truyện ngắn đỗ ngọc thạch
Đỗ Ngọc Thạch
HAI TRUYỆN NGẮN VỀ TUỒNG VÀ CHÈO CỦA ĐỖ NGỌC THẠCH
DIỄN ĐÀN VĂN NGHỆ
HAI TRUYỆN NGẮN VỀ TUỒNG VÀ CHÈO CỦA ĐỖ NGỌC THẠCH TUỒNG VÀ CHÈO Truyện ngắn của Đỗ Ngọc Thạch 1. Tuồng và Chèo là hai loại hình nghệ thuật sân khấu truyền thống đậm nét bản sắc dân tộc nhất của nghệ thuật sân khấu Việt Nam . Tuồng thiên về Dương tính: thể hiện tính Bi hùng của cuộc sống là sở trường của Tuồng. Chèo thiên về Âm tính: thể hiện tính Nhân bản của cuộc sống là sở trường của Chèo. Trải qua bao cơn biến thiên, tưởng như có lúc Tuồng bị xếp vào Kho Lưu trữ của Bảo Tàng Sân khấu, chèo bị đuổi về góc chiếu nơi sân đình thôn quê!...Nhưng, những người say đắm, tâm huyết với Tuồng và Chèo không hề suy giảm, công chúng sân khấu không phải đã hoàn toàn lạnh nhạt với Tuồng và Chèo. Và, như là một tất yếu, các Nhà Hát Tuồng và Nhà Hát Chèo vẫn rực rỡ ánh đèn, dù chỉ có một vài khán giả vẫn diễn!... * Trần Tương là dòng dõi Võ tướng thời gươm đao, sang thời súng đạn những tưởng sẽ hết thời, nhưng có ông thầy tướng nói với cha của Trần Tương: “Thằng con trai ông có tướng cách của một Võ tướng, có thể tới chức Đại tướng quân. Thập bát ban võ nghệ gia truyền của ông sẽ vẫn có đất dụng võ nếu như ông cho nó theo học nghề mấy ông thầy Tuồng!” Cha của Trần Tương nghe theo. Quả nhiên sau năm năm được học hành nghiêm chỉnh ở trường Nghệ thuật Sân khấu, Trần Tương trở thành một Kép Võ nổi danh, bước chân lên sân khấu là lĩnh ấn Đại tướng quân, Nam chinh Bắc phạt như gió cuốn mây bay!... Lệ Nương là dòng dõi Quan Đại thần thời phong kiến, sang thời đại cách mạng chuyên chính vô sản, không những sản nghiệp mất hết mà không còn tấc đất dung thân, phải sống ngụ cư phiêu bạt. Có ông thầy tướng nói với người cha của Lệ Nương: “Nhà ông đàn bà con gái nhiều, tuy sa cơ lỡ vận nhưng chưa phải đã hết đường sống vì đàn bà con gái nhà ông đều có quý cách cành vàng lá ngọc, không là Hoàng hậu, Phi tần thì cũng là Tể tướng phu nhân, Phò mã phu nhân … Vì thế, cho họ đi học lấy nghề hát chèo, tuy là “xướng ca vô loài” nhưng ăn trắng mặc trơn, lên Bà lên Mợ không mấy chốc!” Người cha của Lệ Nương nghe theo, cho năm chị em gái theo học nghề ở một gánh hát chèo của tỉnh, rồi lại lên Hà Nội học Chèo ở Trường Nghệ thuật Sân Khấu. Quả nhiên sau khi ra trường, cả năm chị em Lệ Nương đều vào vai từ Hoàng Hậu, Vương phi , xuống thấp nhất là Công chúa! Cứ mỗi khi lên sân khấu là thiên hạ tiền hô hậu ủng : “Hoàng hậu giá lâm!”, hoặc “Công chúa giá lâm!”… 2. Ban đầu, Trần Tương và Lệ Nương không hề quen biết nhau bởi hai người hoạt động ở hai loại hình sân khấu khác nhau, lại mắc cái bệnh là chẳng bao giờ thèm ngó ngàng đến chuyện của người khác, tức dân Tuồng chẳng thèm xem Chèo và dân Chèo cũng chẳng buồn xem Tuồng, giống như nhà văn chê nhà thơ mơ mộng hão huyền nên không thèm đọc thơ và nhà thơ thì chê nhà văn là “loài bò sát” không thèm nhìn tới! Ban đầu, cuộc sống tuân theo qui luật “Lửa gần rơm lâu ngày cũng bén”, tức các diễn viên trong một Đoàn, hàng ngày “ra đụng vào quệt” cho nên cuối cùng cùng “Tạo hóa” cũng sắp xếp đâu vào đó, “nồi tròn úp vung tròn, nồi méo úp vung méo”. Ai cũng có đôi có lứa. Chị em Lệ Nương cũng không ra ngoài quy luật đó và thường là các cặp đôi trong vai diễn trở thành cặp đôi ở đời thường. Lệ Nương thường vào vai Thị Mầu nên làm vợ anh chàng Phan Tài thường vào vai Anh Nô! Bên cạnh cái quy luật “Lửa gần rơm” cũng có quy luật “Món ngon ăn mãi cũng nhàm”, thế mới là cuộc sống muôn màu muôn vẻ, đa dạng, đa thanh và đa sự! Làm vợ anh chàng Nô một thời gian, sau khi thỏa mãn nhục dục rồi, Thị Mầu (tức Lệ Nương) thấy anh chàng Nô này thật là tầm thường: vừa tầm thường về vai vế trong làng Chèo vừa tầm thường về phong độ của một nam nhi quân tử! Và thế là trong một lần vào vai Quý phi, Lệ Nương đã phải lòng bậc Quân vương hào hoa cả trên sân khấu lẫn trong cuộc đời. Và lẽ đương nhiên, Lệ Nương chỉ là vợ bé của bậc Quân vương đó ở ngoài đời, cũng như chỉ là Quý phi chứ không phải là Chính Cung Hoàng Hậu như ở trên sân khấu! Phải đợi đến một năm sau, nhờ một cuộc phế truất Hoàng hậu cũ mà Lệ Nương mới được chính thức ngồi vào vị trí “Mẫu Nghi Thiên Hạ” - Hoàng hậu! Song, cái quy luật “phế truất” đó chỉ sau nửa năm lại nhằm vào chính Lệ Nương! Chán ngán cảnh ngộ “Phường Chèo” bi thảm, Lệ Nương liền nảy ra ý định chuyển qua Tuồng để “đổi gió” và khi được chiêm ngưỡng vẻ oai phong lẫm liệt của Trần Tương, Lệ Nương đã bị chinh phục hoàn toàn!...Ấy là khi Lệ Nương xem trích đoạn Tuồng Lã Bố hý Điêu Thuyền, Trần Tương sắm vai Lã Bố thật là không thể hay hơn! Và để quyến rũ Lã Bố một cách bất ngờ, Lệ Nương đã gặp cô Lệ Thanh, người đang giữ vai Điêu Thuyền xin được học truyền nghề. Thật may cho Lệ Nương là cô Lệ Thanh lại có họ hàng với mẹ Lệ Nương và đang là vợ chưa cưới của người sắm vai Đổng Trác, nên khi nghe Lệ Nương nói mục đích tập vai Điêu Thuyền, Lệ Thanh đã đồng ý ngay và rất nhiệt tình giúp. Lệ Nương tập vai Điêu Thuyền rất nhanh, chỉ trong một tuần đã có thể diễn xuất không khác gì Lệ Thanh!... Đúng như “mưu kế” của Lệ Nương và Lệ Thanh, vào một buổi diễn Lã Bố hý Điêu Thuyền cho khách nước ngoài xem, sắp tới giờ thì Lệ Thanh đột ngột đau bụng, cô diễn viên dự bị bố trí sẵn cũng đi đâu mất! Thế là Lệ Thanh đã giới thiệu Lệ Nương thay mình. Và kết quả vượt xa mong muốn của Lệ Nương: Lã Bố (tức Trần Tương) đã bị Điêu Thuyền (tức Lệ Nương) quyến rũ tuyệt đối! Đúng là “Anh hùng không qua khỏi ải Mỹ nhân”!... Khi có người hỏi, “Tại sao trước đây Điêu Thuyền (Lệ Thanh) đầu mày cuối mắt tình tứ với Tướng quân, sao Tướng quân không hề động lòng, cứ đứng sau lưng Đổng Trác như khúc gỗ vậy?”, thì Trần Tương nói: “Lúc đó Điêu Thuyền dù có là một trong Tứ đại Mỹ nhân, nghiêng nước khuynh thành thì Nàng tức Lệ Thanh, đã là phu nhân của Phan Hổ (tức Đổng Trác). Mà Phan Hổ là Sư phụ nghề Tuồng của Trần Tương này, còn Đổng Trác là Nghĩa phụ của Lã Bố, về tình nghĩa riêng tư cũng như việc chung trên sân khấu, tôi đều không thể phản lại Sư phụ Phan Hổ cũng như Nghĩa phụ Đổng Trác, không thể cùng một lúc mang hai tội tày đình là bất nghĩa và bất hiếu!”. Lại hỏi: “Nhưng kịch bản đã nói rõ, Điêu Thuyền đã quyến rũ Lã Bố khiến cho Lã Bố vì muốn có Điêu Thuyền mà giết Đổng Trác đó sao?”. Trần Tương lại nói: “Mưu kế của Quan Tư đồ Vương Doãn quả thật là hiểm độc! Điêu Thuyền đã nhất quyết bắt hồn Lã Bố thì Lã Bố sao mà thoát, đúng là Anh hùng khó qua Ải Mỹ nhân! Cho nên, để hoàn thành vai diễn, tôi phải áp dụng “phương pháp gián cách” của nhà đạo diễn Becton Brest, tức là không “nhập vai”, thì mới qua được mặc cảm tội lỗi!”. Lại hỏi nữa: “Vậy thì khi gặp Điêu Thuyền là Lệ Nương chứ không phải là Lệ Thanh, thì điều gì đã xảy ra?”. “Thì như các bạn đã thấy đó! Vai diễn của Lệ Nương thật hoàn hảo đến nỗi tôi bị “Nhập vai” trăm phần trăm!” – Trần Tương nói đến đó thì làm điệu bộ không thể nói gì thêm!... Khi làm vợ Trần Tương rồi, Lệ Nương còn được giao vào vai Thị Hến trong vở Tuồng đồ Nghêu, Sò, Ốc, Hến và Lệ Nương đã hoàn thành vai diễn thật xuất sắc. Tuy nhiên, Lệ Nương vẫn muốn quay trở về Đoàn Chèo làm Hoàng hậu hay Quý phi còn thích hơn là làm Đào Lẳng hoài! Song, phải chờ đến khi Trần Tương lên chức Trưởng Đoàn thì mới có thể “nói chuyện tay đôi” với Trưởng Đoàn Chèo để gửi vợ trở lại Đoàn Chèo! 3. Trong nghệ thuật sân khấu, các buổi biểu diễn của diễn viên không phải giống nhau trăm phần trăm mà có sự xê xích, trồi sụt đáng kể, tùy thuộc vào tình trạng tâm sinh lý của diễn viên. Từ khi Lệ Nương trở lại với Đoàn Chèo thì buổi biểu diễn nào của Đoàn Chèo cũng có “Tướng quân” Trần Tương và vài bộ tướng của Trần Tương tới xem. Cũng như vậy, buổi biểu diễn nào của Đoàn Tuồng cũng có “Hoàng Hậu” Lệ Nương và vài Phi Tần, Cung Nữ đi xem. Tức có thể nói, việc Trần Tương và Lệ Nương trở thành vợ chồng đã giúp cho hai loại hình sân khấu Tuồng và Chèo gần gũi nhau hơn và học hỏi lẫn nhau được rất nhiều điều! Tuy nhiên, cũng đã xảy ra những “sự cố” ngoài ý muốn!... Trong nghệ thuật biểu diễn của Tuồng, các hành động của nhân vật thường được dùng thủ pháp Ước lệ, Cách điệu để thể hiện. Chẳng hạn như cưỡi ngựa thì chỉ là cầm một cái que có những núm tua rua, dơ cao, chạy tới chạy lui; hoặc muốn thể hiện yêu, ghét thì chủ yếu qua ngữ điệu, ngữ khí của lời nói, lời ca… Nói chung là không làm giống như thật ở ngoài đời! Vì thế, các nhân vật có diễn những vai yêu đương thắm thiết, mây mưa ân ái cuồng si thì về thân thể mà nói, vẫn còn “trong sạch” như chưa hề có chuyện gì xảy ra! Do đó, dù Trần Tương có gặp gỡ, đắm say bao nhiêu mỹ nhân trên sân khấu thì thực ra vẫn chưa chạm vào một chút gọi là cái tà áo phất phơ của họ! Do đó, Trần Tương “có điều kiện” để chung thủy với vợ, tức Lệ Nương! Nhưng ngược lại, tuy là Chèo không phải là phải giống trăm phần trăm y như thật cuộc đời, nhưng hành động của nhân vật Chèo cũng rất gần với hiện thực cuộc đời!...Lệ Nương thường vào vai các Hoàng Hậu hoặc các Phi, Tần , mà các loại vai này thường là luôn xoắn suýt, tay ấp vai kề với các vai nam (toàn bậc quân vương hoặc quan tướng) cho nên mỗi khi đi xem Vợ (tức Lệ Nương) biểu diễn về Trần Tương thường không kìm nổi sự ghen tuông: đụng chạm hoài thì cũng như “nước chảy đá mòn” chứ không thể nói là không ăn nhằm gì! … Một lần, Lệ Nương sắm vai Thái Hậu Dương Vân Nga, không hiểu sao hôm ấy tâm trạng lại rất hưng phấn khiến cho người sắm vai Tướng quân Lê Hoàn ngất ngây, đi quá cả giới hạn sân khấu, cứ như là có thể đến “đỉnh điểm khoái lạc” ngay trên sân khấu! Ngồi dưới hàng ghế khán giả đầu tiên, Trần Tương không kìm nén được cơn ghen tuông bộc phát, đã nhảy vọt lên sân khấu như thể muốn lấy đầu Lê Hoàn! Tưởng chừng vở diễn sẽ bị “phá vỡ”, song có hai cái may đã hóa giải tình huống thậm khẩn cấp đó: Hôm đó, Trần Tương còn mặc y phục vai diễn Tướng quân, do vừa hết vai thì phóng ngay tới Đoàn Chèo xem vợ diễn, chưa kịp tẩy trang, thay đồ nên khi Trần Tương vừa vọt lên sân khấu thì hai người sắm vai vệ binh của Lê Hoàn không ngờ lại phản ứng rất linh hoạt: đồng thanh hô to “Phó tướng làm phản” và cùng “xuất chưởng” đánh gục Trần Tương ngay từ chiêu đầu tiên! Sau đó vở diễn lại tiếp tục như đã chuẩn bị từ trước! Lại có một lần khác, sự can thiệp của Trần Tương không những không ngăn được “cơn sóng tình” của người đang diễn cặp đôi với Lệ Nương mà còn tạo cơ hội cho y thực hiện được niềm khao khát chiếm hữu người đẹp! Đó là lần một Đoàn Chèo của tỉnh nọ, muốn dựng vở Lưu Bình, Dương Lễ nhưng trong Đoàn không chọn được người vào vai Nàng Châu Long ưng ý, bèn mời Lệ Nương tới vào vai Nàng Châu Long với giá thù lao rất cao. Tất nhiên Lệ Nương không từ chối. Và thật đương nhiên, người sắm vai Lưu Bình đã mê đắm Lệ Nương ngay từ giây phút đầu tiên, hay còn gọi là đã bị “Tiếng sét Ái tình” đánh trúng tim! Vì thế, đoạn Nàng Châu Long một thân một mình nuôi Lưu Bình dùi mài kinh sử đã đi quá lố so với kịch bản: Lưu Bình cứ nhất quyết đòi “động phòng” rồi mới chịu lên Kinh ứng thí! Lệ Nương vào vai Nàng Châu Long lúc đó lúng túng không biết xử lý ra sao, trong khi người sắm vai Lưu Bình cứ cò kéo đòi “động phòng”! Khán giả đã xao động, Trần Tương thấy vậy định vọt lên sân khấu “lấy đầu” Lưu Bình như lần Lê Hoàn tình tứ với Dương Vân Nga, nhưng nghĩ lại đành thôi! Đang không biết làm sao thì một chiến hữu đi cùng Trần Tương hiến kế: “Bây giờ để đệ lén lên hậu trường ngắt cầu dao điện, huynh lập tức vọt lên sân khấu cho cái thằng Lưu Bình si tình ấy một chưởng, nhưng nhớ nhẹ tay thôi đấy!”. Trần Tương đồng ý ngay. Khi điện phụt tắt, tất cả tối đen. Trần Tương nhảy vọt lên sân khấu, nhưng thật không ngờ tấm phông mặt tiền sân khấu ai đã kéo ra nhanh quá, khiến Trần Tương lao vào tấm vải nhung to đùng, bị gói lại như cái kẹo! Đến lúc Trần Tương thoát ra được khỏi tấm vải nhung to đùng thì quờ quạng, mò tìm hoài mà không thấy Lệ Nương tức Nàng Châu Long đâu! Thì ra khi đèn vừa phụt tắt, người sắm vai Lưu Bình vốn rất to khỏe đã bế thốc Nàng Châu Long vào chỗ bí mật và “động phòng” mà không ai hay biết! 4. Tuy cuộc sống gia đình của hai vợ chồng Trần Tương và Lệ Nương có không ít những va chạm đầy kịch tính, nhưng về cơ bản vẫn là gia đình hạnh phúc, khi vợ chồng bên nhau, mọi chuyện đều có thể tha thứ, bỏ qua. Sự gắn kết không thể phá vỡ giữa Trần Tương và Lệ Nương là Âm Dương hòa hợp… Lệ Nương đã đẻ cho Trần Tương hai đứa con, đúng “tiêu chuẩn” hai vợ chồng chỉ sinh hai con và điều hai vợ chồng đặc biệt mãn nguyện là thằng anh con trai thì giống bố từ đầu đến chân, còn cô em con gái thì giống mẹ từ trong ra ngoài! Trần Tương đinh ninh rằng thằng con trai Trần Tướng sẽ nối nghiệp bố mà theo học lớp diễn viên Tuồng, còn Lệ Nương cũng chắc mẩm rằng cô con gái Lệ Nữ sẽ nối nghiệp mẹ mà theo học lớp diễn viên Chèo, nhưng đến ngày nhập học thì cả hai anh em đều nói: “Chúng con vào lớp Pantomin – Kịch câm!”… Sài Gòn, 18-11-2009 Đỗ Ngọc Thạch CHUYỆN TÌNH CỦA THỊ MÀU Truyện ngắn Đỗ Ngọc Thạch Trong Nghệ thuật sân khấu Chèo, nhân vật Thị Mầu là “nổi đình đám” vào loại đặc sắc nhất bởi cả hai lý do hình thức thể hiện và nội dung tư tưởng. Về hình thức, Thị Mầu là một cô gái trẻ đẹp được thể hiện bằng một thứ ngôn ngữ Chèo rất đặc trưng, đa dạng, phong phú và được các nghệ sĩ biểu diễn rất sinh động, tài hoa. Có thể nói, nhân vật Thị Mầu là “đất dụng võ” rất đắc địa của các nghệ sĩ tài năng, mà nghệ sĩ Ưu tú Thu Huyền là một ví dụ. Về nội dung, Thị Mầu là biểu tượng của khát vọng Tình yêu, là sự phản kháng mạnh mẽ, quyết liệt của Tình yêu đối với những trói buộc khắt khe, vô nhân đạo của lễ giáo Phong kiến. Chính vì thế mà cho đến nay, vở Chèo Quan Âm Thị Kính nói chung và nhân vật Thị Mầu nói riêng vẫn chinh phục hoàn toàn khán giả của cuộc sống hiện đại. Hẳn công chúng Chèo không bao giờ quên được sự xuất hiện rất độc đáo của Thị Mầu đã làm sôi động sân khấu Chèo - tâm hồn con người hàng Thế kỷ qua: Này chị em ơi ? (tiếng đế: sao ?) . Nay tư mai đã là rằm . Ai muốn ăn oản thời năng lên chùa đấy chị em ơi ? (tiếng đế:Các già lên chùa từ bao giờ nhỉ ? – tiếng đế: Mười tư rằm ) Thế mà Mầu tôi mang tiếng lẳng lơ, đò đưa cấm giá, Tôi lên chùa từ mười ba… tôi lên chùa kia còn thời thấy tiểu mười ba. Chị em ơi! (tiếng đế: sao?) Tôi lên chùa thấy tiểu mười ba, mà thấy sư mười bốn ,vãi già mười lăm đấy chị em. A tôi thấy ông sư còn là mười bốn, vãi già còn là mười lăm. Tôi muốn cho một tháng có đôi đôi rằm… Chị em ơi! ( tiếng đế: Sao?) Tôi muốn cho một tháng đôi rằm, mà trước vào lễ Phật để…sau thăm vãi già đấy chị em. A nay trước tôi vào mà tôi lễ Phật, này mà để có sau thăm bên vãi già… * Có rất nhiều người mê Chèo, mà cụ thể là mê nhân vật Thị Mầu, đã lấy tên Thị Mầu đặt tên cho con gái của mình. Ông Lê Trào ở Làng Thượng Sơn là một trong số những người mê Chèo, mê nhân vật Thị Mầu như thế. Nhà người ta, thường là cầu con trai vì con gái thay nhau chui ra làm thành một bầy “Vịt Giời” khiến cho gia chủ không có con trai nối dõi ! Nhưng nhà ông Lê Trào thì ngược lại, vợ ông đã mười hai lần sinh nở mà toàn con trai, khiến nhà ông biến thành “Trại lính”! Nếu như ông Trào không có thời gian năm năm đã từng trong quân ngũ thì ông không thể khống chế nổi “ loạn mười hai sứ quân” này! Ông Trào đặc biệt mê Chèo, không có đêm diễn Chèo nào ở trong vùng mà ông bỏ qua, dù cách Làng ông chục cây số, ông cũng “trèo đèo, lội suối” mà đến xem!... Một lần, có một gánh Chèo nọ diễn vở Quan Âm Thị Kính rất hay, đặc biệt là vai Thị Mầu, khiến cho người xem, nhất là ông Trào “hồn bay phách lạc”! Hết buổi diễn, ông Trào tìm gặp bằng được người sắm vai Thị Mầu và nói: “Vợ tôi đã sinh mười hai lần mà toàn con trai. Nay tôi muốn sinh con gái mà lại muốn nó xinh đẹp, hát hay diễn trò giỏi như Thị Mầu! Vậy Thị Mầu có cách gì giúp tôi được không, tôi xin hậu tạ!”. Người sắm vai Thị Mầu lần đó, chưa kịp tẩy trang, vì muốn cho nhanh xong chuyện, liền nói bừa: “Chỉ có cách này, không biết có hiệu nghiệm hay không là còn tùy thuộc vào bà vợ của ông! Ông hãy đưa ta vào buồng vợ ông, ta sẽ làm phép chui vào bụng bà ấy, tất sẽ sinh ra một ả như Thị Mầu ta!”. Ông Trào nghe nói thấy “có lý” liền nghe theo. Song có một điều mà lúc đó ông Trào không hề biết là: người sắm vai Thị Mầu lần đó là một nam nhân chứ không phải nữ nhân! Vì thế, khi người “Nam nhân” này “làm phép” chui vào bụng vợ ông Trào thì quả nhiên hiệu nghiệm, tức sau chín tháng mười ngay, vợ ông Trào đã sinh được một ả Thị Mầu hoàn hảo!... Cô con gái ông Trào được đặt tên chính thức là Lê Thị Mầu, dĩ nhiên là được vợ chồng ông Trào và mười hai người anh yêu thương, chiều chuộng hết mức. Trong ý nghĩ của cha mẹ Mầu và cả mười hai người anh trai, việc đặt tên là Mầu chỉ có ý nghĩa “Ước lệ” mà thôi, chứ không ai nghĩ rằng lại muốn cho cuộc đời của Mầu giống như nhân vật Thị Mầu trong vở chèo Quam Âm Thị Kính. Song, cuộc đời lại xảy ra cái điều mà người ta không muốn nghĩ tới!... * Có câu “Gái thập tam, nam thập lục”, tức con gái mười ba tuổi là đã ra dáng một thiếu nữ mơn mơn xuân thì. Mầu khi tới mười ba tuổi là đã phát triển đến mức đạt chuẩn: cao 1,67 mét, số đo ba vòng là 86-60-88, đó là số đo mà các cô người mẫu thời nay ao ước! Ngày đầu tiên Mầu đi lễ chùa cũng đúng là ngày mười ba. Mầu cũng gặp một chú Tiểu đang quét chùa, nhưng chú Tiểu này vừa nhìn thấy Mầu thì nhào tới tán tỉnh, sàm sỡ. May mà vừa lúc Sư Thầy xuất hiện, quở mắng chú Tiểu. Chú Tiểu sợ hãi bỏ chạy. Nhưng khi Sư Thầy nhìn kỹ Mầu thì …bám riết lấy Mầu đến nỗi khi sư Trụ Trì xuất hiện cũng không biết, liền bị Sư Trụ trì quở mắng thậm tệ! Đuổi Sư Thầy đi rồi, Sư Trụ trì vừa nói mời Mầu vào trong làm lễ cúng Phật thì trời nổi giông bão, gió bụi bay mù mịt!...Mầu đang luống cuống đứng giữa sân chùa thì hai người anh của Mầu kịp xuất hiện, đưa Mầu về nhà!... Ngày mười bốn, Mầu lại đi lễ chùa. Sự việc lại xảy ra như ngày mười ba, chỉ khác ở đoạn cuối: khi sư Trụ trì mời Mầu vào làm lễ cúng Phật thì trời không nổi giông bão mà nắng vàng rực rỡ khác thường, nhìn từ xa, người ta thấy trên khoảng không nhà chùa có đám mây ngũ sắc tụ lại rất lâu! Những người giỏi thiên văn địa lý đều nói đó là điềm lành, Quan Âm Bồ Tát Ngài đã giáng trần, nhà Chùa chuyến này có tin vui! Quả nhiên, chín tháng sau, trước cổng chùa có một cái thúng lớn, trong thúng là ba đứa trẻ sinh ba, xem chừng như mới sinh nhưng đã rất cứng cáp! Chú Tiểu là người phát hiện ra cái thúng trước nhất, liền vào báo với sư Thầy. Sư Thầy ra xem rồi vào báo với sư Trụ Trì. Sư Trụ Trì ra xem, nhìn thấy ba đứa trẻ đều đang chắp tay trước ngực, mồm lẩm nhẩm như đọc Kinh Phật, thì nói: “Quan Âm Bồ Tát gửi chùa chúng ta ba đệ tử của Ngài, mười năm sau Ngài sẽ đến đón. Vì vậy hãy đón vào chùa chăm sóc cho chu đáo!”. Sư Thầy và chú Tiểu liền đưa ba đứa trẻ vào chùa, từ đó thay nhau chăm sóc tận tình… * Mười năm sau, ba đứa trẻ hồi nào đã lớn thành ba thiếu niên xinh đẹp, khỏe mạnh và thông minh khác thường. Nhà chùa có bao nhiêu Kinh sách ba đứa đều đọc hết và đều thuộc làu làu. Tuy không nói ra công khai, nhưng ai cũng biết trong ba đứa trẻ đó, có một đứa là con của chú Tiểu, bởi nó giống chú Tiểu như đúc, có một đứa là con của sư Thầy, bởi nó giống sư Thầy như lột, còn đứa thứ ba thì giống sư Trụ Trì như hai giọt nước, chỉ có điều nó không già như sư Trụ trì mà thôi. Trong thâm tâm, cả chú Tiểu, sư Thầy và sư Trụ trì đều muốn hoàn tục để cưới Mầu, để được công khai làm bố đứa con của mình. Nhưng Mầu thì không thích cưới ai cả, và chỉ muốn đón ba đứa con về ở với mình. Đúng ngày ba đứa trẻ vào chùa, sau mười năm, Mầu lên chùa. Một chú Tiểu mới, thấy Mầu cứ ngó nghiêng mà không nói gì thì hỏi: -Mầu lên chùa đấy à? Sao không “quậy” như trong vở chèo Quan Âm Thị Kính đi? -Hôm nay ta không có hứng! – Mầu lạnh lùng nói – Gọi cho ta ba anh em sinh ba ra đây ta gặp! -Không được! – chú Tiểu nói ngay – Sư Thầy đã dặn không được cho ba anh em đó ra ngoài gặp bất cứ ai! Mầu muốn gặp ba anh em thì phải hỏi ý sư Thầy. Để tôi đi hỏi sư Thầy cho! Nhưng phải có điều kiện! -Điều kiện gì thì nói toẹt ra đi, chắc lại đòi “tòm tem” chứ gì? Mới vào chùa đã nhiễm cái máu “Sư hổ mang” rồi! – Mầu thúc dục. -Thôi được, Mầu đã hiểu ý thì tôi nói thật: cho tôi gửi một đứa con và khi Mầu có thai, tôi sẽ đứng ra nhận là bố cái thai chứ không làm ngơ như bố của ba đứa trẻ sinh ba kia!... Cuộc thỏa thuận giữa chú Tiểu và Mầu diễn ra thật nhanh chóng, ba anh em sinh ba được ra gặp mẹ. Mầu thấy ba đứa trẻ thì nhào tới ôm hôn, nhưng cả ba đứa đều lùi ra và cùng nói, như là đồng ca: “ Nam mô A di đà Phật! Nam nữ thọ thọ bất thân! Xin thí chủ giữ đúng phép tắc! Thí chủ có điều gì muốn nói thì nói ngay kẻo không có nhiều thời gian!”. Mầu bỗng cười khanh khách mà nói: “Thí chủ cái con khỉ! Con cái thấy mẹ mà không lạy chào, thật là bất hiếu! Đã bất hiếu như thế thì còn tu cái gì, tu hú!”. Ba anh em lại cùng nói: “Người mẹ mà bỏ con khi còn đỏ hỏn ngoài cổng chùa thì là đã dứt tình mẫu tử. Bao năm qua, đứa trẻ được ai nuôi dưỡng, cho bú mớm thì đó chính là mẫu tử!”. Mầu nghe nói vậy thì lặng người một lúc rồi nói: “Thôi được, các ngươi không nhận người mẹ này cũng không sao, nhưng phải vào Làng minh oan cho Mầu, trả lại danh dự cho Mầu, nói với mọi người rằng Mầu không phải là hoang thai mà là Quan Âm Bồ Tát cho môn đệ đầu thai vào Mầu. Sau đó đòi Làng bồi thường trăm lạng vàng cho Mầu vì đã dùng hình phạt dã man đối với Mầu là bỏ rọ trôi sông!”. Ba đứa trẻ sinh ba nghe Mầu nói vậy thì nhìn nhau như có ý dò hỏi xem sẽ trả lời thế nào? Đứa có khuôn mặt giống sư Trụ trì nói: “Thực ra chúng ta không dám nhận mẹ vì muốn bảo vệ danh dự cho cha. Bây giờ mẹ đã nói thế thì quả là rất thiệt thòi cho mẹ. Lúc mẹ bị Làng phạt vạ, chúng ta còn bé tý chưa làm gì được thì bây giờ phải làm cái việc đó, lẽ ra phải làm từ mười năm trước!”. Đứa có khuôn mặt giống sư Thầy nói tiếp: “Sư huynh nói rất đúng. Chúng ta không thể cứ sai lại sai nữa. Phải trả lại danh dự cho mẹ và người bị phạt phải là ba người cha!”. Đứa bé có khuôn mặt giống chú Tiểu liền nói ngay: “Hai huynh nói rất hay, nhưng ba người cha đẻ của chúng ta đều đang có chức tước lớn trong tổ chức Phật giáo, không thể đưa ra bất cứ lời phán xét nào tới họ. Cách tốt nhất là nên tiếp tục im lặng. Sự việc dù sao cũng đã xảy ra, đã qua lâu rồi thì cho qua luôn. Mẹ chúng ta tuy có bị tiếng xấu này nọ nhưng cũng đã bình an, thế là tốt rồi. Dĩ hòa vi quý, nếu cứ đem chuyện cũ ra phán xét cho đúng người đúng tội thì muôn đời không bao giờ hết chuyện, oan oan tương báo bao giờ mới dứt?”.Ba đứa trẻ tuy là nói chuyện trao đổi ý tứ với nhau nhưng cố ý cho Mầu nghe thấy và đứa có khuôn mặt giống sư Trụ trì còn nói riêng với Mầu: “Thí chủ là người có tướng cách rất quý, sẽ luôn có quý nhân phò trợ, chẳng có gì đáng phiền muộn. Cuối năm nay có người đến cầu hôn thì lấy chồng đi, tất sẽ vinh hiển suốt đời!”… Mầu nghe nói vậy thì biết nói gì nữa bèn cáo lui! * Cuối năm, Làng Thượng Sơn có một khoản tiền lớn nhờ có tới hai công ty nước ngoài tới đầu tư xây dựng hai nhà máy khổng lồ, một cái ở đầu Làng, một cái ở cuối Làng. Mấy già Làng nói, như thế gọi là đầu xuôi đuôi lọt, Làng ta từ đây làm cái gì cũng sẽ thuận buồm xuôi gió! Quả nhiên, nhà nhà đều hoan ca, làng trên xóm dưới không lúc nào ngớt tiếng sáo tiếng nhạc. Tất nhiên, các vị Trưởng lão đã công phu đi mời một Đoàn Chèo có nhiều ngôi sao sáng giá tới Làng diễn liên tục một tháng ròng! Một hôm, khi chuẩn bị diễn lớp “Thị Mầu lên chùa” thì diễn viên sắm vai đột nhiên đau bụng dữ dội. Mọi người đều nói đó là bệnh đau ruột thừa, phải đưa đi bệnh viện mổ gấp kẻo nguy đến tính mạng. Đưa người sắm vai Thị Mầu đi rồi, đi kiếm người dự bị thì không biết chạy đâu. Lúc đó, ông Lê Trào có mặt ở gần đó, thấy vậy liền nói: “Để tôi nói con Mầu nhà tôi nó đóng thế cho!”, liền cho gọi Mầu tới. Quả nhiên, Mầu vào vai còn nhuyễn hơn cả người đang giữ vai Thị Mầu của Đoàn Chèo. Riêng ông Trưởng Đoàn Chèo, vừa nhìn thấy Mầu đã chết mê chết mệt, sau đó đã đòi cưới Mầu bằng được. Dĩ nhiên là ông Lê Trào và Mầu đều đồng ý, vừa có chồng vừa được tuyển thẳng thành diễn viên chính thức của Đoàn Chèo thì còn gì hơn nữa. Sang năm mới, Mầu còn được “hưởng lộc” lớn hơn nữa khi ông chồng được điều lên Bộ Văn hóa làm một chức quan nghe nói tương đương hàng đầu cấp tỉnh, còn Mầu thì lên làm chức Trưởng đoàn Chèo, tùy nghi muốn diễn kiểu nào thì diễn, muốn diễn ở đâu thì đến, tuy nhiên vẫn còn có nhiều trói buộc... Khi nghe có chính sách, chủ trương “Xã hội hóa sân khấu”, Mầu thích lắm bởi muốn làm Bà chủ hoàn toàn, tuyệt đối của Đoàn chèo… Thời gian trôi đi…Khi Đoàn Chèo chính thức hoạt động theo qui chế mới, Mầu cho đổi tên thành “Đoàn Chèo Thị Mầu” và cho mời ba anh em sinh ba tới , nói: “Giờ các con đã tới tuổi trưởng thành, việc ở lại Chùa theo nghiệp tu hành hay hoàn tục trở về cuộc sống dân gian là do các con tự quyết định. Tuy nhiên, dù thế nào thì các con cũng phải tham gia vào Tổ sáng tác kịch bản của Đoàn Chèo của Mẹ”. Cả ba anh em cùng nói: “Mẹ nói rất đúng, nhưng tự chúng con không thể quyết định được là ở lại chùa hay về nhà với Mẹ, bởi đây là “Duyên nghiệp”, có muốn cũng không được và không muốn cũng khó tránh khỏi. Nhưng dù thế nào thì chúng con cũng sẽ là thành viên tích cực của Tổ sáng tác kịch bản. Chúng con đã suy nghĩ rất nhiều về đề tài mà Đoàn Chèo của Mẹ đang mang tên: Thị Mầu. Tuy nhiên, có điều chúng con cứ phân vân mãi mà nghĩ chưa thông: Thị Mầu trong vở Chèo kia có Tình yêu hay không? Và câu này mẹ có cho phép mới dám hỏi? (Mầu ra hiệu cứ nói) Mầu mẹ có tình yêu với bố chúng con hay không?”. Mầu bất chợt bị hỏi như vậy thì chưa thể trả lời, bởi thực ra Mầu cũng không nghĩ là mình sẽ thích chứ đừng nói đến chữ yêu mấy người đó, còn sự thể ra như thế là do họ dồn ép Mầu quá đáng, mà Mầu thì không có kinh nghiệm tự vệ, phòng thân!... Vui chân, Mầu tới chùa lúc nào không hay. Một chú Tiểu thấy Mầu tới thì hỏi: “Hôm nay đã tới mười ba đâu mà Mầu đã lên chùa?”. Mầu cười nói: “Từ nay ta đi lễ chùa không cần kể là ngày nào! Được chưa?”. Chú Tiểu thấy vậy thì chạy vào gọi Sư Thầy…/. Sài Gòn, Tháng 1-2010 Đỗ Ngọc Thạch |
Các bài khác cùng tác giả: |
|
· CHÙM TRUYỆN NGẮN MỪNG NGÀY NHÀ GIÁO VIỆT NAM CỦA ĐỖ NGỌC THẠCH
· | HAI TRUYỆN NGẮN VỀ HÀ NỘI |
· | CHÙM THƠ VỀ HÀ NỘI CỦA ĐỖ NGỌC THẠCH |
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét