hà, Nguyễn Đăng Mạnh, Phạm Luận, Nguyễn Đăng Na, Nguyễn Văn Long … cũng tiến hành nghiên cứu văn học dân gian, nước ngoài hay văn học Việt Nam hiện đại, trung đại theo hướng thi pháp học. Nguyễn Đăng Mạnh đã viết về phong cách Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Tuân, Xuân Diệu… , Phạm Luận viết về thi pháp Việt Nam trong Quc âm thi tp, Nguyễn Hải Hà có Thi pháp tiu thuyết L. Tônxtôi, nxb. Giáo dục, 1992; Đỗ Bình Trị cóNhng đc đim thi pháp ca các th loi văn hc dân gian, nxb. Giáo dục, 1999; Phan Đăng Nhật nghiên cứu thi pháp sử thi Tây Nguyên…; Nguyễn Đăng Na nghiên cứu thi pháp các thể loại văn xuôi trung đại Việt Nam (truyện ngắn, kí, tiểu thuyết). Có những người không đề xướng thi pháp học nhưng trên thực tế vẫn nghiên cứu thi pháp học như các giáo sư Đặng Anh Đào, Phùng Văn Tửu[19]… Một số tác giả khác tập hợp tác phẩm nghiên cứu rồi đặt tên cho công trình mình là thi pháp học.
Một khuynh hướng nghiên cứu thu hút đông đảo nhà nghiên cứu tham gia như thế là một hiện tượng đột xuất của nghiên cứu văn học Việt Nam, nó chứng tỏ nhu cầu bức thiết trong việc đột phá lối nghiên cứu văn học xã hội học ngự trị suốt một thời gian dài từ 1945 cho đến sau năm 1975. Sẽ là không nghiêm túc nếu nhận định đó là một “hội chứng” “chạy theo mốt”, một ham muốn nhất thời có tính thời thượng. Thi pháp học đem lại những phạm trù mới, những đề tài mới cho nghiên cứu văn học, như con người, không gian, thời gian, trần thuật, điểm nhìn, đối thoại, giễu nhại, mỉa mai,…, mở rộng các cánh cửa tiếp cận văn bản. Mặc dù chất lượng chưa đồng đều, một điều rất bình thường, nhưng những công trình nêu trên đã góp phần khám phá, vỡ vạc nhiều phương diện nghệ thuật của hầu hết hiện tượng văn học thế kỉ XX, từ văn học hiện thực sang lãng mạn, tượng trưng; văn học trung đại với các thể loại và đặt nền móng cho một sự nghiên cứu cao hơn, sâu hơn về sau.
Thi pháp học Việt Nam tuy chịu ảnh hưởng của Nga hay phương Tây, song khi vào Việt Nam, xét trên một số đóng góp chủ yếu, nó đã có sáng tạo rõ rệt, hoàn toàn không phải là sao chép. Một số công trình nặng tính sao chép, lệ thuộc máy móc vào phương pháp của nước ngoài tỏ ra là nhạt nhẽo, bất cập. Xét về phương pháp, tuy khuynh hướng có chỗ khác nhau, song về đại thể hầu hết nghiên cứu thi pháp, phong cách đều có cách tiếp cận chung khá thống nhất là xét tần xuất để xác định hiện tượng độc đáo, sau đó xây dựng mô hình chỉnh thể, hệ thống, giải thích các hiện tượng tìm được về mặt quan niệm của thời đại và của tác giả. Đó là cách tiếp cận khách quan. So sánh cách tiếp cận của Trần Đình Sử, Phan Ngọc, Đỗ Đức Hiểu, Đỗ Lai Thuý đều cho thấy cái chung đó. Cũng từ đó có thể thấy thi pháp học, phong cách học Việt Nam vẫn đi theo phương hướng chủ yêú của lí thuyết cấu trúc, hệ thống, chưa bước sang giai đoạn giải cấu trúc và hậu hiện đại. Mặc dù ở phương Tây đã có tiếng hô lên “tác giả đã chết”, song ở thi pháp học Việt Nam tác giả vẫn còn ở vị trí trung tâm. Tính đa nghĩa của văn học và tính dân chủ trong tiếp nhận đã được thừa nhận, song trong nghiên cứu thi pháp, xu hướng lí giải độc tôn vẫn còn bám riết lấy một số tác giả như một nhu cầu tự đề cao.
Thi pháp học Việt Nam góp phần đổi mới, tạo ra một giai đoạn mới của phê bình văn học, thay thế dần lối phê bình bình tán chủ quan thịnh hành theo phương pháp giảng văn (Explication) của Lanson, Beard du nhập vào Việt Nam trước 1945, chỉ dựa vào một số cứ liệu về thời đại, sinh hoạt, cá tính tác giả rồi bình tán mà không quan tâm đến các quy luật nghệ thuật nội tại một cách khách quan của văn bản văn học.
Thi pháp học Việt Nam đang đứng trước nhu cầu đa dạng hoá cách tiếp cận, trang bị và nghiền ngẫm sâu thêm về lí thuyết. Nhiều công trình còn sơ lược, nhầm lẫn về phương diện này. Thi pháp học là một phương hướng nghiên cứu có ý nghĩa lâu dài, chính vì thế cần có sự phân hoá thành các trưòng phái mới có thể phát triển. Thi pháp học có thể theo cách tiếp cận cấu trúc ngữ học, tiếp cận thế giới nghệ thuật, theo phân tâm học, theo kí hiệu học, theo văn hoá học, xã hội học…ở đây việc phiên dịch, giới thiệu các công trình của các tác giả lớn trên thế giới có ý nghĩa quan trọng. Sự thiếu hụt và phiến diện về tri thức thi pháp học trong số đông những người nghiên cứu và đọc thi pháp là trở ngại cho sự nâng cao chất lượng các công trình thi pháp và đánh giá đúng về thi pháp.
Thi pháp học không phải là hướng nghiên cứu văn học duy nhất trong thời gian qua, nhưng phải thừa nhận nó là hiện tượng nổi bật nhất. Các hương nghiên cứu phân tâm học, văn học so sánh, xã hôị học, văn hoá học, tuy có một số thành tựu đáng kể, vẫn chưa được đẩy tới thành những trường phái nghiên cứu hấp dẫn rộng rãi.Bức tranh thi pháp học Việt Nam trên đây do còn khiếm khuyết về tài liệu, chắc chắn khó tránh khỏi thiếu sót, mong được góp ý và sẽ bổ sung thêm về sau./.

Nguồn: Tạp chí Nghiên cu văn hc số 2 tháng 2 năm 2009. Nhan đề ban đầu do người viết đặt là Thi pháp hc hin đi trong nghiên cu văn hc Vit Nam thế k XX.
Chú thích:
[1] Trường hợp thơ không vần của Nguyễn Đình Thi là một dịp để tìm hiểu thi pháp thơ hiện đại, nhưng đã bị bỏ qua.
[2] Jean Ives Tadié. Phê bình văn hc thế k XX, bản dich trung văn của Nxb. Bách hoa văn nghệ Thiên Tân, 1998.
[3] J Bessiere, F. Kushner, R. Mortier, J.Weiberger. Lch s các thi pháp, bản dịch của nxb. Bách hoa văn nghệ Thiên Tân, 2002.
[4] Nguyễn Văn Trung. Lược kho văn hc, tập 1,2,3. Nam Sơn, Sài gòn, 1966; Trần Thiện Đạo, Ch nghĩa hin sinh và thuyết cu trúc, nxb. Văn học, Hà Nội, 2001 (viết khoảng nhữngnăm 60 tại Sài gòn); Trần Ngọc Ninh. ý nghĩa và cơ cu Truyn Kiu, Bách Khoa, năm 1972;Bùi Hữu Sũng. Quan nim mi v tiu thuyết:Chđ ra ch, Bách khoa, 1972, Đặng Tiến, Vũ tr thơ, 1972, Sài gòn….
[5] Nguyễn Trung Hiếu. V tính h thng ca văn hc, Đại học sư phạm Vinh xuất bản, 1983.
[6] Vương Trí Nhàn. Chung quanh khái nim “thi pháp” trong khoa nghiên cu văn hc xô viết hin nay. Tạp chí văn học, số 1, 1981. Nguyễn Kim Đính.Mt s vd thi pháp ca ngh thut ngôn t, Tạp chí văn học, số 5,6, 1985. Trần Đình Sử, Nhng vn đ thi pháp Đtôĩepxki ca Bakhtin. Văn nghệ quân đội, số 10 – 1985. M. V. Khrapchenco. Sáng to ngh thut, hin thc, con người, tập 1 và 2, nxb. KHXH, Hà Nội, 1985.
[7] Bakhtin, Lí lun và thi pháp tiu thuyết, Phạm Vĩnh Cư dịch và giới thiệu. nxb. Văn học và Trường viết văn Nguyễn Du, 1992.
[8] Bakhtin, Nhng vn đ thi pháp Đxtôevxki, Trần Đình Sử, Lại Nguyên Ân, Vương Trí Nhàn dịch, nxb. Giáo dục, 1993, Hà Nội.
[9] Likhásev D. X. Thi pháp văn hc Nga c, Phan Ngọc dịch, bản đánh máy, bản dịch chưa hoàn thiện, chưa xuất bản, nhưng được phôto khá phổ biến trong giới nghiên cứu sinh.
[10] Phan Ngọc. Tìm hiu phong cách Nguyn Du trong Truyn Kiu, nxb. KHXH, 1985, Cách gii thích văn hc bng ngôn ng hc, nxb. Trẻ, Hồ Chí Minh, 1990., Th xét văn hoá văn hc bng ngôn ng hc, nxb, Thanh niên, Hà Nội, 2000.
[11] Nguyễn Phan Cảnh. Ngôn ng thơ, nxb. Dại học và giáo dục chuyên nghiệp, 1985, Hà Nội.
[12] Nguyễn Tài Cẩn. Tìm hiu kĩ xo hi vănliên hoàn trong bài Vũ tung sơn thu ca Thiu Tr, nxb. Thuận Hoá, Huế, 1998; nh hưởng Hán văn Lí Trn qua thơ và ngôn ng thơ Nguyn Trung Ngn, nxb. Giáo dục, 1998, Hà Nội.
[13] Hoàng Trinh. Đi thoi văn hc, nxb. Hà Nội, 1986; Thi pháp hc và thế gii vi mô ca tác phm vănhc,Tp chí văn hc, số 5 – 1991, Nhng bài hát ru con dưới góc đ kí hiu hc, Tạp chí văn học, số2 – 1995. T kí hiu hc đến thi pháp hc, nxb. KHXH, Hà Nội, 1992. Tuyn tp vănhc, nxb. Hội nhà văn, 1998, Hà Nội.
[14] Đỗ Đức Hiểu. Đi mi phê bình văn hc, nxb. KHXH và nxb. Mũi Cà Mâu, 1993. Thi pháp hin đi.nxb. Hội nhà văn, 2000., Đi mi đc và bình văn, nxb. Hội nhà văn, 1998,Hà Nội.
[15] Đỗ Lai Thuý. Con mt thơ, nxb. Lao động, Hà Nội, 1992. Cuốn sách được tái bản nhiều lần. H Xuân Hương và hoài nim phn thc, nxb.
[16] Ngoài các công trình thi pháp học, xin xem phần Điểm nhìn trần thuật trong giáo trình Lí lun văn hctập 2, nxb. Giáo dục, 1987.
[17] Trần Đình Sử. Thi gian ngh thut trong Truyn Kiu. Tạp chí văn học, số 5 – 1981. Cái nhìn nghthut ca Nguyn Du trong Truyn Kiu, Tạp chí văn học số2 – 1982. Thi pháp thơ T Hu, nxb. Tác phẩm mới, 1987.Mt s vn đ thi pháp hc hin đi, Vụ Giáo viên xb. Hà Nội, 1993; Nhng thế gii ngh thut thơ, nxb. Giáo dục, 1995,Hà Nội; Lí lun và phê bình văn hc, Nxb. Hội nhà văn, 1996, Hà Nội; Thi pháp văn hc trung đi Vit Nam, nxb. Giáo dục, 1998; Dn lun thi pháp hc, nxb. Diáo dục, 1998, 2004. Thi pháp Truyn Kiu, nxb. Giáo Dục, Hà Nội, 2002.
[18] Nguyễn Xuân Kính, Thi pháp ca dao, nxb. KHXH, 1993, ĐHQG HàNội, 2004.
[19] Phùng Văn Tửu, Tiu thuyết Pháp hin đi nhng tìm tòi đi mi, nxb. KHXH, Mũi Cà Mau, 1990; Đặng Anh Đào, Đi mi ngh thut tiu thuyết phương Tây hin đi, Nxb. Giáo dục, 1995, Hà Nội.

Nguồn: lyluanvanhoc.com