Thứ Tư, 5 tháng 8, 2015

y tá xã

 
Y tá xã
Đỗ Ngọc Thạch
1.

Thời chiến tranh chống Mỹ, các đơn vị của bộ đội Ra-đa được biên chế thành một Đại đội độc lâp, trực thuộc Trung đoàn, chứ không có cấp Tiểu đoàn như ở bộ binh…Mỗi Đại đội chỉ có một Y tá lo nhiệm vụ chăm sóc sức khỏe của bộ đội. Các Đại đội Ra-đa luôn phải cơ động, đóng quân nay đây mai đó, thường là xa nơi thị trấn, thị xã hoặc thành phố, tức nơi có Bệnh viện. Vì thế, nếu như Đại đội có bệnh nặng hoặc bị thương vong (do địa điểm đóng quân bị không kích – ném bom) thì quả là không thể nói trước điều gì sẽ xảy ra với một Y tá Đại đội!

Tôi đem ý nghĩ “Nếu như…” đó hỏi Y tá Đại Đội, tên là Lê Đu, thì Đu nói: “Cậu cứ lo bò trắng răng! Từ hồi tớ về Đại đội làm Y tá đến nay làm gì có chuyện gì to tát như cậu nói. Thỉnh thoảng mới có người nhức đầu chóng mặt hoặc đau bụng đi ngoài té re! Cứ yên tâm đi! Trời sinh voi Trời sinh cỏ, nghĩ làm gì cho chóng già!”. Biết nói gì nữa ngoài việc cầu Bồ Tát phù hộ cho đừng có chuyện “chết người” xảy ra!

2.

Tôi và Lê Đu mau chóng thân nhau vì hai lý do: Tôi thuộc Trung đội Trắc thủ Ra-đa nhưng thường được cử xuống nhà bếp phụ giúp Tiểu đội Anh nuôi (vì Tiểu đội Anh nuôi thường xuyên thiếu người, có tới một nửa số người trong Tiểu đội Anh nuôi không thích làm Anh nuôi và thường bộc lộ sự bất mãn ấy bằng hình thức “nằm ỳ cải tiến” – tức giả bị bệnh, suốt ngày nằm trùm chăn, không ăn cũng không làm gì!). Y tá Lê Đu được bố trí ở chung với Quản lý Đại đội, tức người phụ trách nhà bếp Đại đội. Mỗi lần tôi được cử xuống giúp Nhà bếp thường ngồi uống trà với Quản lý và Lê Đu. Sau  khi biết tôi là con Bác sĩ và rất rành chuyện thuốc men, bệnh tật thì Lê Đu tỏ ra rất thân thiết với tôi, thường nhờ tôi ghi chép sổ sách xuất – nhập thuốc và phân loại, dán nhãn cho các loại thuốc của tủ thuốc Đại đội…

Lê Đu là con nhà nông, trình độ văn hóa mới tới cấp hai Trung học Phổ thông. Cái “bằng Y tá” của Lê Đu chỉ là lớp học cấp tốc ba tháng (chính quy là 9 tháng), cho nên có thể nói những người làm công tác nhân sự (ở quân đội gọi là cán bộ Quân lực, dân sự thì gọi là cán bộ Tổ chức) đã rất mạo hiểm khi giao tính mạng cả một Đại đội cho một Y tá như Lê Đu! Song, nhờ Trời, trong suốt thời gian Lê Đu “hành nghề” Y tá ở Đại đội không xảy ra sự cố nào chết người. Trái lại, bằng vào sự trợ giúp của Thần May mắn, Lê Đu đã lập được một số kỳ tích khiến nhiều người thành tâm tôn sùng Lê Đu như là Thần Y!

Làng Bát Tiên, nơi Đại đội chúng tôi đóng quân là một vùng non xanh nước biếc cho nên người xưa đã sáng tác ra câu chuyện suối Bát Tiên: con suối ở đây, chỗ lòng suối rộng và sâu, xung quanh có tám tảng đá cuội lớn nhẵn bóng, là nơi thường có tám Nàng Tiên tới tắm, vì thế cô gái nào muốn đẹp như Tiên thì hãy ra tắm. Quả thật con gái Làng này có vẻ nhiều người đẹp hơn các Làng lân cận, vì thế Làng có tên gọi là Bát Tiên. Cô gái tên Nụ cũng thường ra tắm ở suối Bát Tiên. Nụ đang ở tuổi trăng rằm nên đẹp lên từng ngày, có lẽ một phần cũng nhờ tắm suối Bát Tiên. Song, Nụ bỗng có sự thay đổi kỳ lạ: cái bụng cứ lớn dần lên như người có thai! Nụ không hiểu tại sao lại như thế nhưng tất cả mọi người – cả Làng – không ai tin Nụ, cứ khẳng định là Nụ đã “quan hệ” với ai và bắt phải khai ra kẻ nào là chủ nhân của cái “hoang thai” kia? Nhưng Nụ nào biết khai ra ai bây giờ vì thực sự Nụ không hề “quan hệ” với bất cứ ai! Các vị bô lão chức sắc trong Làng cho là Nụ ngoan cố nên quyết định xử phạt Nụ như tục lệ vốn có từ xa xưa của Làng: cho cô gái chửa hoang vào cái rọ lợn thả xuống sông để nhờ Hà Bá rửa sạch sự ô uế!

Y tá Lê Đu thường la cà trong Làng Bát Tiên nên biết chuyện của Nụ ngay từ khi Nụ bị nhốt trong trụ sở của Ủy Ban Xã bắt viết bản tự thú, khai ra ai là chủ nhân của cái hoang thai! Khi gặp tôi, Lê Đu nói: “Cái cô Nụ đó bị nhốt đã hai ngày rồi! Chúng ta phải nghĩ cách cứu người đẹp vì tớ tin là cô gái bị oan!”. Tôi bảo : “Đó là việc nên làm!... Tôi nhớ ra cái cô Nụ đó rồi! Đó là con gái út của ông Phó Chủ tịch xã! Cô ta rất nhiệt tình vận động gia đình cho chúng ta năm cây tre để làm lán trại! Cô ta có khuôn mặt rất trong sáng, đôi mắt rất hiền và nụ cười rất duyên! Đúng không?”. Lê Đu hối thúc: “Thôi, thôi, không phải làm văn tả người đẹp nữa mà là nghĩ cách cứu người! Nghĩ cách đi!”. “Thì tôi đang nghĩ đấy chứ!...Nếu như cả hai chúng ta cùng khẳng định cô Nụ bị oan thì tôi nghĩ ra thủ phạm là ai rồi!” – nói rồi tôi kéo Lê Đu ra suối Bát Tiên, chỗ lòng suối rộng có tám tảng đá huyền thoại kia! Nước suối quả là trong vắt, nhìn rõ từng viên đá cuội dưới lòng suối và vài con cá lòng đong, cá cờ tung tăng bơi lặn! Nhưng khi Lê Đu thò tay xuống khỏa nước thì không biết từ đâu, xuất hiện một đàn đỉa bơi theo kiểu uốn éo nhưng rất nhanh ra chỗ bàn tay của Lê Đu. Lê Đu vội rụt tay lại, nói  bâng quơ: “Sao mà nhiều đỉa thế?”. Tôi liền nói: “Đó chính là chủ nhân của cái hoang thai trong bụng cô Nụ đó!”. Lê Đu tròn mắt nhìn tôi: “Đừng có nói Trạng kiểu ấy! Cậu muốn nói là cô Nụ đã yêu anh chàng đội lốt Đỉa à?” – “Không phải người đội lốt đỉa mà là chính con đỉa đã chui vào bụng cô Nụ! Nó hút máu cô Nụ no nê tới mức căng phồng như quả bóng và làm cho bụng cô Nụ căng phồng lên như là có thai!” – “Không thể nào!...Tại sao cậu lại có ý nghĩ  kỳ quặc như thế: cái hoang thai thực ra là một con đỉa đã hút máu no căng?!”- “Chuyện này tôi đã gặp. Hồi bố tôi chuyển từ Quân Y sang Dân Y, có mở phòng Mạch một thời gian và đã xử lý khá nhiều ca bị đỉa chui vào tai, vào mũi, vào âm hộ và cả vào dương vật nữa!” – “Cậu không nói phét chứ?!” – “Tôi nói phét làm gì? Hồi đó, tôi và mẹ tôi làm phụ mổ cho bố tôi nên tôi không bao giờ quên những ca hiểm hóc như thế! Tôi còn nhớ có một bé gái chơi hạt cườm, bị một hạt chui vào tai, đến lúc hạt cườm nhú mầm mới biết! Nhưng cả cha mẹ cô bé đều nghe lời ông thầy bói cho đó là điềm lạ, Thần Cây mượn tai cô bé trú ngụ nên cứ để yên, sẽ có lộc lớn!...Đến khi lá cây cườm thò ra ngoài, gây đau nhức, cô bé không chịu nổi mới đến phòng mạch của bố tôi nhờ xử lý!...” – “Thôi, tôi tin rồi! Nhưng bây giờ làm sao mà nói để người ta tin và xử lý ra sao?” – “Tôi có người anh con ông bác, là Bác sĩ, Đội trưởng một Đội điều trị dã chiến hiện đang đóng trại ở cách chỗ chúng ta chỉ hơn ba kilômét. Ông tới đó nhờ ông anh tôi tới giúp, tất sẽ xong hết mọi chuyện!”.

Sau khi vụ hoang thai của cô gái tên Nụ được đưa ra ánh sáng, Y tá Lê Đu được Làng Bát Tiên mời tới nói chuyện Y học thường thức liên tục và lần nào cũng đón tiếp, đãi tiệc rất thịnh soạn, ai cũng gọi Lê Đu là Thần Y Hoa Đà tái sinh. Có mấy nhà muốn gả con gái cho Lê Đu nhưng Thần Y chưa quyết đám nào vì Lê Đu còn phải chờ đi học lên Bác sĩ, đến lúc có Bằng Bác sĩ  thì “Võng anh đi trước võng Nàng theo sau” cũng chưa muộn!...Tôi cũng rất ủng hộ việc Y tá Lê Đu đi học Bác sĩ vì nghĩ rất giản dị: Với khả năng của anh ta, khi có sự cố lớn tất sẽ xảy ra tử vong! Kiểu người như Lê Đu, chỉ thích hợp với việc làm chỗ đông người, còn có thể dựa dẫm vào anh
em đồng nghiệp. Còn hành nghề độc lập như thế này, biết dựa vào ai? Thần May mắn chỉ cho dựa hai ba lần mà thôi!

3.

Một hôm, Lê Đu rủ tôi vào một nhà quen ở trong Làng, mời uống rượu, đồ nhắm rất thịnh soạn. Uống tới chén thứ ba Lê Đu mới nói: “Tớ với cậu không họ hàng thân thích, quê cũng mỗi đứa mỗi nơi, vậy mà đã gặp nhau ở đây, thân thiết với nhau bao lâu nay, thì đó phải là duyên kỳ ngộ! Chúng ta có duyên kỳ ngộ! … Vì thế, hôm nay tớ không ngại nói thật lòng: có thương thì thương cho chót, có yêu thì yêu hết lòng! Việc đi học Bác sĩ của tớ chỉ thiếu cái bằng tốt nghiệp Trung học Phổ thông, trong khi đó cậu lại chẳng dùng đến nó làm gì!...”. Nghe Lê Đu nói đến đây, tôi hiểu ngay Lê Đu muốn gì vì thực ra, trước Lê Đu, đã có hai người xin tôi cái bằng Tốt nghiệp Trung học Phổ thông đó!...Không biết ai đã nghĩ ra chuyện dùng bản sao để thay bằng thật? Chính việc cho dùng bản sao để thay bằng thật này đã khiến cho những kẻ gian lận có điều kiện gian lận!

4.

Người ta hay nói “Quả đất tròn” để chỉ việc gặp lại người quen cũ ngỡ như không thể gặp lại! Khi còn làm báo, một lần tôi đi viết bài cho công tác xóa đói giảm nghèo ở một xã vùng sâu, vùng xa thì Chủ tịch Xã nói: “Nói thật tình với nhà báo, về công tác xóa đói giảm nghèo, xã tôi chưa làm được gì cho bà con. Có một số người từ đói nghèo vươn lên là do nỗ lực của chính họ từ khi có câu nói “Hãy tự cứu lấy mình!”. Bù vào đó, tôi muốn giới thiệu với nhà báo một điển hình bên Y tế, đó là người Y tá của Trạm Y tế Xã. Trạm Y tế Xã của tôi tuy nghèo về trang thiết bị nhưng hiệu quả chữa bệnh cứu người thì hơn hẳn mấy bệnh viện cấp Huyện, thậm chí có thể ngang ngửa với Bệnh viện Tỉnh! Vì thế, tôi muốn nhà báo viết bài làm sao để tỉnh và trung ương đầu tư nâng cấp lên thành một Bệnh viện lớn, quy mô hoành tráng! Vì tôi nghĩ việc xây dựng Bệnh viện là số Một vì khi ta có sức khỏe tốt thì có phải dời non lấp biển cũng làm được!”. Tôi vốn có tính cả nể nên đành tạm gác nhiệm vụ mà Tòa soạn giao cho về “cái vụ xóa đói giảm nghèo” mà đi theo ông Chủ tịch xã tới Trạm Y tế xã.

Trạm Y tế xã là một cái nhà ngói năm gian, trên một quả đồi thấp, được xây dựng từ thời chưa có nạn “rút ruột” các công trình xây dựng cho nên vẫn còn gần như nguyên dạng hình hài ban đầu, hình như được quét vôi thường xuyên hàng năm nên nhìn từ xa như mới. Xung quanh cái nhà ngói năm gian là những vườn hoa, vườn cây thuốc và có ba dãy nhà lá bao bọc ở ba phía phải, trái và phía sau, làm nhà ở cho nhân viên Trạm Y tế. Ba dãy nhà ở này cũng cao ráo, sạch sẽ tạo nên một cảm giác thanh bình như khi bước vào một công viên lớn.

Khi Chủ tịch Xã dẫn tôi vào phòng làm việc của trạm trưởng Trạm Y tế xã, tôi vừa đọc xong cái bảng gỗ nhỏ đặt trên bàn có in sơn chữ “Bác sĩ Lê Đu” thì người mặc áo Blu trắng đang ngồi sau bàn đứng dậy, từ từ đi đến bên tôi rồi nhào tới ôm chặt lấy tôi mà nghẹn ngào không nói nên lời!...

Hàn huyên xong, Lê Đu – chính là Lê Đu, Y tá Đại đội của tôi thời chiến tranh -, mới nói: “Đúng là hữu duyên thiên lý năng tương ngộ! Tớ và cậu quả là có duyên kỳ ngộ!...Chuyện giữa chúng ta đã qua từ lâu nhưng tớ luôn nhớ như vừa xảy ra! Quả là Thần May mắn đã nhập vào cậu nên tớ mới có cái bằng Bác sĩ đẹp như mơ! Và cũng chính vì chuyện đi học Bác sĩ này mà tớ đã có được một người vợ tuyệt vời! À, mà này, lại phải nói cái câu “Quả đất tròn” hoài vì người vợ tuyệt vời của tớ lại là người quen biết của cậu đó! Có muốn gặp lại bạn cũ không?”. Lê Đu vừa định dắt tôi đi thì một người phụ nữ mặc áo Blu trắng nhẹ nhàng bước vào! Nếu như không có những lời nói trước đó của Lê Đu có lẽ tôi đã chưa nhận ra ngay cô bạn học cùng với tôi hồi lớp Mười trường Trung học phổ thông: không còn là Minh Tâm, cô gái luôn buộc hai bím tóc ngắn quá vai, lúc đi, nhất là lúc chạy cứ đung đưa trước ngực khiến cho bao chàng trai ngơ ngẩn, mà đã là một người thầy thuốc điềm đạm, luôn có nụ cười phúc hậu và cái nhìn trìu mến! Lê Đu thấy tôi nhận ra Minh Tâm thì nói: “Thật là cuộc hội ngộ trên cả tuyệt vời! Hai người hàn huyên đi nhé, để tôi về nổi lửa thết đãi khách quý!”.

5.

Đúng là ghét của nào Trời trao của ấy! Tôi ghét nhất nam nhi quân tử mà dốt thì lại lấy một người chồng đại dốt. Cho đến tận bây giờ, anh ta vẫn chưa thuộc hết tên các loại thuốc thông dụng và bệnh nào thì dùng thuốc nào?
- Thế thì tại sao anh ta lại qua được các “cửa ải” thi cử ở Đại học?
- Cái đó thì một nhà báo lăn lộn trường đời nhiều như cậu phải tự trả lời!
- Vậy thì cái gì đã khiến cậu làm vợ anh ta từ đó đến giờ?
- Cậu hỏi hay lắm! Người phụ nữ khi không tự nguyện thì không ai có thể cưỡng bức được! Vào năm cuối, cái ông thầy tên Ái Nữ ấy đã cưỡng bức tớ. Khi chống cự, tớ đã quá mạnh tay đập vỡ đầu ông ta, cho nên phải nhận cái án Ngộ sát! Lúc ấy, tớ chỉ muốn chết thì Lê Đu là người duy nhất vào tù nuôi tớ, an ủi tớ! Khi tớ ra tù, Lê Đu đã cho tớ được làm người Bác sĩ thực thụ bằng cách cho tớ vào làm việc ở

Trạm Y tế xã của anh ta, với chức danh hợp pháp là Y tá!
- Như thế người Y tá xã mà ông Chủ tịch xã muốn tớ viết bài chính là cậu?
- Đúng vậy! Có lẽ cậu sẽ khó viết vì cái bằng Bác sĩ mà Lê Đu đang sử dụng hợp pháp thực ra lại dùng để cho tớ hành nghề! Lê Đu không có năng lực chuyên môn nhưng có cái bằng BS hợp pháp, còn tớ thì lại không có cái bằng BS hợp pháp đó! Nếu viết công khai chuyện này ra thì Lê Đu sẽ bị thu lại bằng BS còn tớ thì chưa chắc lấy được cái bằng BS đó!
- Nếu vậy lại thất hứa với ông Chủ tịch Xã! Ông ta đã đón tiếp rất nhiệt tình!
- Chuyện đó khỏi lo, để tớ nói khéo hộ vì tớ là “ân công” của gia đình ông Chủ tịch, vợ và con ông ta đều được tớ kéo lại từ tay Tử thần!
- Thực ra thì lần đi xa này rất thành công, thu hoạch rất lớn! Tớ vừa được sống lại thời lính tráng với anh chàng Y tá Đại đội Lê Đu vừa được mơ màng trong màu hoa phượng với cô bạn học lớp Mười Minh Tâm!...

Chúng tôi còn muốn nói nhiều chuyện nhưng có điện thoại từ Tòa soạn gọi về. Lúc chia tay vợ chồng Lê Đu, Minh Tâm đưa cho tôi một cái phong bì và nói: “Cậu có thể coi đây như là một cái túi Cẩm nang. Khi nào cậu cảm thấy đau đớn ê chề, thất bại nặng nề, cô đơn tuyệt vọng tứ bề thì mở ra coi, cậu sẽ có cách giải thoát!”. Tôi cầm cái phong bì về, để trong một cuốn sách rồi quên luôn! Khoảng một năm sau thì nhận được điện thoại của Minh Tâm mời lên chơi ăn tân gia, mới xây nhà rất đẹp. Khi tôi lên tới nhà vợ chồng Lê Đu, Minh Tâm thì thấy nhà mới xây quả là rất đẹp, tôi có nằm mơ cũng khó mà có được! Một lát sau, Minh Tâm hỏi: “Cậu chắc là chưa mở cái phong bì Cẩm Nang chứ?”. Tôi nói ngay: “Chưa! Vì tớ đã đến cảnh ngộ đường cùng đâu!”.Minh Tâm cười hóm hỉnh: “Thế cậu không muốn đoán xem trong đó tớ viết gì à?” – “À! Cũng định bóc ngay ra xem sao nhưng sợ vi phạm luật chơi!” – “Luật cái con khỉ! Thế mà tớ cứ nghĩ là về tới nhà là cậu bóc ra xem ngay! Ai ngờ cậu đã không còn như ngày xưa nữa!” – “Đúng là tớ đã khác xưa nhiều!...Vậy cậu có thể nói cho tớ biết trong cái phong bì ấy viết gì không?” – “Trong cái phong bì ấy có tờ 100 đô và một tờ giấy chỉ viết có ba chữ…” . Minh Tâm chưa kịp nói ba chữ ấy là gì thì Lê Đu đã kêu vào nhà nhập tiệc. Lu bu với bữa tiệc Tân gia, Minh Tâm và tôi không có dịp nói chuyện với nhau nữa!

Khi về tới nhà, tôi lập tức đi tìm cái phong bì Cẩm nang nhưng tìm hoài không thấy! Tôi gọi điện thoại cho Minh Tâm để hỏi nhưng chỉ có câu “ngoài vùng phủ sóng” cứ lặp lại hoài!./.

Sài Gòn, Tháng 3-2010
Đỗ Ngọc Thạch
Số lần đọc: 1282
Ngày đăng: 04.03.2010
[ Trở lại ] [ Tiếp ]
In tác phẩm

y tá xã

 
Y tá xã
Đỗ Ngọc Thạch
1.

Thời chiến tranh chống Mỹ, các đơn vị của bộ đội Ra-đa được biên chế thành một Đại đội độc lâp, trực thuộc Trung đoàn, chứ không có cấp Tiểu đoàn như ở bộ binh…Mỗi Đại đội chỉ có một Y tá lo nhiệm vụ chăm sóc sức khỏe của bộ đội. Các Đại đội Ra-đa luôn phải cơ động, đóng quân nay đây mai đó, thường là xa nơi thị trấn, thị xã hoặc thành phố, tức nơi có Bệnh viện. Vì thế, nếu như Đại đội có bệnh nặng hoặc bị thương vong (do địa điểm đóng quân bị không kích – ném bom) thì quả là không thể nói trước điều gì sẽ xảy ra với một Y tá Đại đội!

Tôi đem ý nghĩ “Nếu như…” đó hỏi Y tá Đại Đội, tên là Lê Đu, thì Đu nói: “Cậu cứ lo bò trắng răng! Từ hồi tớ về Đại đội làm Y tá đến nay làm gì có chuyện gì to tát như cậu nói. Thỉnh thoảng mới có người nhức đầu chóng mặt hoặc đau bụng đi ngoài té re! Cứ yên tâm đi! Trời sinh voi Trời sinh cỏ, nghĩ làm gì cho chóng già!”. Biết nói gì nữa ngoài việc cầu Bồ Tát phù hộ cho đừng có chuyện “chết người” xảy ra!

2.

Tôi và Lê Đu mau chóng thân nhau vì hai lý do: Tôi thuộc Trung đội Trắc thủ Ra-đa nhưng thường được cử xuống nhà bếp phụ giúp Tiểu đội Anh nuôi (vì Tiểu đội Anh nuôi thường xuyên thiếu người, có tới một nửa số người trong Tiểu đội Anh nuôi không thích làm Anh nuôi và thường bộc lộ sự bất mãn ấy bằng hình thức “nằm ỳ cải tiến” – tức giả bị bệnh, suốt ngày nằm trùm chăn, không ăn cũng không làm gì!). Y tá Lê Đu được bố trí ở chung với Quản lý Đại đội, tức người phụ trách nhà bếp Đại đội. Mỗi lần tôi được cử xuống giúp Nhà bếp thường ngồi uống trà với Quản lý và Lê Đu. Sau  khi biết tôi là con Bác sĩ và rất rành chuyện thuốc men, bệnh tật thì Lê Đu tỏ ra rất thân thiết với tôi, thường nhờ tôi ghi chép sổ sách xuất – nhập thuốc và phân loại, dán nhãn cho các loại thuốc của tủ thuốc Đại đội…

Lê Đu là con nhà nông, trình độ văn hóa mới tới cấp hai Trung học Phổ thông. Cái “bằng Y tá” của Lê Đu chỉ là lớp học cấp tốc ba tháng (chính quy là 9 tháng), cho nên có thể nói những người làm công tác nhân sự (ở quân đội gọi là cán bộ Quân lực, dân sự thì gọi là cán bộ Tổ chức) đã rất mạo hiểm khi giao tính mạng cả một Đại đội cho một Y tá như Lê Đu! Song, nhờ Trời, trong suốt thời gian Lê Đu “hành nghề” Y tá ở Đại đội không xảy ra sự cố nào chết người. Trái lại, bằng vào sự trợ giúp của Thần May mắn, Lê Đu đã lập được một số kỳ tích khiến nhiều người thành tâm tôn sùng Lê Đu như là Thần Y!

Làng Bát Tiên, nơi Đại đội chúng tôi đóng quân là một vùng non xanh nước biếc cho nên người xưa đã sáng tác ra câu chuyện suối Bát Tiên: con suối ở đây, chỗ lòng suối rộng và sâu, xung quanh có tám tảng đá cuội lớn nhẵn bóng, là nơi thường có tám Nàng Tiên tới tắm, vì thế cô gái nào muốn đẹp như Tiên thì hãy ra tắm. Quả thật con gái Làng này có vẻ nhiều người đẹp hơn các Làng lân cận, vì thế Làng có tên gọi là Bát Tiên. Cô gái tên Nụ cũng thường ra tắm ở suối Bát Tiên. Nụ đang ở tuổi trăng rằm nên đẹp lên từng ngày, có lẽ một phần cũng nhờ tắm suối Bát Tiên. Song, Nụ bỗng có sự thay đổi kỳ lạ: cái bụng cứ lớn dần lên như người có thai! Nụ không hiểu tại sao lại như thế nhưng tất cả mọi người – cả Làng – không ai tin Nụ, cứ khẳng định là Nụ đã “quan hệ” với ai và bắt phải khai ra kẻ nào là chủ nhân của cái “hoang thai” kia? Nhưng Nụ nào biết khai ra ai bây giờ vì thực sự Nụ không hề “quan hệ” với bất cứ ai! Các vị bô lão chức sắc trong Làng cho là Nụ ngoan cố nên quyết định xử phạt Nụ như tục lệ vốn có từ xa xưa của Làng: cho cô gái chửa hoang vào cái rọ lợn thả xuống sông để nhờ Hà Bá rửa sạch sự ô uế!

Y tá Lê Đu thường la cà trong Làng Bát Tiên nên biết chuyện của Nụ ngay từ khi Nụ bị nhốt trong trụ sở của Ủy Ban Xã bắt viết bản tự thú, khai ra ai là chủ nhân của cái hoang thai! Khi gặp tôi, Lê Đu nói: “Cái cô Nụ đó bị nhốt đã hai ngày rồi! Chúng ta phải nghĩ cách cứu người đẹp vì tớ tin là cô gái bị oan!”. Tôi bảo : “Đó là việc nên làm!... Tôi nhớ ra cái cô Nụ đó rồi! Đó là con gái út của ông Phó Chủ tịch xã! Cô ta rất nhiệt tình vận động gia đình cho chúng ta năm cây tre để làm lán trại! Cô ta có khuôn mặt rất trong sáng, đôi mắt rất hiền và nụ cười rất duyên! Đúng không?”. Lê Đu hối thúc: “Thôi, thôi, không phải làm văn tả người đẹp nữa mà là nghĩ cách cứu người! Nghĩ cách đi!”. “Thì tôi đang nghĩ đấy chứ!...Nếu như cả hai chúng ta cùng khẳng định cô Nụ bị oan thì tôi nghĩ ra thủ phạm là ai rồi!” – nói rồi tôi kéo Lê Đu ra suối Bát Tiên, chỗ lòng suối rộng có tám tảng đá huyền thoại kia! Nước suối quả là trong vắt, nhìn rõ từng viên đá cuội dưới lòng suối và vài con cá lòng đong, cá cờ tung tăng bơi lặn! Nhưng khi Lê Đu thò tay xuống khỏa nước thì không biết từ đâu, xuất hiện một đàn đỉa bơi theo kiểu uốn éo nhưng rất nhanh ra chỗ bàn tay của Lê Đu. Lê Đu vội rụt tay lại, nói  bâng quơ: “Sao mà nhiều đỉa thế?”. Tôi liền nói: “Đó chính là chủ nhân của cái hoang thai trong bụng cô Nụ đó!”. Lê Đu tròn mắt nhìn tôi: “Đừng có nói Trạng kiểu ấy! Cậu muốn nói là cô Nụ đã yêu anh chàng đội lốt Đỉa à?” – “Không phải người đội lốt đỉa mà là chính con đỉa đã chui vào bụng cô Nụ! Nó hút máu cô Nụ no nê tới mức căng phồng như quả bóng và làm cho bụng cô Nụ căng phồng lên như là có thai!” – “Không thể nào!...Tại sao cậu lại có ý nghĩ  kỳ quặc như thế: cái hoang thai thực ra là một con đỉa đã hút máu no căng?!”- “Chuyện này tôi đã gặp. Hồi bố tôi chuyển từ Quân Y sang Dân Y, có mở phòng Mạch một thời gian và đã xử lý khá nhiều ca bị đỉa chui vào tai, vào mũi, vào âm hộ và cả vào dương vật nữa!” – “Cậu không nói phét chứ?!” – “Tôi nói phét làm gì? Hồi đó, tôi và mẹ tôi làm phụ mổ cho bố tôi nên tôi không bao giờ quên những ca hiểm hóc như thế! Tôi còn nhớ có một bé gái chơi hạt cườm, bị một hạt chui vào tai, đến lúc hạt cườm nhú mầm mới biết! Nhưng cả cha mẹ cô bé đều nghe lời ông thầy bói cho đó là điềm lạ, Thần Cây mượn tai cô bé trú ngụ nên cứ để yên, sẽ có lộc lớn!...Đến khi lá cây cườm thò ra ngoài, gây đau nhức, cô bé không chịu nổi mới đến phòng mạch của bố tôi nhờ xử lý!...” – “Thôi, tôi tin rồi! Nhưng bây giờ làm sao mà nói để người ta tin và xử lý ra sao?” – “Tôi có người anh con ông bác, là Bác sĩ, Đội trưởng một Đội điều trị dã chiến hiện đang đóng trại ở cách chỗ chúng ta chỉ hơn ba kilômét. Ông tới đó nhờ ông anh tôi tới giúp, tất sẽ xong hết mọi chuyện!”.

Sau khi vụ hoang thai của cô gái tên Nụ được đưa ra ánh sáng, Y tá Lê Đu được Làng Bát Tiên mời tới nói chuyện Y học thường thức liên tục và lần nào cũng đón tiếp, đãi tiệc rất thịnh soạn, ai cũng gọi Lê Đu là Thần Y Hoa Đà tái sinh. Có mấy nhà muốn gả con gái cho Lê Đu nhưng Thần Y chưa quyết đám nào vì Lê Đu còn phải chờ đi học lên Bác sĩ, đến lúc có Bằng Bác sĩ  thì “Võng anh đi trước võng Nàng theo sau” cũng chưa muộn!...Tôi cũng rất ủng hộ việc Y tá Lê Đu đi học Bác sĩ vì nghĩ rất giản dị: Với khả năng của anh ta, khi có sự cố lớn tất sẽ xảy ra tử vong! Kiểu người như Lê Đu, chỉ thích hợp với việc làm chỗ đông người, còn có thể dựa dẫm vào anh
em đồng nghiệp. Còn hành nghề độc lập như thế này, biết dựa vào ai? Thần May mắn chỉ cho dựa hai ba lần mà thôi!

3.

Một hôm, Lê Đu rủ tôi vào một nhà quen ở trong Làng, mời uống rượu, đồ nhắm rất thịnh soạn. Uống tới chén thứ ba Lê Đu mới nói: “Tớ với cậu không họ hàng thân thích, quê cũng mỗi đứa mỗi nơi, vậy mà đã gặp nhau ở đây, thân thiết với nhau bao lâu nay, thì đó phải là duyên kỳ ngộ! Chúng ta có duyên kỳ ngộ! … Vì thế, hôm nay tớ không ngại nói thật lòng: có thương thì thương cho chót, có yêu thì yêu hết lòng! Việc đi học Bác sĩ của tớ chỉ thiếu cái bằng tốt nghiệp Trung học Phổ thông, trong khi đó cậu lại chẳng dùng đến nó làm gì!...”. Nghe Lê Đu nói đến đây, tôi hiểu ngay Lê Đu muốn gì vì thực ra, trước Lê Đu, đã có hai người xin tôi cái bằng Tốt nghiệp Trung học Phổ thông đó!...Không biết ai đã nghĩ ra chuyện dùng bản sao để thay bằng thật? Chính việc cho dùng bản sao để thay bằng thật này đã khiến cho những kẻ gian lận có điều kiện gian lận!

4.

Người ta hay nói “Quả đất tròn” để chỉ việc gặp lại người quen cũ ngỡ như không thể gặp lại! Khi còn làm báo, một lần tôi đi viết bài cho công tác xóa đói giảm nghèo ở một xã vùng sâu, vùng xa thì Chủ tịch Xã nói: “Nói thật tình với nhà báo, về công tác xóa đói giảm nghèo, xã tôi chưa làm được gì cho bà con. Có một số người từ đói nghèo vươn lên là do nỗ lực của chính họ từ khi có câu nói “Hãy tự cứu lấy mình!”. Bù vào đó, tôi muốn giới thiệu với nhà báo một điển hình bên Y tế, đó là người Y tá của Trạm Y tế Xã. Trạm Y tế Xã của tôi tuy nghèo về trang thiết bị nhưng hiệu quả chữa bệnh cứu người thì hơn hẳn mấy bệnh viện cấp Huyện, thậm chí có thể ngang ngửa với Bệnh viện Tỉnh! Vì thế, tôi muốn nhà báo viết bài làm sao để tỉnh và trung ương đầu tư nâng cấp lên thành một Bệnh viện lớn, quy mô hoành tráng! Vì tôi nghĩ việc xây dựng Bệnh viện là số Một vì khi ta có sức khỏe tốt thì có phải dời non lấp biển cũng làm được!”. Tôi vốn có tính cả nể nên đành tạm gác nhiệm vụ mà Tòa soạn giao cho về “cái vụ xóa đói giảm nghèo” mà đi theo ông Chủ tịch xã tới Trạm Y tế xã.

Trạm Y tế xã là một cái nhà ngói năm gian, trên một quả đồi thấp, được xây dựng từ thời chưa có nạn “rút ruột” các công trình xây dựng cho nên vẫn còn gần như nguyên dạng hình hài ban đầu, hình như được quét vôi thường xuyên hàng năm nên nhìn từ xa như mới. Xung quanh cái nhà ngói năm gian là những vườn hoa, vườn cây thuốc và có ba dãy nhà lá bao bọc ở ba phía phải, trái và phía sau, làm nhà ở cho nhân viên Trạm Y tế. Ba dãy nhà ở này cũng cao ráo, sạch sẽ tạo nên một cảm giác thanh bình như khi bước vào một công viên lớn.

Khi Chủ tịch Xã dẫn tôi vào phòng làm việc của trạm trưởng Trạm Y tế xã, tôi vừa đọc xong cái bảng gỗ nhỏ đặt trên bàn có in sơn chữ “Bác sĩ Lê Đu” thì người mặc áo Blu trắng đang ngồi sau bàn đứng dậy, từ từ đi đến bên tôi rồi nhào tới ôm chặt lấy tôi mà nghẹn ngào không nói nên lời!...

Hàn huyên xong, Lê Đu – chính là Lê Đu, Y tá Đại đội của tôi thời chiến tranh -, mới nói: “Đúng là hữu duyên thiên lý năng tương ngộ! Tớ và cậu quả là có duyên kỳ ngộ!...Chuyện giữa chúng ta đã qua từ lâu nhưng tớ luôn nhớ như vừa xảy ra! Quả là Thần May mắn đã nhập vào cậu nên tớ mới có cái bằng Bác sĩ đẹp như mơ! Và cũng chính vì chuyện đi học Bác sĩ này mà tớ đã có được một người vợ tuyệt vời! À, mà này, lại phải nói cái câu “Quả đất tròn” hoài vì người vợ tuyệt vời của tớ lại là người quen biết của cậu đó! Có muốn gặp lại bạn cũ không?”. Lê Đu vừa định dắt tôi đi thì một người phụ nữ mặc áo Blu trắng nhẹ nhàng bước vào! Nếu như không có những lời nói trước đó của Lê Đu có lẽ tôi đã chưa nhận ra ngay cô bạn học cùng với tôi hồi lớp Mười trường Trung học phổ thông: không còn là Minh Tâm, cô gái luôn buộc hai bím tóc ngắn quá vai, lúc đi, nhất là lúc chạy cứ đung đưa trước ngực khiến cho bao chàng trai ngơ ngẩn, mà đã là một người thầy thuốc điềm đạm, luôn có nụ cười phúc hậu và cái nhìn trìu mến! Lê Đu thấy tôi nhận ra Minh Tâm thì nói: “Thật là cuộc hội ngộ trên cả tuyệt vời! Hai người hàn huyên đi nhé, để tôi về nổi lửa thết đãi khách quý!”.

5.

Đúng là ghét của nào Trời trao của ấy! Tôi ghét nhất nam nhi quân tử mà dốt thì lại lấy một người chồng đại dốt. Cho đến tận bây giờ, anh ta vẫn chưa thuộc hết tên các loại thuốc thông dụng và bệnh nào thì dùng thuốc nào?
- Thế thì tại sao anh ta lại qua được các “cửa ải” thi cử ở Đại học?
- Cái đó thì một nhà báo lăn lộn trường đời nhiều như cậu phải tự trả lời!
- Vậy thì cái gì đã khiến cậu làm vợ anh ta từ đó đến giờ?
- Cậu hỏi hay lắm! Người phụ nữ khi không tự nguyện thì không ai có thể cưỡng bức được! Vào năm cuối, cái ông thầy tên Ái Nữ ấy đã cưỡng bức tớ. Khi chống cự, tớ đã quá mạnh tay đập vỡ đầu ông ta, cho nên phải nhận cái án Ngộ sát! Lúc ấy, tớ chỉ muốn chết thì Lê Đu là người duy nhất vào tù nuôi tớ, an ủi tớ! Khi tớ ra tù, Lê Đu đã cho tớ được làm người Bác sĩ thực thụ bằng cách cho tớ vào làm việc ở

Trạm Y tế xã của anh ta, với chức danh hợp pháp là Y tá!
- Như thế người Y tá xã mà ông Chủ tịch xã muốn tớ viết bài chính là cậu?
- Đúng vậy! Có lẽ cậu sẽ khó viết vì cái bằng Bác sĩ mà Lê Đu đang sử dụng hợp pháp thực ra lại dùng để cho tớ hành nghề! Lê Đu không có năng lực chuyên môn nhưng có cái bằng BS hợp pháp, còn tớ thì lại không có cái bằng BS hợp pháp đó! Nếu viết công khai chuyện này ra thì Lê Đu sẽ bị thu lại bằng BS còn tớ thì chưa chắc lấy được cái bằng BS đó!
- Nếu vậy lại thất hứa với ông Chủ tịch Xã! Ông ta đã đón tiếp rất nhiệt tình!
- Chuyện đó khỏi lo, để tớ nói khéo hộ vì tớ là “ân công” của gia đình ông Chủ tịch, vợ và con ông ta đều được tớ kéo lại từ tay Tử thần!
- Thực ra thì lần đi xa này rất thành công, thu hoạch rất lớn! Tớ vừa được sống lại thời lính tráng với anh chàng Y tá Đại đội Lê Đu vừa được mơ màng trong màu hoa phượng với cô bạn học lớp Mười Minh Tâm!...

Chúng tôi còn muốn nói nhiều chuyện nhưng có điện thoại từ Tòa soạn gọi về. Lúc chia tay vợ chồng Lê Đu, Minh Tâm đưa cho tôi một cái phong bì và nói: “Cậu có thể coi đây như là một cái túi Cẩm nang. Khi nào cậu cảm thấy đau đớn ê chề, thất bại nặng nề, cô đơn tuyệt vọng tứ bề thì mở ra coi, cậu sẽ có cách giải thoát!”. Tôi cầm cái phong bì về, để trong một cuốn sách rồi quên luôn! Khoảng một năm sau thì nhận được điện thoại của Minh Tâm mời lên chơi ăn tân gia, mới xây nhà rất đẹp. Khi tôi lên tới nhà vợ chồng Lê Đu, Minh Tâm thì thấy nhà mới xây quả là rất đẹp, tôi có nằm mơ cũng khó mà có được! Một lát sau, Minh Tâm hỏi: “Cậu chắc là chưa mở cái phong bì Cẩm Nang chứ?”. Tôi nói ngay: “Chưa! Vì tớ đã đến cảnh ngộ đường cùng đâu!”.Minh Tâm cười hóm hỉnh: “Thế cậu không muốn đoán xem trong đó tớ viết gì à?” – “À! Cũng định bóc ngay ra xem sao nhưng sợ vi phạm luật chơi!” – “Luật cái con khỉ! Thế mà tớ cứ nghĩ là về tới nhà là cậu bóc ra xem ngay! Ai ngờ cậu đã không còn như ngày xưa nữa!” – “Đúng là tớ đã khác xưa nhiều!...Vậy cậu có thể nói cho tớ biết trong cái phong bì ấy viết gì không?” – “Trong cái phong bì ấy có tờ 100 đô và một tờ giấy chỉ viết có ba chữ…” . Minh Tâm chưa kịp nói ba chữ ấy là gì thì Lê Đu đã kêu vào nhà nhập tiệc. Lu bu với bữa tiệc Tân gia, Minh Tâm và tôi không có dịp nói chuyện với nhau nữa!

Khi về tới nhà, tôi lập tức đi tìm cái phong bì Cẩm nang nhưng tìm hoài không thấy! Tôi gọi điện thoại cho Minh Tâm để hỏi nhưng chỉ có câu “ngoài vùng phủ sóng” cứ lặp lại hoài!./.

Sài Gòn, Tháng 3-2010
Đỗ Ngọc Thạch
Số lần đọc: 1282
Ngày đăng: 04.03.2010
[ Trở lại ] [ Tiếp ]
In tác phẩm

Thứ Ba, 4 tháng 8, 2015

truyện ngắn Đỗ Ngọc Thạch

nhận xét về truyện ngắn Đỗ Ngọc Thạch:

Đỗ Minh Tuấn
Đỗ Minh Tuấn21 tháng 10 11:18
Anh THạch ơi! Em chưa đọc hết các truyện của anh nhưng cái chuyện anh mới post em thấy rất điện ảnh. Những truyện của anh có cái nào làm phim chưa? Em thấy có những tình huống sâu sắc thíu vị và nhiều chi tiết đời sống, có thể chắp nối lại phát triển thành phim dài tập?

Một truyện ngắn của Thạch:
 
Bạn học lớp hai
Đỗ Ngọc Thạch
1.

Trong tất cả các mối quan hệ giữa con người với con người thì mối quan hệ Bằng hữu (Bạn bè) thiên biến vạn hóa, khó xác định nhất. Nếu muốn so sánh với một cái gì đó trong cuộc sống hiện đại thì có thể nghĩ tới Thế giới Mạng (Internet) – thực và ảo lẫn lộn, biến hóa khôn lường!...

Trong các  “loại hình” bằng hữu thì bạn thả diều chăn trâu (bạn tuổi thơ), bạn tuổi hoa phượng  (bạn học – đồng học, đồng môn), bạn chiến đấu trong cùng chiến hào (bạn lính -đồng đội) là ba mối quan hệ đẹp nhất! Có thể mọi người suy nghĩ khác, nhưng tôi tin rằng sau khi đọc xong cáiTruyện ngắn này, sẽ đồng cảm với tác giả…

Trong ba loại hình bằng hữu vừa nói trên, đối với tôi, Bạn học để lại nhiều kỷ niệm nhớ đời , và tôi nghĩ rằng rất hiếm có người có hoàn cảnh rất đặc biệt như tôi:
-Thời gian đi học dài kéo dài từ 10 năm phổ thông qua 4 năm đại học, xen kẽ vào 4 năm đi chiến đấu ở binh chủng Ra-đa, với tôi lại thêm 1 năm đại học vì tôi học xong năm thứ nhất Khoa Toán thì chuyển sang Khoa Văn (Đại học Tổng hợp Hà Nội);
- Do 10 năm phổ thông tôi học ở Mười trường (lớp 1 ở  Hà Nội học kỳ 1 và  học kỳ 2 ở  trường Nam Tiểu học Thị xã Hà Đông – Tỉnh Hà Đông; lớp 2 ở trường Tiểu học Thị xã VĩnhYên – tỉnh Vĩnh Yên; lớp 3 ở trường Tiểu học Ô Đông Mác – Hà Nội; lớp 4 ở trường Gia Sàng, huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên; lớp 5 ở trường Lương Ngọc Quyến, tỉnh Thái Nguyên; lớp 6 ở trường Ngô Quyền, TP.Hải Phòng; lớp 7 ở trường Đằng Giang, huyện Hải An, TP. Hải Phòng; lớp 8 ở trường Thái Phiên, TP. Hải Phòng; lớp 9 ở trường Ngô Quyền, TP.HP; lớp 10 ở trường Hải An, TP. Hải Phòng) nên số bạn học là rất nhiều!

Khi đã lùi xa cái tuổi học trò, nhiều lúc nhìn lại, hầu như không ai là không thấy nó đẹp kỳ lạ và đều muốn “thời gian quay trở lại”!... Và với tôi, thật là ngẫu nhiên, cứ vào dịp mùa hoa phượng nở đỏ rực cả trời xanh, tôi lại gặp một người bạn học cũ, ngay giữa cuộc đời chứ không phải chỉ trong những giấc mơ!... Truyện ngắn này nói về việc gặp lại hai người bạn học từ lớp 2 !...

2.

Năm lớp 2, tôi học ở một trường tiểu học của Thị xã Vĩnh Yên. Tôi không còn nhớ những phòng học của trường tôi như thế nào, nhưng rất nhớ con đường vào trường: Từ đường cái lớn phải đi ngoằn nghoèo một hồi lâu mới tới trường. Thầy giáo của lớp tôi tên là Tảo. Tôi còn nhớ thầy có dáng cao gày, tóc đã điểm bạc… Cuối năm, thầy Tảo gọi tôi tới nhà giúp thầy cộng điểm cho lớp. Cách xếp hạng là cộng tất cả các điểm của học kỳ 2 (học kỳ 1 đã làm khi kết thúc học kỳ 1) rồi chia ra số lần có điểm lấy bình quân, số điểm bình quân của học kỳ 2 lại cộng với số điểm bình quân của học kỳ 1 rồi chia 2 lấy điểm bình quân cả năm. Đây là điểm để xếp hạng cả năm. Điểm bình quân của tôi cao nhất là 4,8 (thời đó cho điểm theo hệ số 5), thứ nhì là em trai tôi, được 4,5, thứ ba là một bạn tên Bản, được 4,2. Đúng quy định thì ba người này sẽ xếp thứ nhất, nhì và ba. Nhưng thầy Tảo nói: “Hai anh em cậu lấy hết phần thưởng thì không công bằng. Bây giờ xếp 2 anh em Thứ Nhất, Bản thứ nhì và lấy thêm Lan, được 4,0 xếp thứ ba!” Tưởng thầy nói đùa, ai ngờ đến hôm tổng kết năm học, kết quả đó là chính thức. Mỗi hạng Nhất, nhì, ba có một giấy khen và một gói phần thưởng. Đọc quyết định xong, gọi chúng tôi lên nhận thưởng và giấy khen, hạng nhất của 2 anh em tôi chỉ có 1 tờ giấy khen (viết tên cả hai) và 1 gói phần thưởng! Tôi bảo em tôi nhận rồi chạy một mạch ra con đường ngoằn nghoèo!...Con đường ngoằn nghoèo này có nhiều lối rẽ đi vào các khu dân cư (nay chắc là đã thay đổi nhiều), các lối rẽ này chỉ là đường đất, trời mưa thì đi lại khó khăn do trơn trượt, nhưng lúc nắng ráo thì là chỗ chơi đáo lỗ tuyệt vời…Trong trường cấm chơi đáo nên tôi thường ra đây chơi với đám trẻ con dân phố và tôi chơi vào loại “mả” ( từ dùng chỉ người chơi giỏi). Hôm đó, tôi đã đại thắng, chọi bách phát bách trúng và thả lỗ đáo thì không trượt lần nào! Khi em tôi ra kiếm tôi để đi về thì “chiến lợi phẩm” đã đựng căng phồng trong cái cặp da! Tôi dẫn người em vào một cửa hàng Ăn uống (lúc đó chủ yếu là của Mậu dịch, tức Nhà nước chứ chưa có hàng ăn tư nhân đầy nhóc như bây giờ) và gọi những món ngon nhất, bày kín mặt bàn như trong phim Tàu, đó là phần thưởng xứng đáng cho người xếp thứ Nhất, vừa ăn tôi vừa nghĩ như vậy!...(Nói qua vài dòng về cái trò chơi đáo lỗ này. Cách chơi phổ biến là khoét một cái lỗ có đường kính bằng đồng tiền Bảo Đại, vạch một đường sát lỗ đáo và vạch một đường cách khoảng 2 mét để cho người chơi đứng. Khi người chơi tung một nắm khoảng chục đồng tiền (thường là tiền nhôm, gọi là hào, không có lỗ) lên trên vạch có lỗ đáo, nếu có dính đôi, hoặc ba, bốn, thì được chọi, bằng một đồng cái, thường là ghép 2 đồng tiền loại nặng (hoặc đổ chì lấy từ ống đựng thuốc đánh răng đã dùng hết). Người chọi mà chọi trúng cái dính đôi cho tách ra là thắng. Nếu không có dính đôi thì đối phương sẽ thách chọi một đồng hào nào đó hoặc thả đồng cái trúng vào lỗ đáo!...Có một câu thành ngữ “Mắt như lỗ đáo” là nói về những người có đôi hốc mắt to và sâu như cái lỗ đáo! Một cách nói thông dụng của cuộc sống được hình thành từ một trò chơi con trẻ thì trò chơi đó phải rất phổ biến, rất hấp dẫn, rấtthịnh trong cuộc sống!)…

Năm học đã hết, mùa hè đã về từ bao giờ, hoa phượng đỏ rực khắp nơi. Chắc là các bạn học của tôi đang Nghỉ Hè tại gia hoặc đi về quê ngoại, nội, hoặc đi tắm biển, tùy người…Nhưng tôi không được Nghỉ Hè mà ngày mai, gia đình tôi lại làm một cuộc di chuyển nữa: về Hà Nội! (Cho đến lúc này, gia đình tôi đã chuyển nhà ba lần: sau giải phóng Thủ đô chuyển từ quê về Hà Nội- bố tôi là BS Quân Y, làm việc ở BV l08, rồi chuyển từ Hà Nội về Hà Đông- BV 103, từ Hà Đông chuyển tới Vĩnh Yên- Quân Y viện 9). Cứ như là bàn chân tự tìm đường mà đi, tôi đã đứng giữa sân trường từ lúc nào! Các phòng học cứ quay vun vút trước mặt tôi như là cái đèn cù, rồi tất cả những hình ảnh của năm học vừa qua vụt hiện về rồi lại quay vun vút như đèn cù!...Rồi đột ngột như trong truyện cổ tích, có một Nàng Tiên hào quang rực rỡ xuất hiện trước mặt tôi! Khi tôi dụi mắt nhìn cho rõ thì hóa ra là cô bạn học cùng lớp tên Lan, người được lấy bổ sung vào danh sách khen thưởng cuối năm vừa rồi! Lan nhoẻn miệng cười lộ cái răng khểnh, cộng với cái lúm đồng tiền làm cho nụ cười trở nên tuyệt đẹp. Hình như chúng tôi cứ đứng nhìn nhau như thế vì một lúc sau mới thấy Lan nói: “Tớ nghe thầy Tảo nói cậu đã làm thủ tục chuyển trường về Hà Nội! Tớ tính tới nhà cậu nhưng nhìn thấy cái cổng Bệnh viện to tướng, lại có cả lính gác, nhìn vào bên trong thấy rộng mênh mông, không biết cậu ở đâu mà tìm, nên không vào nữa! Thì ra đến trường lại tóm được cậu!” Tôi hỏi lại: “Làm sao cậu biết tớ ở đây?” Lan ra vẻ bí hiểm, nói nhỏ: “Thế mới giỏi, đây là bí quyết không thể tiết lộ!” Tôi lại nói: “Không tiết lộ thì thôi! Vậy cậu tìm tớ làm gì?” Lan nói rất rõ ràng, giọng có vẻ nghiêm trang: “Về cái chuyện phần thưởng cuối năm vừa rồi! Tớ hơi bất ngờ khi mình được khen thưởng. Tớ và mẹ đã cộng điểm lại thì thấy tớ chỉ được 3,8 chứ không phải 4,0 như công bố trên lớp. Có thể cậu hoặc thầy Tảo đã cộng nhầm!...” Tôi ngắt lời: “Thôi, chuyện đã qua rồi, nhắc lại làm gì?” Lan nói ngay: “Tớ chưa đủ 4,0 không xứng đáng nhận phần thưởng, còn hai anh em cậu phải nhận hai phần thưởng mới đúng! Vì thế tớ trả lại phần thưởng này cho cậu!” Nói rồi Lan lấy trong túi xách ra một gói giấy báo, dúi vào tay tôi, nhưng tôi không nhận mà nói ngay: “Tớ không thể nhận như thế! Phải có giấy quyết định của thầy Hiệu Trưởng mới hợp lệ! Hơn nữa, đây là phần thưởng cho người xếp thứ ba, còn của tớ là xếp thứ nhất cơ mà!” Nghe tôi nói vậy, Lan ngớ người rồi nói: “Ừ nhỉ! Muốn làm lại thì rất phức tạp! Nhưng không làm gì thì tớ không thấy yên tâm!... Hay là thế này nhé, nhân chuyện chuyển trường của cậu, tớ sẽ chiêu đãi cậu một chầu túy lúy, ăn uống tùy thích! Được không?” Tôi thoáng ngần ngừ rồi nói: “Không được, chúng mình đi cùng nhau ăn uống như thế, chúng nó mà nhìn thấy thì ngượng lắm! Mà cậu lấy tiền đâu mà chiêu đãi?” Lan nói ngay: “Cậu khỏi lo, tớ có “ngân quỹ” riêng hai năm nay rồi, còn chuyện chúng nó nhìn thấy thì mặc kệ, cười hở mười cái răng!” Tôi thoáng nghĩ, nếu đi cùng Lan sẽ lâu, mà tôi thì phải về để thu xếp đồ đạc, ngày mai đã đi rồi, liền nói: “Thời gian không có nhiều, làm như thế thì vui nhưng rềnh ràng quá. Theo tớ chỉ cần trao đổi kỷ vật là đủ!” Lan đồng ý ngay và hẹn tám giờ tối sẽ chờ tôi ở cổng Bệnh viện để trao đổi kỷ vật!...Đúng 8 giờ tối, tôi đi ra cổng Bệnh viện thì nhìn thấy ở bên gốc cây cổ thụ bên kia đường, Lan đang đứng cạnh cái xe đạp lấp loáng ánh điện. Tôi chạy qua đường và đưa ra món đồ của mình trước: đó là một cuốn sổ loại nhỏ mà bố tôi mua cho tôi để tôi viết Nhật ký (bố tôi bắt anh chị em chúng tôi viết hàng ngày), chưa viết Nhật Ký mà tôi chỉ chép tặng Lan một bài thơ ghép tên các bộ phim hay đang chiếu thời đó, bài thơ do các chú bộ đội thuyết minh phim đọc trong các buổi chiếu phim, bài thơ rất dài, mở đầu như sau: “Khởi đầu anh đứng Trên cao / Một Cơn gió lốc cuốn vào Trái tim ? Ngày mai anh sẽ đi tìm / Người thứ Bốn mốt trong Đêm giao thừa…” Lan cũng đưa tôi một gói nhỏ, cầm lấy, tôi đoán chừng cũng là một quyển sổ, vì lúc đó vật được dùng để làm quà tặng, phần thưởng thường là sổ và bút máy, ở nông thôn thì là khăn tay, khăn mặt!... Chúng tôi vừa trao đổi vật kỷ niệm xong thì tôi thoáng thấy hình như bố tôi xuất hiện ở cổng bệnh viện, đang nói chuyện gì đó với người gác cổng. Linh tính báo cho tôi biết bố tôi đang tìm tôi, tôi liền nói với Lan: “Cậu về đi, bố tớ đang gọi tớ đấy!” Lan liền kéo tôi về phía bên kia gốc cây, không bị ánh đèn của cổng bệnh viện chiếu sáng, nói sát vào tai tôi: “Tạm biệt cậu nhé! Cậu hôn tớ đi, như trong phim ấy!” Tôi lúng túng chưa biết làm gì thì Lan ôm chặt lấy tôi, hôn vào mỗi má tôi một cái! Theo phản xạ, tôi cũng làm như Lan, hôn vào hai má Lan, nhưng hôn rất lâu!...Bỗng có tiếng “rầm”, một cành cây khô rất lớn rơi xuống bên kia gốc cây, chỗ tôi và Lan vừa đứng! Chúng tôi cùng giật thót, buông nhau ra! Tôi nhìn về cổng bệnh viện, thấy bố tôi đứng chống nạnh ngay giữa cổng! Tôi nói với Lan: “Cậu lên xe phóng về ngay đi!” Lan ngồi lên xe, phóng vút đi! Tôi liền kéo cành củi khô đi thẳng vào cổng bệnh viện, vừa đi vừa nghĩ, sáng mai sẽ có củi cho mẹ tôi nấu bữa cơm cuối cùng, nhà đang hết củi, đúng là Trời cho!...

3.

 Lúc tôi và Lan chia tay nhau ở trước cổng Quân Y Viện 9 thị xã Vĩnh Yên là vào năm 1956, và phải đến năm 1988, tức 32 năm sau mới gặp lại. Lúc đó, không biết “ma dẫn lối, quỷ đưa đường” thế nào mà tôi bỏ nhiệm sở Nhà nước, nhận “một cục” 22 tháng lương (tính từ năm 1966, năm tôi nhập ngũ) rồi “phiêu bạt giang hồ”, nôm na là lang thang kiếm sống ở Sài Gòn, làm đủ mọi việc, thượng vàng hạ cám!...Một hôm, tôi đang lang thang ở quận 5 thì thấy có một phòng mạch tư rất đông người ra vào, nhìn biển hiệu thì thấy dòng chữ rất lạ: Phòng Mạch Lã Bố: chuyên trị phụ khoa và nam khoa với 2 bác sĩ lành nghề. Tò mò, với lại dạo này cảm thấy như là trong người có  “bệnh lạ”, tôi đi vào. Nhưng phải chờ chừng nửa tiếng mới tới lượt. Đang ngồi trong phòng khám là một nữ Bác sĩ, dáng người cao ráo, khỏe mạnh, khuôn mặt khả ái. Câu hỏi đầu tiên của Nữ BS là: “Xin ông cho biết tên, tuổi, nghề nghiệp và tình trạng bệnh tật?” Nghe tôi nói họ tên, nữ BS định viết vào một cuốn sổ to trước mặt, thì ngừng lại, nhìn tôi một phút rồi nói: “Ông trùng tên với một người bạn học cũ của tôi”, vừa nói nữ BS vừa viết tên tôi vào cuốn sổ to. Tôi nói: “Thỉnh thoảng tôi cũng gặp người trùng tên, nhưng cả họ và chữ đệm thì rất hiếm!” Nữ BS nói ngay: “Đúng vậy! Vì thế tôi ngờ ngợ…Ông có thể cho biết hồi học lớp 2 ông học ở đâu không?” Tôi thoáng suy nghĩ rồi nói: “Lớp 2 à, thế thì tôi nhớ ra rồi! Lớp 2 tôi học ở thị xã Vĩnh Yên, thầy giáo là thầy Tảo, còn bạn học thì nhiều quá làm sao nhớ nổi?” Nữ BS nhìn tôi chăm chú rồi nói: “Ông thử cố nhớ một, hai cái tên xem sao? Chẳng lẽ sau một năm học lại không có cái tên nào được lưu trong bộ nhớ?” Như một ánh chớp, những hình ảnh ở trước cổng Quân Y viện 9 vụt hiện ra, tôi nói ngay: “Có rồi! Đó là Lan!...” Nữ BS nói tiếp: “Có phải ông đã tặng cô bé cuốn sổ tay có chép bài thơ ghép tên các bô phim “Khởi đầu anh đứng Trên cao / Một Cơn gió lốc cuốn vàoTrái tim…” Nữ BS ngừng lại, nhìn tôi chăm chú. Còn tôi thì bàng hoàng, bâng khuâng, ngơ ngác, bồi hồi… nói tóm lại là không thể dùng một khái niệm nào bằng ngôn từ để diễn tả được cảm xúc của tôi lúc đó, và tôi đọc tiếp bài thơ ghép tên các bộ phim mà nữ BS vừa đọc: “Ngày mai tôi sẽ đi tìm / Người thứ Bốn mốt trong Đêm giao thừa…” Người  Nữ BS nhìn tôi không chớp mắt, rồi những giọt lệ lung linh lăn ra như những viên ngọc trai! Trong đầu tôi vang lên tiếng nói :”Đúng là Lan rồi!...Lan ơi!...”, nhưng mồm tôi như bị á khẩu, ngồi nghệt như tượng! Nữ Bác sĩ đứng bật dậy, lấy khăn lau mấy giọt nước mắt, rồi nhoẻn miệng cười lộ cái răng khểnh, nhưng má lúm đồng tiền thì không còn nữa, song tôi vẫn khẳng định đó đúng là Lan! Lan hít một hơi dài, rồi nói: “Khi cậu vừa nói tên là tớ biết chính là cậu chứ chẳng thế là ai khác! Giờ cậu nói thêm một cái tên nữa xem sao, vì nó rất quan trọng?” Hình ảnh buổi lễ Tổng kết cuối năm vụt hiện về, tôi nói ngay: “Bản!...Đó là cái tên thứ hai tôi nhớ sau Lan!” Lan nghe nói vậy thì nói: “Cậu chờ chút nhé!”, rồi lấy tấm biển nhỏ có chữ “Nghỉ khám bệnh” treo ra trước cửa rồi đi sang một căn phòng khác. Lúc trở lại có thêm một người cũng mặc Blu trắng, dáng mập mạp, trắng trẻo. Lan đẩy người đó ra trước mặt tôi rồi nói:  “Cậu nhìn xem có đúng là Bản đây không?” Vì đã  nói trước cái tên Bản nên những hình ảnh từ 32 năm trước bay vùn vụt về đậu lên người đàn ông đứng trước mặt tôi, khiến tôi như là nhìn thấy cậu học trò Bản lớp 2 ngày nào! Tôi  chưa kịp nói gì thì người đàn ông kia đã nhào tới chụp lấy tay tôi mà nói: “Thạch! Đúng là cậu rồi! Tuần vừa rồi, chúng mình có về thăm lại Vĩnh Yên và vợ chồng mình nhắc tới cậu hoài!...”

Đêm hôm đó, ba người bạn học từ lớp 2 đã ngồi với nhau thâu đêm tới sáng, họ như được sống lại  cái thời bảy, tám tuổi!...

Thời gian của những cuộc hội ngộ thường trôi qua nhanh như sóng thác, nhìn đồng hồ đã 5 giờ, Lan nói: “Bây giờ chúng ta qua bên kia làm tô phở cho vợ chồng mình chuẩn bị đến Bệnh viện. Còn cậu thì về làm giấc ngủ bù kẻo mệt. Năm giờ Chiều lại tới nhé, hôm nay phòng mạch nghỉ, tớ sẽ chiêu đãi cậu một bữa đại tiệc túy lúy, trả cái món nợ mà 32 năm trước không thực hiện được!” Tôi giật mình nghĩ, cô bạn này nhớ dai thật, và lại nghĩ, giá như hồi đó mình nhận lời đi chiêu đãi với Lan thì biết đâu  “số phận” sẽ khác?

Lúc ba chúng tôi vừa bước qua cổng nhà Lan thì một cành cây khô to tướng rơi bịch xuống chỗ chúng tôi vừa bước qua! Ba người cùng giật mình! Lan bỗng bật cười hỏi tôi: “Thế cái cành cây khô rơi trước cổng Bệnh viện hôm ấy cậu xử lý thế nào?” Tôi nói một mạch như là đang sống lại cái thời điểm ấy: “Nhờ kéo cái cành cây khô ấy về nhà mà  khi đi qua cổng bố tôi không hỏi han gì, vì tôi vẫn thường đi kiếm củi như thế mỗi khi nhà hết củi đun và sáng hôm sau mới có củi cho mẹ tôi nấu cơm! Đó là bữa cơm cuối cùng ở Vĩnh Yên, trong bát cơm có mùi nụ hôn của Lan!...”


4.

Bữa đại tiệc mà vợ chồng Lan chiêu đãi tôi rất thịnh soạn, có đủ các món ăn đặc sản của cả Bắc và Nam, tuy nhiên, chúng tôi ăn ít mà nói chuyện nhiều, đủ mọi đề tài nhưng nhiều nhất vẫn là đề tài ngành Y. Lan nói: “Cuộc chia tay với cậu ở cổng bệnh viện đã khiến cho tớ quyết theo học ngành Y với ý nghĩ: cậu sẽ vào học Trường Y nối nghiệp bố và chúng ta sẽ gặp nhau ở đó!” Tôi chỉ biết nói kiểu “vuốt đuôi” : “Ôi, tớ thấy tiếc thật sự vì khi có giấy gọi vào Khoa Toán ĐH Tổng hợp, bố tớ đã dẫn tớ đến gặp ông hiệu trưởng Trường ĐH Y – Dược, đưa giấy gọi cho ông để nhờ ông đổi giấy gọi vào Trường Y, ông Hiệu trưởng đã đồng ý. Nhưng lúc ấy tớ còn trẻ người non dạ nên cứ mơ thành nhà Toán học và không nghe lời bố mà đi một mạch tới Khoa Toán!...Giá như lúc ấy gặp cậu thì…” Bản nói: “Bàn tay Tạo hóa đã xếp đặt như thế, làm gì có chuyện giá như!” Lan cười , nói: “Đúng là tài ba không qua số phận, nhưng ta cứ thử chống lại định mệnh xem, “xưa nay nhân định thắng thiên cũng nhiều” mà!” Tôi hỏi: “Chống lại bằng cách nào?” Lan nói luôn: “Tớ sẽ giúp cậu làm lại từ đầu! Giờ cậu mới 40 tuổi, so với ông Bành vẫn là con nít! Tớ định thế này: cậu đến phòng mạch này phụ giúp vợ chồng tớ, tớ sẽ cung cấp sách vở, tài liệu cho cậu, cậu thi vào một lớp tại chức Đại học Y, không hề khó, chỉ dăm năm là cậu có cái bằng Bác sĩ!” …Tôi thầm nghĩ, đó cũng là một ý tưởng luôn đeo bám tôi từ khi tôi phát hiện ra rằng trong cái “trường văn trận bút” mà tôi đã lao vào  hơn chục năm qua, đầy bất trắc, rủi ro …Thế là tôi theo sự sắp đặt của bàn tay

“Tạo hóa Lan”, ngày ngày đến phòng mạch của Lan và Bản làm việc!...
 Cái tên “Phòng mạch Lã Bố” có là do ghép chữ cái tên của hai người Lan và Bản, còn tại sao lại là Lã Bố thì chỉ vì Bản có hoa tay đặc biệt: vẽ lại hình ảnh các nhân vật trong Tam Quốc diễn nghĩa rất giống và Bản đặc biệt thích nhân vật Lã Bố: ba anh em Lưu, Quan, Trương không đánh nổi Lã Bố thì phải gọi Lã Bố là Ba lần anh hùng!...

Phòng mạch Lã Bố rất đông người tới khám bệnh, phải thuê thêm 4 diều dưỡng Trung cấp mà nhiều lúc không giải quyết hết bệnh, phải hẹn hôm sau, hôm sau lại tồn đọng nhiều hơn! Cứ thế, số bệnh nhân tồn đọng tăng dần lên theo thời gian! Tôi hỏi Lan: “Bệnh nhân nhiều thế sao không tăng thêm phòng khám, hoặc có thể nâng lên thành Bệnh viện?” Lan cười nói: “Bố tớ bảo không nên phình to giống như con ếch muốn phình bụng bằng con bò! Cứ làm nhỏ gọn mới bền, mới hiệu quả!” Nghe Lan trả lời, tôi không ngờ cô bạn bé nhỏ ngày xưa lại có suy nghĩ sâu sắc như vậy!

Loại bệnh đến phòng mạch Lã Bố chủ yếu liên quan đến tình dục, vì thế vừa dễ lại vừa khó. Dễ là không phải loại bệnh nguy hiểm chết người, không bao giờ xảy ra chết chóc. Khó là do các loại bệnh này rất lâu thấy hiệu quả. Chẳng hạn như bệnh “không thấy ham muốn”, “yếu sinh lý” (lãnh cảm , khó tiết ra chất dịch làm trơn khi “quan hệ” ở phụ nữ, liệt dương  đàn ông) thì phải “trường kỳ kháng chiến” mới mong thắng lợi!... Tôi hỏi Bản: “Sao lại chọn loại bệnh khó nói, tế nhị như thế này? Lúc khám bệnh, bệnh nhân người ta “mắc cỡ” thì làm sao nói hết tình trạng bệnh tật?” Bản cười nói: “Chỉ những người “sách vở”, cao đạo thì mới mắc cỡ, còn phần đông dân chúng người ta cũng coi như đau răng, đau mắt mà thôi! Khi ta đứng ở xa thì nhìn vấn đề tình dục hơi “khó coi”, nhưng khi là “người trong cuộc” thì không có vấn đề gì?” Tôi định hỏi lại “Có thật là không có vấn đề gì không?”, nhưng lại nghĩ ở những khu vực vấn đề có liên quan đến tình dục thì mọi tranh luận đều không đi đến đâu cả, nên lại thôi!

Tôi làm việc ở phòng mạch Lã Bố bước đầu chủ yếu là công việc văn phòng, chẳng hạn như trực điện thoại, ghi sổ sách, giải quyết các việc không tên ở phòng chờ…Công việc nhẹ nhàng, lại được vợ chồng Lan và Bản rất  “cưng chiều” (chắc 2 người thấy tôi trải qua quá nhiều gian khổ, bị thiệt thòi nhiều nên giờ muốn “bù đắp”) nên chỉ lo tập trung vào việc đọc sách, chuẩn bị thi vào trường Đại học Y theo hệ chính quy đàng hoàng chứ không phải là hệ tại chức, vì Lan và Bản đều nói đã mất công làm lại thì làm đàng hoàng, vả lại tôi có chức gì đâu mà học tại chức?

Những tưởng mọi việc sẽ êm trôi theo sự sắp đặt của “Bàn tay Tạo hóa Lan”, ai ngờ có một chuyện đã làm đảo lộn tất cả!...

5.

Phòng mạch Lã Bố của Lan và Bản hành nghề đã được hơn chục năm và uy tín của phòng mạch cứ tăng dần theo năm tháng. Đặc biệt nhất là chuyện chữa bệnh Vô sinh. Những ca vô sinh do bên người vợ thì có nhiều khó khăn, nhưng vô sinh do người chồng (tinh trùng yếu hoặc cụt đuôi…) thì chỉ sau đúng chín tháng mười ngày là có kết quả rất mỹ mãn: một đứa con kháu khỉnh, bụ bẫm cất tiếng khóc oe oe chào đời…

Một ngày kia, có tới chục người mẹ từ nhiều tỉnh khác nhau, từ miền Trung xứ Quảng, Tây Nguyên cho tới chót Mũi Cà Mau, cùng dắt những đứa con của mình là kết quả chữa vô sinh ở phòng mạch Lã Bố, tới thăm ông chủ phòng mạch Bản. Những đứa trẻ, tuổi sàn sàn từ bốn, năm tuổi cho tới tám, chín tuổi có một đặc điểm là đều khỏe mạnh và rất giống nhau, và điểm này mới là quan trọng: rất giống ông chủ phòng mạch Lã Bố, tức Bác sĩ Bản! Không hẹn mà gặp, chục bà mẹ và chục đứa con kia đều đến vào buổi sáng, tức lúc đó phòng mạch chưa làm việc, cả Lan và Bản đều đang làm việc ở Bệnh viện, đến 4 giờ chiều mới về phòng mạch. Lúc đó chỉ có tôi đang ngồi đọc mấy cuốn sách Y học ờ phòng mạch. Lần nhấn chuông gọi cửa đầu tiên là một người, lần thứ hai là ba người, rồi từ từ đủ cả chục người mẹ và chục đứa con đã tới phòng mạch! Ngay từ lần gọi cửa thứ hai, tôi đã hình dung ra chuyện gì đã xảy ra, liền gọi điện thoại cho Lan, nói rõ sự tình. Mười phút sau, Lan tới phòng mạch . Tôi những tưởng sẽ có động đất hoặc sóng thần xảy ra ở phòng mạch Lã Bố nhưng sự việc lại khác hẳn: Khi vừa nhìn thấy mười bà mẹ và mười đứa con giống Bản như cùng một khuôn đúc ra, Lan đã ngất xỉu!...


6.
Lan và Bản giải quyết vụ những đứa trẻ giống nhau và giống Bản như thế nào, tôi không muốn hỏi vì nghĩ rằng những cái gì đến thì nó sẽ đến! Nhân có một người bạn học khác cần có bạn cùng đi chơi Vũng Tàu rồi Côn Đảo rủ tôi đi cùng, tôi liền đi Vũng Tàu, Côn Đảo khoảng một tuần. Khi trở về, vụ “mười đứa trẻ giống Bản” vẫn chưa suy chuyển. Lan vừa thấy tôi về thì nói ngay: “Tớ muốn chờ ý kiến của cậu mới quyết định có li hôn Bản hay không?” Tôi ngạc nhiên hết sức, hỏi ngay: “Ý kiến của tôi về cái gì? Về mười đứa trẻ này thì tôi không có ý kiến!” Lan nói ngay: “Không phải chuyện mười đứa trẻ mà là chuyện của tớ và cậu!...Tớ nói ngay, cậu có thích cưới tớ không? Nếu cậu cưới tớ thì tớ sẽ li dị Bản. Bản sẽ cưới một người trong số mười người mẹ có con với Bản!” Trời đất ơi, tại sao Lan lại đặt tôi vào tình huống khó xử như vậy? Không biết Bản đang ở đâu, tôi phải đi gặp Bản. Dường như Lan đọc được ý nghĩ đó của tôi, liền nói: “Cậu không cần phải hỏi lại Bản mà hãy hình dung ra rằng chúng ta đang đứng dưới gốc cây cổ thụ trước cổng Bênh viện hôm ấy!...” Lần này thì tôi không kinh ngạc nữa vì cũng đúng lúc Lan nói như vậy, tôi như vụt trở lại 32 năm trước!...

Sài Gòn, 1989-2009
Đỗ Ngọc Thạch
Số lần đọc: 1748

đọc lại Vũ trung tùy bút

TRANG BLOG

Đỗ Ngọc ThạchTham gia: 25/07/2011
  • Mùa mưa đọc lại Vũ Trung Tùy Bút - Đỗ Ngọc Thạch
    Sáng Tác
    CameraNikon D3
    ISO3200
    Aperturef/8
    Exposure1/50th
    Focal Length200mm
    Mùa mưa đọc lại Vũ Trung Tùy Bút - Đỗ Ngọc Thạch
    Mùa mưa
    Mùa mưa đọc lại Vũ trung tùy bút - Đỗ Ngọc Thạch
     
    Vũ trung tùy bút (*) (Tùy bút trong mưa) của danh sĩ Phạm Đình Hổ  là một tập truyện ký bằng chữ Hán, theo thể loại ký – một thể loại văn học đã để lại nhiều tác phẩm lớn do các nhà văn là nhà Nho sáng tác, như Truyền kỳ mạn lục (1547) của Nguyễn Dữ, Phủ biên tạp lục (1776), Kiến văn tiểu lục(1777) của Lê Quý Đôn, Thượng Kinh ký sự (1783) của Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác, Tang thương ngẫu lục (**) của Phạm Đình Hổ và Nguyễn Án, v.v…
    Phạm Đình Hổ (1768-1839) tên chữ là Tùng NiênBỉnh Trực, hiệu: Đông Dã Tiều, tục gọi là Chiêu Hổ. Người làng Đan Loan, huyện Đường An, phủ Thượng Hồng, tỉnh Hải Dương. Sinh trong một gia đình khoa bảng, ngay từ nhỏ, Phạm Đình Hổ đã tỏ chí “Làm người con trai phải lập thân hành đạo...Lấy văn thơ nổi tiếng ở đời...”. Tuy học và đọc nhiều sách (9 tuổi, ông đã đọc sách Hán thư), nhưng ông chỉ đỗ đến sinh đồ (tức tú tài) vào khoảng cuối đời Chiêu Thống.Gặp buổi loạn lạc, Phạm Đình Hổ sống đời hàn nho dạy học ở quê. Đến khi Gia Long lên ngôi, cho khôi phục lại việc thi cử, ông có đi thi Hương ba lần, nhưng đều không đỗ. Hồi ấy ông đang dạy học ở phường Thái Cực, huyện Thọ Xương trong thành Thăng Long, hằng ngày rèn luyện học trò và biên soạn sách. Ở đây, ông kết bạn thơ với nữ sĩ Hồ Xuân Hương
    Năm Tân Tỵ (1821), vua Minh Mạng ra Bắc. Khi ấy, Phạm Đình Hổ ở tuổi 53, vua vời ông đến hỏi về học vấn, thi cử và tính hình nhân tài đất Bắc. Lại khuyên hễ có những sách tiền triều, sách trước thuật...nên đem tiến trình. Ông bèn dâng lên nhà vua những sách do mình biên soạn, liền được triệu vào Huế nhận chức Hành tẩu Viện Hàn lâm. Nhưng chỉ được ít lâu, ông xin từ chức. Năm Minh Mạng thứ 7 (1826), vua lại triệu ông, phong chức Thừa chỉ Viện Hàn Lâm, tiếp đến làm Tế tửu Quốc Tử Giám. Năm sau,  ông lại xin nghỉ bệnh rồi từ chức. Sau, ông lại vào sung chức, được thăng Thị giảng học sĩ. Năm Nhâm Thìn (1832), Phạm Đình Hổ xin về hưu…
    Chí hướng của Phạm Đình Hổ là “lấy văn thơ nổi tiếng ở đời”, nên cuộc đời ông chủ yếu dành cho việc sáng tác và biên soạn sách. Ông đã để lại nhiều công trình khảo cứu, biên soạn có giá trị thuộc nhiều lĩnh vực: văn học, triết học, lịch sử, địa lý,... tất cả đều bằng chữ Hán. Hiện còn lưu giữ được 22 tác phẩm, trong số đó đáng kể là: An Nam chí (Ghi chép về nước An Nam); Ô châu lục (Ghi chép về châu Ô); Kiền khôn nhất lãm (Cái nhìn tổng quát về trời đất); Lê triều hội điển (Điển chương pháp luật triều Lê); Đạt Man quốc địa đồ (Chân Lạp địa đồ); Ai Lao sứ trình (Hành trình đi sứ Ai Lao); Bang giao điển lệ (Phép tắc luật bang giao); Nhật dụng thường đàm (Từ điển từ ngữ và tri thức thông dụng); Hy kinh lãi trắc (Giải thích ngắn gọn về bộ kinh của Phục Hy),v.v…Về sáng tác văn học có hai tập bút kýVũ trung tùy bút và Tang thương ngẫu lục (hợp soạn với Nguyễn Án), và hai tập thơ: Đông Dã học ngôn thi (Tập thơ học nói của Đông Dã), Tùng cúcliên mai tứ hữu (Bốn người bạn thông, cúc, sen, mai)(***).
    *
    Vũ trung tùy bút, hiểu theo nghĩa tùy theo ngọn bút viết trong khi mưa, được viết khoảng thời Lê mạt Nguyễn sơ, ghi lại nhiều sự việc xảy ra vào cuối đời Lê và đời Tây Sơn.
    Phạm Đình Hổ gọi tác phẩm của mình là tùy bút, nhưng nó không phải được viết theo lối tùy bút bây giờ, mà với nghĩa nôm na là tùy hứng, "muốn viết cái gì thì viết, không cần hệ thống, kết cấu và mạch lạc"… Và trong 90 truyện dài ngắn, không được tác giả sắp xếp theo thể loại, có những nội dung chính sau:
    Truyện về các danh nhân, những nhân vật phi thường trong lịch sử, như Phạm Ngũ Lão, Lý Đạo Tái, Truyện vua Lê Lợi, Đoàn Thượng,...Ghi chép các cuộc du lãm, những nơi có danh lam thắng cảnh nổi tiếng như Cảnh chùa Sơn Tây, Đền Đế Thích,... Các việc xảy ra ở cuối đời Lê: Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh, Cuộc bình văn trongnhà Giám ,… Khảo cứu về duyên cách, địa lý như Thay đổi địa danh, Xứ Hải Dương, Xứ Đường An, Tên làng Châu Khê,... Khảo về phong tục trong đời sống xã hội như Hoa thảo, Cách uống chè, Nón đội, Mẹo lừa, Trộm cắp, Thần trẻ con, Tệ tục, Thần hổ,... Khảo về học thuật như Học thuật, Lối chữ viết, Bàn về âm nhạc , Các thể văn,... Khảo về lễ nghi Lễ tế giao, Lễ nhà miếu, Lễ sách phong,... Khảo cứu về điển lệ: Khoa cử, Phép thi, Quan chức,...
    Khi đánh giá Vũ trung tùy bút, các nhà nghiên cứu văn học đều khẳng định giá trị hiện thực cao của tác phẩm, chẳng hạn như thiên bút ký Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh đã được chọn đưa vào chương trình văn học lớp 9 Trung học Phổ thông: Tác giả đã ghi lại cuộc sống xa hoa vô độ của triều đình phong kiến thời vua Lê chúa Trịnh suy tàn. Chúa Trịnh Sâm chỉ thích đi chơi ngắm cảnh đẹp, ngự ở các li cung... nên việc xây dựng đình đài, phục dịch tốn kém, lãng phí vô cùng. Bao nhiêu vật quý ở chốn dân gian, Chúa đều sức lấy. Bọn hoạn quan cung giám “mượn gió bẻ măng”, nhũng nhiễu và dọa nạt, cướp bóc lương dân. Đến nỗi bà mẹ của tác giả cũng phải chặt đi những cây cảnh quý trong nhà để khỏi vạ lây.
    Các nhà sử học, cũng tìm thấy trong Vũ trung tùy bút những tư liệu lịch sử quý giá trong nhóm truyện các danh nhân lịch sử với cách kể chuyện ngắn gọn, súc tích và sự chọn lọc những chi tiết, sự kiện độc đáo. Chẳng hạn như chuyện Phạm Ngũ Lão ra mắt Trần Hưng Đạo: Hưng Đạo Vương cùng tuỳ tùng đi ngang qua Đường Hào thấy Phạm Ngũ Lão ngồi bên vệ đường đang đan sọt. Quân lính kéo đến, dẹp lối đi. Phạm Ngũ Lão vẫn ngồi thản nhiên, như không để ý đến ai cả. Quân lính cầm giáo đâm vào đùi chảy máu mà ông vẫn không nhúc nhích, thấy vậy Vương dừng lại hỏi, bấy giờ Phạm Ngũ Lão mới trả lời rằng đang nghĩ một câu trong binh thư nên không để ý. Biết là người có tài, Trần Hưng Đạo cho ông ngồi cùng kiệu đưa về kinh sư. Từ đó Phạm Ngũ Lão trở thành môn khách của Trần Hưng Đạo. Sau đó, Phạm Ngũ Lão đã lập nhiều chiến công trong hai cuộc chống quân Nguyên xâm lược. Năm 1290, vua Trần Nhân Tông phong chức Hữu Kim ngô Đại Tướng quân, cai quản quân Thánh Dực. Đến đời vua Trần Anh Tông Phạm Ngũ Lão được thăng chức Điện súy Thượng tướng quân, tước Quan Nội hầu. 
    Các nhà nghiên cứu văn hóa thì tìm thấy rất nhiều những tư liệu sống động của xã hội phong kiến xưa, từ chế độ Khoa cử, Quan chức cho đến các nghi lễ từ nhỏ đến lớn…Cuộc sống muôn mặt đời thường cũng hiện ra thật sinh động: cách uống chè, nón đội và cả tệ nạn xã hội: mẹo lừa, trộm cắp…
    Điều đáng chú ý làbút pháp miêu tả của tác giả rất gần với cách viết ký của văn học hiện đại: có sự chọn lọc lấy cái điển hình để nâng cao tính khái quát của sự việc, của câu chuyện được kể, chẳng hạn như chuyện về Cuộc bình văn trong nhà Giám: Thoạt nhìn thì cuộc bình văn rất trang trọng với sự có mặt của đủ các quan chức phân chia ra ba chiếu có trên có dưới theo thứ tự phẩm hàm cao thấp… Nhưng, vị quan có chức quyền cao nhất ở cuộc bình văn này là quan Thái phó, Quận công Nguyễn Hoãn mới được triệu ra làm quan Tri Quốc tử giám thì … không hiểu gì về văn chương: “... Duy quan Tri giám Nguyễn Hoãn thì thủy chung nín lặng không nói câu nào, thỉnh thoảng chỉ sẽ cười hi hi mà thôi. Ta trong bụng lấy làm ngờ, hỏi các bè bạn thì ai cũng cười, không bảo rõ. Ta lại càng ngờ, sau hỏi đến các bậc lão thành thì có người bảo rằng: "Nguyễn công học vấn không được học trò phục cho nên lúc bình văn ở nhà Giám không tỏ ý khen chê gì cả". Cũng có người nói rằng: "Nguyễn công khi tuổi trẻ, vì là con nhà tướng, được đỗ hương nguyên, về sau lại đỗ hội nguyên, văn hai kỳ thi ấy đều không phải tự Nguyễn công làm ra". Đó đều là lời truyền văn như thế, ghi lại đây để tham khảo.

    Ngày bình văn ở nhà Giám, quan Tri giám làm chủ tọa. Lúc mới đến hội họp, quan Tri giám đứng ở phía Tây, chiếu giữa, quan Tham tụng, Bồi tụng thì đều đứng xế về phía Ðông Nam chiếu mình ngồi, các quan ngồi ở chiếu phía Ðông thì đứng về phía Ðông chiếu mình ngồi. Quan Tri giám lúc bấy giờ mới hướng vào hai chiếu giữa, vái chào mời ngồi, quan Tham tụng, quan Bồi tụng đều vái đáp lại. Rồi quan Tri giám lại vái mời chiếu phía Ðông, các quan Thị lang, Tham đô đều vái đáp lại. Lại hướng vào chiếu phía Tây vái chào mời ngồi, các quan chiếu phía Tây đều vái đáp lại, xong rồi đều lên chiếu theo thứ tự mà ngồi. Chiếu giữa và chiếu phía Ðông thì hộp trầu, ống súc bày đủ mỗi vị quan viên một bộ, còn chiếu phía Tây thì mỗi chiếu hai hộp trầu, hai ống súc. Mặt trời đứng giữa trưa, quan Tri giám sai nha dịch bảo lính lệ sửa soạn cơm trưa, cỗ bàn cũng lịch sự lắm. Cứ lệ thì do nhà bếp riêng quan Tri giám làm cỗ, mà tiền thì dân tạo lệ cung ứng và lấy tiền thuế các hồ Huy Văn”.

    Ở chùmnhững bài viết khảo về học thuật, Phạm Đình Hổ đã thể hiện sự hiểu biết sâu rộng của mình về các vấn đề được bàn tới và được trình bày một cách khúc triết, sinh động, chẳng hạn như bài Bàn về âm nhạc:

    Sách Lễ ký(1) nói rằng âm nhạc hợp với hòa khí trong trời đất, thế thì âm nhạc cũng rất quan hệ. Đời thượng cổ đã chế ra lục luật, lục lã, ngũ thanh, bát âm, đến đời nhà Chu thì đầy đủ hơn. Nhà Tần dấy lên đốt mất Kinh Nhạc. Vua Cao tổ nhà Hán không chuộng văn học, Thúc tôn thông (2), Thích phu nhân (3) chỉ bịa ra những tiếng dâm tà, thô tục để nịnh nhà vua. Cổ nhạc từ bấy giờ không còn biết dựa vào đâu mà lý hội được nữa. Song những nhà nghề âm nhạc vẫn còn giữ được chức nghiệp. Dẫu không biết hết được cái ý chế tác của cổ nhân, nhưng âm thanh, tiết tấu vẫn chưa biến mất. Trong những kẻ trí tuệ, họa hoằn có người dò biết được cái mối thừa, như là tiếng đàn gỗ vông của Bá Di (4), khúc hát Ngư Dương của Chính Bình, khúc đàn Quảng Lăng của Kê Khang (5), khúc sáo Tam lộng của Hoàn Y, đó đều là những âm nhạc ai nghe cũng lấy làm khoái trá. Về sau, học giả thất truyền, sai mất cả bản lĩnh. Ống khống hầu thì tiếng bi phẫn, đàn tỳ bà thì giọng ai oán, lại pha thêm những tiếng kèn hồ, trống rợ, thì hăng hái khích liệt quá. Đến cuối đời Tấn, Ngụy, rợ Chi Khương lấn đất Trung nguyên, thanh âm của Trung Hoa chỉ còn ở phía Giang tả. Nhưng khốn nỗi, về đời Tống, Tề thì tản mạn, đời Tấn, Lương thì dâm bạc, đời Tùy lại dâm loạn tệ hơn. Đến đời Đường mới sai Tổ Hiếu Tôn định nhã nhạc, chép ở trong sách Đường chí có 60 điệu, 84 thanh, cũng hơi đủ cái lệ năm chính, hai biến. Song những khúcĐại thực, Quỳ từ thì lẫn cả tiếng rợ mọi, những điệu Tiên lữ thì động đến đạo quỷ thần, còn những đồ nhạc khí thì lẫn lộn nửa Hồ nửa Hán, không được hoàn toàn. Truyền về sau lại đặt ra khúc Võ mị nương, Tang điều, Tử vân hồi, Vũ lâm ly cùng là những khúc âm nhạc Thiên trúc, Sơ lặc, những bài từSắc kê, Khuất thác, không thể kể xiết được. Chính thanh đến đấy không còn gì nữa. Đến đời Ngũ quí gặp buổi binh đao loạn lạc, họ ra luật cướp sạch cả những sách vở của các đời ghi chép về khoa âm nhạc. Nhà Sài châu mới sưu tầm lại, nhưng cũng không được đủ. Vua Thái Tổ, Thái Tôn đời nhà Tống không lưu ý gì đến âm nhạc. Những nhà bàn làm nhạc, hoặc kẻ thì chắc bằng về ống ngọc dịch, hoặc người thì chuyên chú về nghề thổ khuê, người thì bảo theo thước cổ, kẻ thì bảo theo thước kim, không biết nên theo đường nào. Sách Nhạc chí, Nhạc thư, mỗi sách chép một khác. Lại như cách phân cự ly theo bằng hạt gạo nếp, cái lỗ tròn chặn theo như lỗ đồng tiền Thông Bảo, thì ông Hồ Viên, ông Phạm Trấn lại khảo cứu mỗi người một khác.
    *
    Lý Đạo Tái (6) là một nhân vật đặc biệt, được bao phủ bởi nhiều huyền thoại. Song Phạm Đình Hổ không tiếp tục “huyền thoại hóa” nhân vật mà đưa nhân vật trở về chỗ tính người được thể hiện rõ nhất, đó là đứng trước sự cám dỗ của “Cái đẹp” - Thiền sư Huyền Quang có rung động trước nàng Điểm Bích hay không? Đó là điều chưa có lời đáp rõ ràng và trong thiên truyện ký của mình, Phạm Đình Hổ như là muốn hướng người đọc tập trung sự chú ý vào bài thơ của nàng Điểm Bích: Một vị chân tu nơi cửa thiền bất chợt thấy một dung nhan tuyệt đẹp, tức thì cảnh “trăng mai, gió trúc” trước mắt mà mơ hồ như điệu đàn ngân trên mặt nước. Lẽ nào làm ngơ cho đành? Và dung nhan tuyệt đẹp đó lại có Nàng Thơ trú ngụ thì vị chân tu – cũng là một Thi nhân sao lại có thể dửng dưng:
    “Huyền Quang thiền sư là Lý Đạo Tái, người làng Vạn Ti, huyện Gia Định, là bậc khoa bảng mà bỏ đi tu, chuyện này đã chép ở Trúc lâm truyền đăng lục. Gần đây, ông Nguyễn Hoàn (7), người Cố đô có soạn bài Huyền Quang hành bằng quốc ngữ, trong có nói đến chuyện nàng Bích, nhưng truyện ấy không thấy chép trong sử, ta thường lấy làm ngờ. Còn nhớ khi mới lên bảy tám tuổi, thường theo bà tiên cung nhân ta sang hầu bà cô họ ngoại là bà chính thất quan Thiêm sự Võ công, người làng Mộ Trạch. Khi các bà ngồi rỗi nói chuyện, có nói đến nàng Bích, ta mới biết quả có người ấy thật. Bà phu nhân thường nói rằng: Mộ nàng Bích ở làng Hoạch Trạch; buổi đầu năm Cảnh Hưng, có kẻ đào lên thì thấy quan tài vẫn còn sơn son y nguyên, mở ra xem, quan tài đầy nước trong veo, hương thơm ngát mũi, rồi đậy lại liền. Sau ông Nhữ Công Chân có câu thơ rằng:
    Giai nhân lạc địa ủy kim điều.
    Nghĩa là: Giai nhân đày đọa rụng bông vàng.

    Lại có câu:
    Tằng hướng tiêu phòng khoa yểu điệu,
    Khước lai sơn tự bạn không thiền.
    Nghĩa là:
    Phòng tiêu thuở trước từng khoe đẹp,
    Chùa núi sau này tựa cảnh không.

    Bài thơ ấy toan đem đi khắc bia để chôn trước mộ, nhưng sau lại thôi. Ta tiếc rằng không nhớ được toàn bài.

    Chú giải: Câu chuyện như sau: Huyền Quang là một vị thiền sư đắc đạo. Năm ông 60 tuổi, vua Anh tôn sai nàng Điểm Bích đến thử ông. Điểm Bích là một cung nhân. Thị Bích đến chùa, xin ở lại tu hành, tối tìm cách chọc ghẹo ông, nhưng không được. Cuối cùng, nghĩ ra kế lấy được nén vàng nhà vua ban cho ông, rồi trở về tâu đã cám dỗ được ông. Sau mới biết được sự thật. Sách Tam tổ đạo lục có chép bài thơ nôm nàng Điểm Bích (8) làm ghẹo ông:
    Vằng vặc trăng mai ánh nước,
    Hiu hiu gió trúc ngân sinh.
    Người hòa tươi tốt cảnh hòa lạ
    Mâu thích ca nào thuở hữu tình?
    *
    Sài Gòn, tháng 8-2010
     Đỗ Ngọc Thạch
    ----
    Chú thích:
    (*)Vũ Trung tùy bút  của  Phạm Đình Hổ: bản dịch của Đông Châu Nguyễn Hữu Tiến (*1). Nhà xuất bản Trẻ và Hội Nghiên cứu giảng dạy Văn học thành phố Hồ Chí Minh liên kết xuất bản, in lại năm 1989.
    (*1) Nguyễn Hữu Tiến (1875-1941), hiệu Đông Châu. Quê ở làng Đông Ngạc, huyện Từ Liêm, tỉnh Hà Đông (nay thuộc Hà Nội), ông xuất thân từ Nho học. Phần lớn công trình nghiên cứu của ông đều công bố trên Tạp chí Nam Phong trước khi in thành sách. Các công trình của ông là những chuyên luận về lịch sử, địa lý, phong tục, luân lý, tôn giáo và văn chương Việt Nam và Trung Quốc, bước đầu nghiên cứu các tác gia Việt Nam: Nguyễn Gia Thiều, Nguyễn Hữu Chỉnh, Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Khuyến, Dương Khuê (Nam Phong, 1929). Bản dịch Vũ trung tùy bút đăng trên Nam Phong tạp chí (1927-1928).
    (**)Tang thương ngẫu lục (ghi chép tình cờ trong cuộc bể dâu) là tập ký bằng chữ Hán do đôi bạn thân là Phạm Đình Hổ và Nguyễn Án (**1)  cùng hợp soạn vào khoảng Lê mạt-Nguyễn sơ, tức khoảng cuối thế kỷ 18 đến đầu thế kỷ 19.
    Bài Tựa in ở đầu tập Tang thương ngẫu lụccho biết bởi những cuộc tang thương, khiến người ta tất có cái cảm khái tang thương, ấy tập sách Tang thương này sỡ dĩ có là vì thế đó. Và theo Trúc Khê, cũng vì chép nhiều chuyện biến thiên của hồi ấy (cuối Lê), cho nên có cái tên sách làTang thương ngẫu lục, nghĩa là những câu chuyện ghi chép tình cờ trong cuộc bể dâu. Năm 1943, nhà xuất bản Tân Dân cho in Tang thương ngẫu lục, bản tiếng Việt do nhà văn Trúc Khê Ngô Văn Triện dịch.
    Bàn về ý nghĩa tập Tang thương Ngẫu lục, bài Tựa (Phùng Dực Bằng Sô viết năm 1896)viết:
    Từ Lý, Trần, Lê, Trịnh đến nay, trên dưới mấy trăm năm có những điều quốc sử chưa ghi, dã sử chưa chép; hai ông đều thu cả vào trong cõi mắt tang thương. Nếu hai ông hết thẩy đều cho là việc tang thương mà quên đi, thì những chuyện ấy phỏng được mấy lâu mà mai một đi mất. May mà lấy ngòi bút tang thương biên chép, nên nó mới còn là cánh bè chở bến mê, ngọn đèn soi nhà tối; đặt tên là Tang thương ngẫu lục, ý nghĩa có thể nhận biết được vậy.
    Tang thương ngẫu lục là tập ký mang nặng tính chất truyền kỳ. Trừ một số ít truyện nói về các đời trước, còn đa phần đều viết về thời Lê mạt. Sách được chia làm 2 quyển: quyển Thượng có 40 bài, quyển Hạ có 49 bài (không kể bài Thơ đề sau của người khác). Có một số bài ghi mỗi tên tác giả. Căn cứ theo bản in năm 2000 do NXB Văn hóa-Thông tin in lại theo bản của NXB Tân Dân (1943), thì: 
    Ở quyển Thượng có 13 bài và ở quyển Hạ có 19 bài đề tên Kính Phủ, tức Nguyễn Án. Ở quyển Thượng có 10 bài và ở quyển Hạ có 23 bài đề tên Tùng Niên, tức Phạm Đình Hổ. Số bài còn lại không đề tên, nên không rõ của ai hay do hai ông cùng hợp soạn.
    Căn cứ nội dung từng truyện, có thể xếp chúng thành 5 đề tài sau: 1.Tiểu truyện các danh nhân:Nguyễn Duy Thời, Chu Văn An, Nguyễn Trãi, Đặng Trần Côn, Đoàn Thị Điểm, v.v…2.Thắng cảnh: Bài ký chơi núi Phật Tích (Chùa Thầy), núi Dục Thúy, v.v…3.Di tích: Bia núi Thành Nam, Tháp chùa Báo Thiên, Thành cũ Trào Khẩu, Miếu Thanh Cẩm, Cái miếu cổ ở cử Đông Hoa,v.v…4.Việc cuối đời Lê:Chuyện cũ trong phủ chúa, Thi Hội, v.v…5.Chuyện hay, chuyện lạ: Thần Tôn hoàng đế, Hiển Tôn hoàng đế, Chuyện Nguyễn Duy Thời, Hồ Gươm, Nguyễn Văn Giai, Người nông phu ở Như Kinh, Người nông phu ở An Mô, Ma Đồng Xuân, Ông Nguyễn Bá Dương, Thành Đạo Tử, Mẹ ranh càn sát, v.v...
    Sau cuối tập Tang thương ngẫu lục có bài thơ đề vịnh do Phó bảng khoa Canh Thìn Quang Lộc tự Thiếu khanh Đồng Giang Phạm Văn Tâm viết vào tháng Trọng thu năm Bính Thân (1896) niên hiệu Thành Thái, bài thơ như sau:
    Phiên âm Hán-Việt
    Tọa sách hưng vong nhất thảng hiên / Vô cùng nhân thế nại hà thiên
    Trịnh Lê tự tác ly cao giải / Nhạc Huệ tranh khoa đắc hủ diên
    Thiết sỉ Ô nam Bằng quận Kiếm / Thương tâm Yên bắc Mũ đồng chuyên
    Na kham độc cánh Tang thương truyện / Thử nhật hoàn kim hựu bách niên. 
    Trúc Khê dịch:
    Nghĩ cuộc hưng vong luống ngậm ngùi
    Khôn đem thế sự hỏi ông giời
    Trịnh Lê cua để lìa mai cứng
    Nhạc Huệ diều khoe được miếng hôi
    Tím ruột quận Bằng gươm Huế sắc
    Đau lòng bồi ngựa gạch Yên tơi
    Tang thương truyện đọc buồn sao xiết
    Lại một trăm năm cách đấy rồi.
    (**1): Nguyễn Án: (1770-1815): là danh sĩ sống cuối đời Lê mạt, đầu nhà Nguyễn; tự Kính Phủ, hiệuNgu Hồ. Quê ở làng Du Lâm, huyện Đông Ngàn, phủ Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh.
    Nguyễn Án xuất thân Khoa bảng, là người thông minh hiếu học, nhưng lớn lên giữa thời ly loạn, việc học hành lỡ dở. Ông đã sống những năm tháng gần như ẩn dật ở đất Thăng Long, trú ngụ trên mảnh đất thuê của người khác và mưu sinh một cách vất vả bằng nghề dạy học, làm thuốc, tìm niềm an ủi ở thiên nhiên và những người bạn văn chương.. Năm Gia Long thứ 4 (1805), lúc đã 35 tuổi, do được tiến cử, ông được bổ làm Tri huyện Phù Dung (nay là huyện Phù Cừ, tỉnh Hưng Yên), nhưng chỉ được một năm, ông lấy cớ có việc riêng xin từ quan. Năm Đinh Mão (1807), nhà Nguyễn mở khoa thi Hương đầu tiên ở Bắc Thành, ông đỗ Cử nhân tại trường thi Kinh Bắc (nay thuộc tỉnh Bắc Ninh), sau nhập chung với Trường Thăng Long, rồi lại ra làm Tri huyện Tiên Minh, tỉnh Kiến An (nay là huyện Tiên Lãng, thành phố Hải Phòng).
    Tác phẩm Nguyễn Án còn lại gồm: Phong Lâm minh lãi thi tập(Tập thơ Tiếng kêu của gió thổi qua rừng):Tập thơ gồm 75 bài thơ, phần lớn là thơ đề vịnh cảnh, thơ cảm hoài và tiễn tặng bạn bè. Hiện còn bản chép tay ở Thư viện Viện nghiên cứu Hán Nôm (Hà Nội), số hiệu: A. 1201.
    Về văn, ngoàiTang thương ngẫu lục (hợp soạn với Phạm Đình Hổ), ông còn viết lời tựa cho tập thơĐông dã học ngôn thi tậpcủa Phạm Đình Hổ, thể hiện quan niệm của mình về thơ.
    Tác phẩm Tang thương ngẫu lục gồm 90 thiên, chia làm 2 quyển: quyển thượng 40 bài, quyển hạ 50 bài. Mỗi bài đều có tên tựa của tác giả hoặc Tùng Niên (Phạm Đình Hổ) hoặc Kính Phủ (Nguyễn Án).Trong đó có 32 thiên được ghi rõ tác giả là Kính Phủ.

    (***) Thơ Phạm Đình Hổ, bên cạnh những bài viết về cái nghèo khổ, cái bất đắc chí của mình; về tình cảm bạn bè, cảm quan lịch sử...còn có một số bài viết về các thiếu nữ trẻ trung, ngây thơ khá độc đáo như bài Hoài cổ:
    Khứ tuế đào hoa phát, / Lân nữ sơ học kê.
    Kim tuế đào hoa phát, / Dĩ giá lân gia tê (tây).
    Khứ tuế đào hoa phát, / Xuân phong hà thê thê.
    Lân nữ đối hoa khấp, / Sầu thâm mi chuyển đê.
    Kim tuế đào hoa phát, / Xuân thảo hà thê thê.
    Lân nữ đối hoa tiếu, / Ngâm thành thủ tự đề.

    Cảm nhớ chuyện cũ
    Năm ngoái hoa đào nở,
    Cô gái láng giềng mới học cài trâm,
    Năm nay hoa đào nở,
    Cô đã lấy chồng ở nhà láng giềng phía tây.
    Năm ngoái hoa đào nở,
    Gió xuân sao lành lành,
    Đứng trước hoa cô gái láng giềng khóc,
    Buồn quá đôi lông mày sa xuống.
    Năm nay hoa đào nở,
    Cỏ xuân sao mà xanh tươi.
    Đứng trước hoa cô gái láng giềng tươi cười
    Thơ làm xong tự tay cô viết lấy. 
    (1)Lễ Ký: Kinh Lễ hay còn gọi là Lễ ký là một quyển trong bộ Ngũ Kinh của Khổng Tử, tương truyền do các môn đệ của Khổng Tử thời Chiến quốc viết, ghi chép các lễ nghi thời trước. Học giả thời Hán là Đới Đức đã dựa vào bản do Lưu Hướng thu thập gồm 130 thiên rồi tổng hợp giản hoá còn 85 thiên gọi làĐại Đới Lễ ký, sau đó cháu Đới Đức là Đới Thánh lại đơn giản hoá Đại Đới Lễ ký còn 46 thiên, thêm vào các thiên Nguyệt lệnh, Minh Đường vị và Nhạc ký, tổng cộng là 49 thiên, được gọi là Tiểu Đới Lễ ký. Đại Đới Lễ ký đến thời Tuỳ, Đường bị thất lạc quá nửa, hiện nay chỉ còn 39 thiên, do đó Tiểu Đới Lễ ký là bản Kinh Lễ thông dụng hiện nay.
    Toàn bộ Kinh Lễ được viết bằng tản văn, không chỉ miêu tả chế độ lễ nghi đương thời mà còn giáo dục về nhân nghĩa, đạo đức, ngoài ra có giá trị về văn học rất lớn. Đại Học và Trung Dung, hai cuốn sách kinh điển của Nho giáo, chính là hai thiên trong Kinh Lễ. Khổng Tử hiệu đính lại Kinh Lễ mong dùng làm phương tiện để duy trì và ổn định trật tự. Khổng Tử nói: "Không học Kinh Lễ thì không biết đi đứng ở đời" (sách Luận Ngữ).
    (2) Thúc Tôn Thông: Lã hậu hay Lữ hậu (241-180 TCN), là hoàng hậu đầu tiên đời nhà Hán - vợ Hán Cao Tổ Lưu Bang. Lã hậu có tên Lã Trĩ, sinh ra Thái tử Lưu Doanh (sau khi Lưu Bang chết thì lên ngôi vua gọi là Hán Huệ Đế) và công chúa Lỗ Nguyên. Khi Lưu Doanh làm thái tử, Thúc Tôn Thông làm Thái phó.
    (3) Thích phu nhân: Ngoài Hoàng hậu Lã Trĩ (còn gọi là Lã Hậu), Lưu Bang còn nhiều vợ khác, trong đó có Thích phu nhân rất được yêu, sinh được hoàng tử Như Ý.
    Sau khi Lưu Bang chết, Lã hậu sai người mang thuốc độc đến cho Như Ý uống. Như Ý uống xong thì chết ngay. Lã Hậu lại sai chặt chân tay Thích phu nhân, móc mắt, đốt tai, cho uống thuốc thành câm, quẳng vào chuồng lợn gọi đó là "con người lợn".
    (4) Bá Di là con vua nước Cô Trúc - quốc gia chư hầu nhà Thương trong lịch sử Trung Quốc. Ông cùng người em là Thúc Tề nổi tiếng vì sự trung thành với nhà Thương bị nhà Chu tiêu diệt. Bá Di là con trai lớn nhất của Á Vi - vua nước Cô Trúc thời vua Trụ nhà Thương. Vua cha muốn lập người em thứ 3 là Thúc Tề. Sau khi cha mất, Thúc Tề nhường lại ngôi vua cho Bá Di nhưng ông không nhận, nói rằng phải theo mệnh lệnh của cha và bỏ trốn. Thúc Tề thấy ông bỏ khỏi nước Cô Trúc cũng đi theo ông. Người trong nước bèn lập Á Bằng - người em của Bá Di và anh của Thúc Tề lên ngôi.
    Nghe tin Tây Bá Cơ Xương (4*)là người trọng đãi hiền sĩ, anh em Bá Di tìm đến. Nhưng khi hai người đến nơi thì Cơ Xương đã qua đời, con là Cơ Phát lên thay, mang quân đánh vua Trụ tàn bạo. Bá Di cùng em đến trước ngựa của Cơ Phát can rằng: “Cha chết không chôn lại gây việc can qua có thể gọi là hiếu không? Là bầy tôi giết vua có thể gọi là nhân không?”. Cơ Phát không nghe. Những người hộ vệ của Cơ Phát định giết anh em Bá Di nhưng Khương Tử Nha (4**) ngăn lại và đỡ anh em ông dậy và cho đi nơi khác.
    Cơ Phát mang đại quân cùng các chư hầu đánh vua Trụ. Vì Trụ tàn bạo mất lòng người nên bị đại bại ở trận Mục Dã, tự thiêu mà chết. Cơ Phát lên ngôi thiên tử, lập ra nhà Chu, tức là Chu Vũ Vương. Các chư hầu đều tôn thờ nhà Chu. Riêng Bá Di và Thúc Tề xấu hổ về việc đã can ngăn vua Chu diệt bạo chúa, bèn cùng nhau thề không ăn thóc nhà Chu. Bá Di và Thúc Tề lên núi Thú Dương, hái rau vi ăn qua bữa. Rau vi không thể nuôi sống được, cuối cùng ông và Thúc Tề đều chết đói tại núi Thú Dương. Trước khi qua đời, Bá Di và Thúc Tề làm bài ca: Lên núi Tây chừ hái rau vi, / Lấy bạo đổi bạo chừ có hay chi?/ Thần Nông, Ngu, Hạ chìm cả rồi, ta biết nơi nào đi?. Đời sau thường dùng hình ảnh Di, Tề để nói về việc đi ở ẩn.
    (4*) Tây Bá Cơ XươngChu Văn Vương (1090 TCN - 1050 TCN), họ Cơ, tên Xương, người đất U (nay thuộc ấp Tuần, huyện Bân, tỉnh Thiểm Tây), là người đã xây nền móng triều đại nhà Chu Trung Quốc.
    Khi cha Cơ Xương là Cơ Quý Lịch còn ở ngôi, Chu chỉ là một nước nhỏ thuộc vương triều nhà Thương.Quý Lịch từng dẫn người tộc Chu từ sông Vị Thuỷ xuống xây thành Cư Ấp ở Chu Nguyên, phía tây nam núi Kỳ Sơn, gây dựng cơ sở tiến về phía Đông.Về sau, Quý Lịch bị vua nhà Thương giết hại,Cơ Xương nối ngôi cha làm tước bá, gọi là Tây Bá Cơ Xương.
    (4**) Khương Tử Nha: Tề Thái Công, tên thật là Khương Thượng tự là Tử Nha, nên thường được gọi là Khương Tử Nha, là công thần khai quốc nhà Chu thế kỷ 12 trước Công nguyên và là vua khai lập nước Tề tồn tại từ thời Tây Chu đến thời Chiến Quốc trong lịch sử Trung Quốc.
    Khương Tử Nha được biết đến như một vị tướng tài vĩ đại và là người góp phần lập lên sự nghiệp nhà Chu kéo dài hơn 800 năm, là triều đại kéo dài nhất trong lịch sử Trung Quốc.
    Khương Thượng là người ở Đông Hải. Tổ tiên ông từng làm chức Tứ nhạc giúp vua Hạ Vũ trị thủy có công. Sử ký xác định tổ tiên ông được phong ở đất Lã vào khoảng thời vua Thuấn đến thời nhà Hạ, do đó lấy  làm họ. Ông còn được dân gian và các nhà nghiên cứu lịch sử gọi bằng nhiều tên khác như:Khương Thái Công;Thái Công VọngLã Vọng.
    Sang thời nhà Thương, vì Lã Thượng là con cháu chi thứ nên dần dần trở thành dân thường. Vì nhà nghèo, Khương Thượng tuổi già thường đi câu cá ở sông Vị.Thủ lĩnh bộ tộc Chu là Tây Bá Cơ Xương đi săn, gặp Khương Thượng đang câu cá phía bắc sông Vị. Cơ Xương nói chuyện với ông rất hài lòng, ngưỡng mộ tài năng của ông. Cơ Xương nhớ lời tổ tiên là Thái Công dặn rằng sẽ có vị thánh đến nước Chu, giúp Chu hưng thịnh, ứng với quẻ bói trước khi đi săn. Do đó Cơ Xương quả quyết Khương Thượng chính là người Thái Công mong đợi trước đây và tôn ông làm Thái Công Vọng (nghĩa là người mà [Chu] Thái Công mong đợi), đón lên xe về cung và tôn ông làm thầy.

    (5) Kê Khang : Kê Khang (233-262): tên Thúc Dạ, người đời Tấn, ở đất Trất (nay thuộc huyện Túc, tỉnh An Huy). Dòng họ Hề, lánh nạn đến Kê Sơn, do đó tự đặt hiệu là Kê Khang.

    Trên đồ sứ Trung Hoa, ta thường thấy vẽ 7 ông cụ già ngồi trong rừng tre, kẻ đánh cờ, gẩy đàn, người uống rượu ngâm thơ. Đó là hình ảnh của Trúc Lâm Thất Hiền (5*) đời nhà Ngụy (220-264). Kê Khang là một trong bảy người hiền này, ông nổi tiếng bởi Khúc nhạc Quảng Lăng của mình.
    Kê Khang là một người có khí tiết cao khiết giàu ḷng nghĩa hiệp và cũng là người có biệt tài trong các môn cầm, kỳ, thi, họa ... Một điều lạ hơn hết là mặc dù có tài như thế, nhưng ông không học qua một thầy nào. Từ nhỏ chí lớn, ông cố công tự học, rèn luyện mà nên. Kê Khang cũng như 6 người bạn kia đều thích an nhàn dật lạc, say mê đạo Lão. Ông làm đến chức Trung Tán đại phu nhưng luôn luôn chê vua Thang, vua Võ, khinh Văn Vương và Khổng Tử. Kê Khang làm quan một thời gian rồi từ quan ở ẩn, để hưởng cảnh tiêu diêu lúc về già. Nhưng sau đó bị Tư Mã Chiêu giết hại.
    Khi lâm hình Kê Khang vẫn ung dung gảy khúc Quảng Lăng tán. Ðàn xong nói: "Có kẻ xin học bài này, ta không dạy, thế là từ đây không ai còn đàn bài Quảng Lăng này nữa”!  Nguyễn Du có bài thơ Kê Khang Cầm đài:
    Cầm đài (5a) cổ tích ký Kê Khang / Nhân tử cầm vong đài diệc hoang
    Văn vũ  (5b) thất huyền chung tịch tịch / Đông tây lưỡng Tấn (5c)diệc mang mang
    Chí kim bất hủ duy đồng tính / Thử hậu hà nhân đáo túy hương (5d)
    Thán tức Quảng Lăng huyền tuyệt hậu / Tì bà tân phổ bán Hồ Khương (5e)
    Dịch nghĩa:
    Sách xưa ghi "Cầm đài" là của Kê Khang
    Người chết, đàn mất, đài cũng bỏ hoang
    Bảy dây văn vũ cuối cùng đã im bặt
    Hai nước Đông Tấn, Tây Tấn cũng mất tăm
    Đến nay cái bất hủ ở ông còn lại là tính trẻ con
    Sau đó ai là người đến với làng say?
    Than thở cho tiếng đàn Quảng Lăng nay đã thất truyền
    Bài nhạc mới đàn tì bà, một nửa là theo điệu Hồ Khương. 
    (5a) Cầm đài: chỗ Kê Khang đánh đàn. Truyện Kiều của Nguyễn Du có câu: "Rằng nghe nổitiếng cầm đài / Nước non luống những lắng tai Chung Kỳ".
    (5b) Dây đàn. Vũ là dây to, văn là dây nhỏ. Truyện Kiều có câu: "So dần dây vũ dây văn, Bốn dây to nhỏ theo vần cung thương".
    (5c) Tức Đông Tấn và Tây Tấn.
    (5d)Làng say. Kê Khang là bạn thân với Lưu Linh, tác giả bài Tửu đức tụng .
    (5e) Người Hồ, ở miền tây bắc Trung Quốc.

    (5*)Trúc lâm thất hiền: Nhóm bảy người hiền trong rừng Trúc: 1/Nguyễn Tịch (210-263); 2/Kê Khang(223-263); 3/Lưu Linh (220-300); 4/Sơn Đào (205-283); 5/Hướng Tú (221-300); 6/Vương Nhung (234-305); 7/Nguyễn Hàm.
    Trúc lâm thất hiền, bảy nhà thơ, nhà văn Trung Quốc sống thời kì cuối Ngụy đầu Tấn, thế kỉ  thứ 3, ở ẩn trong rừng trúc, đánh đàn, uống rượu, ngâm thơ, bàn triết học Lão Trang, nói chuyện huyền viễn để tỏ lòng chống đối chế độ đen tối đương thời. Trong số đó, nổi tiếng nhất là Nguyễn Tịch và Kê Khang. Nguyễn Tịch (210 - 263) có 82 bài "Vịnh hoài thi" nói lên nỗi bất mãn của ông trước hiện thực và nỗi lo lắng buồn thương cho cuộc đời, nhưng lời lẽ rất kín đáo. Ông "dùng khí mà làm thơ" (Lưu Hiệp), cho nên "khó biết ông nói gì", người đọc chỉ phỏng đoán. Bài "Đại nhân tiên sinh truyện" là một bài ca, nhà thơ dùng hình tượng "Đại nhân tiên sinh" để tả tâm tình bi quan, tuyệt vọng của mình trước "ngày cuối cùng", "vũ trụ tan vỡ", không tránh được. Nguyễn Tịch có cặp mắt rất đặc biệt, khi vừa lòng ai thì nhìn với đôi mắt xanh, còn không vừa lòng ai thì nhìn với đôi mắt trắng. Khi mẹ Nguyễn Tịch mất, ông Kê Hỷ mang đồ lễ đến viếng, Nguyễn Tịch tiếp nhìn với đôi mắt trắng dã. Hỷ ra về mà bụng không bằng lòng. Em của Kê Hỷ là Kê Khang nghe biết chuyện đó, mới mang rượu và cắp đàn đến, thì Tịch rất vui, vừa ý lắm, tiếp Kê Khang với đôi mắt xanh. Kê Khang (223 - 263) sở trường về tản văn, tác phẩm nhuốm màu sắc Lão Trang rất đậm, nhưng tâm tình phẫn nộ, bất bình bộc lộ khá rõ. Tính ông lại cương trực, "quá thanh cao" nên cuối cùng ông bị họ Tư Mã giết hại. Cả hai ông đều nhất trí phủ định lễ giáo của Nho gia, vì họ Tư Mã và bọn tay sai lợi dụng thứ Nho giáo này chuẩn bị lấy hình thức "vua nhường ngôi" che đậy việc tiếm quyền. Ngoài ra, Lưu Linh cũng sống phóng túng, ngạo mạn, có bài "Tửu đức tụng" được lưu truyền.
    (6)Lý Đạo Tái: Pháp hiệulà Huyền Quang (1254-1334), người hương Vạn Tải, châu Nam Sách, lộ Lạng Giang. Nay là làng Thái Bảo, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh. Học giỏi, đỗ cả thi hương, thi hội. Ông đỗ đệ nhất giáp tiến sĩ (trạng nguyên) khoa thi năm 1272 (hay 1274?) và được bổ làm việc trong Viện Nội Hàn của triều đình, tiếp sư Bắc triều, nổi tiếng văn thơ. Sau này từ chức đi tu, theo Trần Nhân Tông lên Trúc Lâm. Là một Thiền sư Việt Nam, tổ thứ ba dòng Trúc Lâm Yên Tử. Cùng với Trúc Lâm Đầu Đà Trần Nhân Tông (1*) và Pháp Loa (1**) ông được xem là một Đại thiền sư của Việt Nam. Theo sách Tam tổ thực lục (1***), mẹ của Huyền Quang là Lê Thị hay đến chùa Ngọc Hoàng cầu nguyện vì tuổi đã 30 mà chưa có con. Đầu năm Giáp Dần 1254, vị trụ trì chùa Ngọc Hoàng là Huệ Nghĩa mơ thấy "các tòa trong chùa đèn chong sáng rực, chư Phật tôn nghiêm, Kim Cương Long Thần la liệt đông đúc. Đức Phật chỉ Tôn giả A-nan-đà bảo: “Ngươi hãy tái sinh làm pháp khí Đông Độ và phải nhớ lại duyên xưa”. Năm ấy Lê Thị sinh Huyền Quang. Lớn lên Sư dung mạo dị thường, làm quan đến chức Hàn Lâm.
    Một hôm, Sư cùng vua Trần Anh Tông đến chùa Vĩnh Nghiêm huyện Phượng Nhãn, nghe Thiền sư Pháp Loa giảng kinh, liền nhớ lại "duyên xưa", xin xuất gia thụ giáo (có tài liệu nói Sư thụ giáo với Bảo Phác ở chùa Vũ Ninh). Sư được cử làm thị giả của Trúc Lâm Đầu Đà và được ban pháp hiệu là Huyền Quang.
    Sau, Sư theo lời phó chúc của Trúc Lâm trụ trì chùa Vân Yên (nay là chùa Hoa Yên) trên núi Yên Tử. Vì đa văn bác học, tinh thông đạo lí nên tăng chúng đua nhau đến học. Niên hiệu Đại Khánh thứ 4 (1317), Sư được Pháp Loa truyền y của Trúc Lâm và tâm kệ. Sau khi Pháp Loa tịch (1330), Sư kế thừa làm Tổ thứ ba của thiền phái Trúc Lâm nhưng vì tuổi đã cao nên Sư giao phó trách nhiệm lại cho Quốc sư An Tâm. Sư đến trụ trì Thanh Mai Sơn sáu năm, sau dời sang Côn Sơn giáo hoá. Ngày 23 tháng 1 năm Giáp Tuất (1334), Sư viên tịch, thọ 80 tuổi. Vua Trần Minh Tông sắc thuỵ là Trúc Lâm Thiền Sư Đệ Tam Đại, đặc phong Từ Pháp Huyền Quang Tôn Giả.
    Huyền Quang là một nhà thơ lớn, sau đây là hai bài thơ tiêu biểu của Sư:
    Cúc hoa
    Vong thân vong thế dĩ đô vong / Toạ cửu tiêu nhiên nhất tháp lương
    Tuế vãn sơn trung vô lịch nhật / Cúc hoa khai xứ tức trùng dương.
    Hoa cúc
    Quên mình quên hết cuộc tang thương
    Ngồi lặng đìu hiu mát cả giường
    Năm cuối trong rừng không có lịch
    Thấy hoa cúc nở biết trùng dương.
    Sơn Vũ
    Thu phong ngọ dạ phất thiền nha / Sơn vũ tiêu nhiên chẩm lục la
    Dĩ lữ thành thiền tâm nhất phiến / Cùng thanh tức tức vị thùy đa? 
    Mưa núi
    Gió thu ban tối thổi hiên tây
    Nhà núi đìu hiu tựa đám cây
    Tấc dạ tu hành từ những thuở
    Dế kêu rầu rĩ bởi ai đây?
     (6*) Trần Nhân Tông (1258-1308), tên thật là Trần Khâm là vị vua thứ ba của nhà Trần (sau vua cha Trần Thánh Tông và trước Trần Anh Tông) trong lịch sử Việt Nam. Ông ở ngôi 15 năm (1278-1293) và làm Thái Thượng hoàng 15 năm. Ông là người đã thành lập Thiền phái TrúcLâm Yên Tử, lấy pháp hiệu là Đầu đà Hoàng giác Điếu ngự. Ông được sử sách ca ngợi là một trong những vị vua anh minh nhất trong lịch sử Việt Nam.
    (6**) Thiền sư Pháp Loa (1284-1330): Là Tổ thứ hai dòng Trúc Lâm; tên tục là Ðồng Kiên Cương. Năm 1305, ông được Trúc Lâm cho thọ giới Tỳ Khưu và Bồ Tát, và cho hiệu là PhápLoa. Năm 1306, ông được lập làm giảng chủ chùa Báo Ân. Năm 1307 cùng với 6 vị đệ tử khác của Trúc Lâm, ông được Trúc Lâm dạy cho bộ Ðại Tuệ Ngữ Lục trên am Quán Trú. Tháng năm năm đó, trên am Ðình Trú, vào ngày rằm, ông được Trúc Lâm trao y bát và tâm kệ. Như vậy là ông được đắc pháp chỉ sau hơn 3 năm tu học. Mồng một tết năm Mậu thân (1308) ông được chính thức làm trụ trì chùa Báo Ân ở Siêu Loại, và được giao cho chức vụ Tổ thứ hai của thiền phái Trúc Lâm. Pháp Loa mất năm 1330, thọ 47 tuổi. 
    (6***) Tam Tổ thực lục: Truyện về 3 vị sư tổ dòng thiền Trúc lâm Việt Nam đời Trần: Trần NhânTông, Pháp Loa, Huyền Quang. Sách tập hợp bài viết từ đời Trần, do 2 nhà sư Quảng Điền và Hải Lượng ở chùa Lân Động, Yên Tử soạn năm 1765. Bài thứ nhất trích từ sách "Thánhđăng lục" (còn gọi là "Thánh đăng ngữ lục"), không rõ tác giả. Bài thứ hai sao lại tấm bia dựng năm 1685, ở chùa Hương Hải, quê hương Pháp Loa ("Đệ nhị đại tổ bi trùng tu sự tích kí"). Bài thứ ba ("Tổ gia thực lục") sáng tác đời Trần, bị thất lạc, giữa thế kỉ 16 mới tìm được. Có một phần đề là "Thiền đạo yếu lược", ghi một số đoạn ngữ lục của Pháp Loa. Cách viết 3 truyện không thống nhất. Truyện Huyền Quang giống truyện truyền kì, có nhiều tình tiết nửa thực nửa hư.
    (7) Nguyễn Hoàn: Với chức trách đứng đầu Quốc sử viện cuối đời Lê, cùng với Lê Quý Đôn, Vũ Miên, Ngô Thời Sĩ…soạn  Đại Việt sử ký tục biên và Đại Việt lịch triều đăng khoa lục (Lịch sử VN giai đoạn từ 1676 đến 1789). Đây là những tư liệu lịch sử quí giá trong giai đoạn này. Cuốn Đại Việt lịch triều đăng khoa lục được coi là công trình chính thức của triều Lê, bởi công trình đó không những cho chúng ta biết những người đỗ đại khoa của triều Lê mà cũng sưu tầm được cả các tiến sĩ của triều Mạc.
    Sau này ông làm đến chức Nhập thị Tham tụng, Lại bộ Thượng thư kiêm hành Lễ bộ sự Hữu tư giảng, Tri Quốc Tử Giám, Tri Hàn lâm viện sự (1774) kiêm Quốc sử tổng tài. Năm 1777, khi ông đã 65 tuổi, theo lệ được về trí sĩ, thăng hàm Thái phó, tước Viện quận công. Chúa Trịnh Sâm vời ông đến tôn làm Quốc lão, xếp ông là một trong năm vị nguyên lão đại thần.
    (8)Nguyễn Thị Điểm Bích : Có nhiều giai thoại xung quanh quan hệ của nàng Điểm Bích với Thiền Sư Huyền Quang, chỉ khác đoạn kể của Phạm Đình Hổ chút ít, riêng bài thơ thì không có sai khác. Chẳng hạn như đoạn kể chuyện về Nàng Điểm Bích sau:
    Nguyễn Thị Điểm Bích, tên tự Tam Nương, người làng Hoạch Trạch, huyện Đường An, lộ Hồng Châu (Hải Hưng). Không ai rõ năm sinh, năm mất của bà… Điểm Bích lớn lên trong một gia đình của bố mẹ nuôi, vốn là một hào phú trong làng, họ Lý. Cả hai ông bà đều nhân từ, rất thương người, lại thấy cô con nuôi hiền thục nết na và sáng dạ, Lý ông bèn thuê thầy đến nhà dạy cho cô biết chữ thánh hiền. Chỉ trong thời gian ngắn, cô Điểm Bích đã trở thành một thiếu nữ duyên dáng và có học vấn. Sẵn có sắc đẹp, cô được tiến làm cung nhân cho vua Trần Anh Tông (1293 - 1314). Là một cung nữ rất thông minh, có tài xuất khẩu thành chương, đặc biệt giỏi thơ quốc âm, ứng đối lưu loát; cô được vua Trần Anh Tông giao cho nhiệm vụ lên Yên Tử để thử thách đạo hạnh thiền sư Huyền Quang tức danh sĩ Lý Đạo Tái, sau này ông là vị tổ thứ 3 của phái thiền Trúc Lâm.
    Trải đã dài ngày, bày hết kế nhưng không lung lạc được nhà sư Huyền Quang. Sau cùng, Điểm Bích nghĩ cách oán than gia cảnh túng quẫn, mà cha già đang bệnh nặng… Nàng cố than thở cốt lấy cho được đồng vàng Kim Tử do nhà vua đã ban cho thiền sư. Muốn chắc hơn, Điểm Bích còn nghĩ cách tự đặt bốn câu thơ lơi lả trăng hoa (chữ nôm) với ý đồ gán cho nhà sư là tác giả. Liền đó cô quay về cung tâu vua, dâng Kim Tử và trình bài thơ ấy:
    Vằng vặc trăng mai ánh nước
    Hiu hiu gió trúc ngân sinh
    Người hòa tươi tốt cảnh hòa lạ
    Mâu Thích ca nào thuở hữu tình.
    Xét kĩ bài thơ ấy thì rõ ràng nhà sư Huyền Quang đã bị dao động trước nhan sắc của nàng Điểm Bích. Vua giận truyền đòi nhà sư về hạch tội. Nhưng khi nhà sư sắp bị phạt trượng (đánh bằng gậy) thì có dân làng gần chùa kéo nhau đến quì lạy minh chứng, bởi họ chỉ vì vô tình mà biết rõ được chuyện oan ức này ngay từ đầu. Nhà vua cho thẩm tra lại, biết sư Huyền Quang bị oan, cho về chùa Yên Tử tiếp tục làm phận sự tu hành. Còn cung nhân Điểm Bích bị phạt giáng xuống làm thị nữ quét chùa trong cung Cảnh Linh.

    Tương truyền từ đấy nàng Điểm Bích hối hận, thường đặt thơ theo lối kể hạnh để răn đời. Vì thời đó phần nhiều là thơ xuất khẩu nên sớm bị thất truyền.

    (Hết)
    Đỗ Ngọc Thạch