03:05-11/04/2014
Ngợi ca sự thất bại
Ngợi ca sự thất bại
Costica Bradatan |
Một cảnh trong phim "The Seventh Seal" của
Ingmar Bergman: Antonius Block chơi cờ với
Thần Chết. “Khỏi phải nói, chàng không thể
thắng được trong trò chơi – không ai có thể thắng cả
- nhưng chiến thắng không phải là mục đích."
Nếu đến một lúc nào đó, cần phải suy nghĩ nghiêm túc về sự thất bại, thì đó chính là lúc này.
Chúng ta chắc chắn đang sống trong một thời đại của những tiến bộ không ngừng. Chúng ta được chứng kiến những bước phát triển trong khoa học, nghệ thuật, kỹ thuật, y học... với một tốc độ chưa từng thấy. Chúng ta biết về hoạt động của não người và những thiên hà xa xôi hơn những gì mà cha ông chúng ta có thể tưởng tượng. Việc thiết kế một hình thái cao cấp của con người – khỏe khoắn hơn, mạnh mẽ hơn, thông minh hơn, đẹp đẽ hơn, dẻo dai hơn – có vẻ như đang nằm trong kế hoạch. Thậm chí, sự bất tử giờ đây dường như cũng sắp là điều khả thi, là một kết quả có thể đạt đến nhờ những bước tiến ngày càng vượt bậc của khoa sinh học ứng dụng.
Chắc chắn những hứa hẹn về sự phát triển, tiến bộ không ngừng của con người là điều có sức cám dỗ. Song điều đó cũng hàm ẩn mối nguy hiểm – trong một tương lai hoàn thiện hơn, sự thất bại sẽ là điều không còn mấy ý nghĩa.
Tại sao ta lại phải bận tâm? Cụ thể hơn, tại sao triết học lại nên quan tâm đến sự thất bại? Chẳng nhẽ không còn vấn đề nào hay hơn để suy tư hay sao? Câu trả lời thật đơn giản: Triết học là lĩnh vực tốt nhất để suy tư về sự thất bại vì triết học hiểu sự thất bại một cách sâu sắc. Ít nhất, lịch sử triết học phương Tây không gì khác hơn là sự nối dài liên tục của những thất bại, dẫu đó là những thất bại hữu ích và quyến rũ. Bất kỳ triết gia lớn nào cũng tìm cách khẳng định mình bằng việc phơi bày, phân tích những “thất bại”, “sai lầm”, “nhầm lẫn” hay “sự ngây thơ” của những triết gia khác, để rồi đến lượt mình, họ sẽ lại bị phủ định bởi những người khác như là những kẻ thất bại trước đó; cứ như thể, bất kể làm gì đi nữa, định mệnh của triết học là thất bại. Thế nhưng dẫu đi hết từ thất bại này sang thất bại khác, triết học vẫn lớn lên qua nhiều thế kỷ. Như Emmanuel Levinas từng diễn đạt một cách rất ấn tượng, “điều hay nhất ở triết học là nó thất bại.” Thất bại, dường như, chính là cái mà triết học ăn, là cái giúp nó duy trì sự sống. Nói chung, triết học chỉ có thể tiếp tục sinh lộ của nó chừng nào nó còn thất bại.
Vì thế, cho phép tôi bàn về tầm quan trọng của sự thất bại.
Sự thất bại có ý nghĩa vì một số lý do. Ở đây, tôi muốn nói đến ba lý do.
Thất bại cho phép chúng ta nhìn thấy sự tồn tại của mình trong hoàn cảnhtrần trụi của nó
Hễ khi nào xảy ra, sự thất bại lại phát lộ cho ta thấy sự tồn tại của ta gần với phía đối lập của nó như thế nào. Từ bản năng sinh tồn của mình, hay đơn giản do sự mù lòa trong nhận thức, chúng ta có xu hướng nhìn thế giới như một nơi kiên cố, đáng tin cậy, thậm chí không thể phá hủy. “Đối với một chủ thể biết suy nghĩ, hình dung về sự phi tồn tại của mình, về sự chấm dứt những nghĩ suy và đời sống của mình, hoàn toàn là điều bất khả,” Goethe đã nói như thế. Chúng ta, những kẻ luôn tự lừa dối bản thân, quên rằng chúng ta cận kề với trạng thái không -phải – như - chúng ta - vẫn luôn lànhư thế nào. Một vụ tai nạn máy bay, chẳng hạn, hoàn toàn có thể đặt dấu chấm hết cho mọi thứ; thậm chí một tảng đá rơi, hay bộ phận phanh của ô tô bị hỏng cũng có thể làm được việc này. Dẫu không phải bao giờ cũng là tai họa định mệnh, sự thất bại luôn mang theo nó mối đe dọa đối với sự hiện sinh ở một mức độ nào đó.
Thất bại là sự xâm nhập đột ngột của hư vô vào giữa sự sống. Trải nghiệm sự thất bại có nghĩa là bắt đầu nhìn thấy những nứt rạn trong cơ cấu của sự sống và chắc chắn, đến khi ta thực sự ngấm nó, sự thất bại hóa ra lại trở thành một thứ phúc lành được ngụy trang. Vì chính mối đe dọa thường trực, lơ lửng này sẽ khiến ta nhận ra được sự phi thường của chính sự tồn tại của mình: rằng bất chấp điều hiển hiện ấy, ta vẫn cứ hiện hữu, vẫn cứ tồn tại. Nhận thức ấy trao cho chúng ta một niềm kiêu hãnh nhất định.
Ở vai trò này, sự thất bại cũng có khả năng như một phép chữa bệnh đặc biệt. Hầu hết chúng ta (trừ những người tự ý thức hay may mắn đốn ngộ) thường điều chỉnh sự tồn tại của mình rất kém; chúng ta cứ muốn tưởng tượng bản thân mình quan trọng hơn nhiều so với thực chất của chúng ta, chúng ta cư xử cứ như thế thế giới này tồn tại chỉ cho chúng ta; ở những thời điểm tồi tệ nhất, chúng ta xem mình như những đứa trẻ, thấy mình là trung tâm của mọi thứ và đợi chờ phần còn lại của vũ trụ này lúc nào cũng sẵn sàng phục tòng ta. Chúng ta tham lam ngấu nghiến những giống loài khác, làm trơ trọi hành tinh sự sống này và lấp đầy nó bằng rác. Sự thất bại có thể là phương thuốc để chống lại sự kiêu ngạo và xấc xược này vì nó thường mang đến sự khiêm nhường.
Năng lực thất bại có ý nghĩa trọng yếu đối với bản thể của chúng ta
Chúng ta cần bảo vệ, nuôi dưỡng, thậm chí trân quý năng lực này. Nhận thức rằng chúng ta, về bản chất, sẽ vẫn cứ là những tạo vật bất toàn, không hoàn hảo, đầy sai lầm là một nhận thức quan trọng; nói cách khác, luôn có một khoảng cách giữa cái chúng ta là và cái chúng ta có thể là. Bất cứ những thành tựu nào mà con người từng đạt được trong lịch sử thì đó là do có sự tồn tại của không gian rỗng này. Chính ở trong khoảng không gian này mà con người, các cá nhân cũng như cộng đồng, mới có thể hoàn thành bất cứ cái gì. Không phải bỗng dưng chúng ta trở thành một cái gì đó tốt hơn; chúng ta vẫn thế, vẫn là những kẻ yếu đuối, đầy sai lầm. Nhưng hình ảnh con người với đầy lỗi lầm của mình có thể trở thành hình ảnh không thể chịu đựng nổi, khiến con người xấu hổ đến nỗi phải cố làm một cái gì tử tế hơn một chút. Mỉa mai thay, chính cuộc đấu tranh của con người với những thất bại của chính mình đã đem đến những điều tốt đẹp nhất ở con người.
Khoảng cách giữa cái chúng ta và cái chúng ta có thể là đồng thời cũng là không gian mà trong đó các diễn ngôn không tưởng được hình thành. Văn học không tưởng, ở những tác phẩm xuất sắc nhất, có thể ghi lại chi tiết cuộc đấu tranh của con người với những thất bại của xã hội và cá nhân. Mặc dù thường xây dựng những thế giới của sự thái quá và phong nhiêu nhưng các tác phẩm không tưởng lại là hình thức phản ứng đối với những thiếu hụt và nỗi bất định của đời sống; chúng là hình thức biểu hiện tốt nhất của cái mà chúng ta thiếu nhất. Tác phẩm Utopia của Thomas More thực ra là câu chuyện về chính nước Anh ở thời đại của ông hơn là câu chuyện về một hòn đảo tưởng tượng. Các tác phẩm không tưởng có vẻ giống như hình thức tôn vinh sự hoàn thiện của con người nhưng nếu đọc ngược lại, chúng chỉ là những hình thức thú nhận đặc biệt về sự thất bại, sự bất toàn và sự lúng túng.
Thế nhưng việc chúng ta cứ tiếp tục mơ và thêu dệt nên những tác phẩm không tưởng vẫn hết sức quan trọng. Nếu chúng ta không phải những kẻ mộng mơ, hẳn hôm nay chúng ta sẽ sống trong một thế giới xấu xí hơn nhiều. Nhưng trên hết, không có những giấc mơ, không có những sự không tưởng, loài người chúng ta có lẽ đã trở nên kiệt quệ. Giả sử đến một ngày, khoa học giải quyết hết mọi vấn đề của chúng ta. Chúng ta sẽ trở nên mạnh khỏe hơn, có thể trường sinh bất tử, trí não chúng ta, nhờ sự tiến bộ nào đó, sẽ có thể hoạt động như một chiếc máy tính. Đến ngày ấy, chúng ta có thể trở thành một cái gì đó rất thú vị nhưng tôi không chắc chúng ta sẽ có cái mà vì nó chúng ta sống. Chúng ta có thể trở nên hoàn thiện nhưng về bản chất, chúng ta đã chết.
Cuối cùng khả năng thất bại khiến chúng ta là chúng ta; sự sống của chúng ta, những tạo vật về bản chất là những kẻ thất bại, chính là cội rễ của mọi tham vọng. Sự thất bại, nỗi sợ thất bại và tìm cách tránh nó trong tương lai là, tất cả đều là một phần của quá trình mà qua đó, diện mạo và số phận của chúng ta được quyết định. Đó là lý do vì sao, như tôi đã ngầm nhắc đến trước đó, năng lực thất bại là cái mà chúng ta nhất thiết phải bảo vệ, bất kể những người theo thuyết lạc quan rao giảng gì đi nữa. Đó là một thứ đáng trân trọng, thậm chí còn hơn những kiệt tác nghệ thuật, những tượng đài hay những công trình hoàn thiện nào khác. Vì, theo một nghĩa nào đó, năng lực thất bại còn quan trọng hơn bất kỳ những thành tựu nào của cá nhân. Chính nó mới khiến cho những thành tựu khả hữu.
Chúng ta là những kẻ được chỉ định để thất bại
Dẫu cuộc đời của chúng ta có trở nên thành công như thế nào đi nữa, dẫu chúng ta có là những người thông minh, cần cù, mẫn cán thế nào đi nữa, thì cùng một kết cục ấy đang chờ đợi chúng ta: “sự thất bại về mặt sinh học”. Mối “đe dọa sự sống” của nỗi thất bại ấy đã luôn tồn tại bên cạnh con người trong suốt chiều dài lịch sử, mặc dù để sống với một cảm giác thỏa mãn tương đối, chúng ta đều phải giả vờ như không nhìn thấy nó. Tuy nhiên, sự giả vờ của chúng ta chưa bao giờ ngăn được việc chúng ta mỗi lúc tiến về đích đến của mình ngày một nhanh hơn, “tỉ lệ nghịch với bình phương khoảng cách từ cái chết”, như nhân vật Ivan Ilyich của Tolstoy đã miêu tả rất rành rọt về quá trình này. Song ở đây nhân vật của Tolstoy không làm rõ vấn đề nhiều. Câu hỏi khẩn thiết hơn là làm thế nào để tiếp cận sự thất bại lớn ấy, làm thế nào để đối mặt nó, ôm xiết lấy nó và sở hữu nó – điều mà Ivan tội nghiệp đã không làm được.
Một hình mẫu tốt hơn có lẽ là hình tượng nhân vật Antonius Block trong bộ phim The Seventh Sealcủa Ingmar Bergman. Một hiệp sĩ trở về sau cuộc Thập tự chinh, rơi vào trạng thái khủng hoảng niềm tin, Block bị đặt đối diện với thất bại vĩ đại – Cái Chết – trong hình hài con người. Chàng không do dự đối đầu với Thần Chết. Chàng không chạy trốn, không cầu xin sự khoan nhượng – chàng chỉ thách Thần Chết ngồi chơi một ván cờ với mình. Khỏi phải nói, chàng không thể thắng được trong trò chơi – không ai có thể thắng cả - nhưng chiến thắng không phải là mục đích. Ta chơi với sự thất bại vĩ đại, sự thất bại cuối cùng, không phải để thắng, mà để học sự thất bại.
Bergman, như một triết gia, đã dạy chúng ta một bài học lớn ở đây. Tất cả chúng ta đều kết thúc trong sự thất bại song đó không phải là điều quan trọng nhất. Điều thực sự quan trọng là chúng ta thất bại như thế nào và chúng ta đạt được gì trong quá trình ấy. Trong khoảng thời gian ngắn ngủi của cuộc chơi với Thần Chết, Antonius Block hẳn đã trải nghiệm được nhiều hơn tất cả những gì mình đã trải nghiệm trong đời; không có trò chơi ấy, chàng có đã sống chẳng vì một điều gì cả. Cuối cùng, dĩ nhiên, chàng đã thua nhưng chàng cũng đã thực hiện được một điều hiếm hoi. Chàng không chỉ biến thất bại thành một nghệ thuật mà còn có thể biết nghệ thuật thất bại trở thành một phần hết sức ý nghĩa trong nghệ thuật sống.
Hải Ngọc dịch
Chắc chắn những hứa hẹn về sự phát triển, tiến bộ không ngừng của con người là điều có sức cám dỗ. Song điều đó cũng hàm ẩn mối nguy hiểm – trong một tương lai hoàn thiện hơn, sự thất bại sẽ là điều không còn mấy ý nghĩa.
Tại sao ta lại phải bận tâm? Cụ thể hơn, tại sao triết học lại nên quan tâm đến sự thất bại? Chẳng nhẽ không còn vấn đề nào hay hơn để suy tư hay sao? Câu trả lời thật đơn giản: Triết học là lĩnh vực tốt nhất để suy tư về sự thất bại vì triết học hiểu sự thất bại một cách sâu sắc. Ít nhất, lịch sử triết học phương Tây không gì khác hơn là sự nối dài liên tục của những thất bại, dẫu đó là những thất bại hữu ích và quyến rũ. Bất kỳ triết gia lớn nào cũng tìm cách khẳng định mình bằng việc phơi bày, phân tích những “thất bại”, “sai lầm”, “nhầm lẫn” hay “sự ngây thơ” của những triết gia khác, để rồi đến lượt mình, họ sẽ lại bị phủ định bởi những người khác như là những kẻ thất bại trước đó; cứ như thể, bất kể làm gì đi nữa, định mệnh của triết học là thất bại. Thế nhưng dẫu đi hết từ thất bại này sang thất bại khác, triết học vẫn lớn lên qua nhiều thế kỷ. Như Emmanuel Levinas từng diễn đạt một cách rất ấn tượng, “điều hay nhất ở triết học là nó thất bại.” Thất bại, dường như, chính là cái mà triết học ăn, là cái giúp nó duy trì sự sống. Nói chung, triết học chỉ có thể tiếp tục sinh lộ của nó chừng nào nó còn thất bại.
Vì thế, cho phép tôi bàn về tầm quan trọng của sự thất bại.
Sự thất bại có ý nghĩa vì một số lý do. Ở đây, tôi muốn nói đến ba lý do.
Thất bại cho phép chúng ta nhìn thấy sự tồn tại của mình trong hoàn cảnhtrần trụi của nó
Hễ khi nào xảy ra, sự thất bại lại phát lộ cho ta thấy sự tồn tại của ta gần với phía đối lập của nó như thế nào. Từ bản năng sinh tồn của mình, hay đơn giản do sự mù lòa trong nhận thức, chúng ta có xu hướng nhìn thế giới như một nơi kiên cố, đáng tin cậy, thậm chí không thể phá hủy. “Đối với một chủ thể biết suy nghĩ, hình dung về sự phi tồn tại của mình, về sự chấm dứt những nghĩ suy và đời sống của mình, hoàn toàn là điều bất khả,” Goethe đã nói như thế. Chúng ta, những kẻ luôn tự lừa dối bản thân, quên rằng chúng ta cận kề với trạng thái không -phải – như - chúng ta - vẫn luôn lànhư thế nào. Một vụ tai nạn máy bay, chẳng hạn, hoàn toàn có thể đặt dấu chấm hết cho mọi thứ; thậm chí một tảng đá rơi, hay bộ phận phanh của ô tô bị hỏng cũng có thể làm được việc này. Dẫu không phải bao giờ cũng là tai họa định mệnh, sự thất bại luôn mang theo nó mối đe dọa đối với sự hiện sinh ở một mức độ nào đó.
Thất bại là sự xâm nhập đột ngột của hư vô vào giữa sự sống. Trải nghiệm sự thất bại có nghĩa là bắt đầu nhìn thấy những nứt rạn trong cơ cấu của sự sống và chắc chắn, đến khi ta thực sự ngấm nó, sự thất bại hóa ra lại trở thành một thứ phúc lành được ngụy trang. Vì chính mối đe dọa thường trực, lơ lửng này sẽ khiến ta nhận ra được sự phi thường của chính sự tồn tại của mình: rằng bất chấp điều hiển hiện ấy, ta vẫn cứ hiện hữu, vẫn cứ tồn tại. Nhận thức ấy trao cho chúng ta một niềm kiêu hãnh nhất định.
Ở vai trò này, sự thất bại cũng có khả năng như một phép chữa bệnh đặc biệt. Hầu hết chúng ta (trừ những người tự ý thức hay may mắn đốn ngộ) thường điều chỉnh sự tồn tại của mình rất kém; chúng ta cứ muốn tưởng tượng bản thân mình quan trọng hơn nhiều so với thực chất của chúng ta, chúng ta cư xử cứ như thế thế giới này tồn tại chỉ cho chúng ta; ở những thời điểm tồi tệ nhất, chúng ta xem mình như những đứa trẻ, thấy mình là trung tâm của mọi thứ và đợi chờ phần còn lại của vũ trụ này lúc nào cũng sẵn sàng phục tòng ta. Chúng ta tham lam ngấu nghiến những giống loài khác, làm trơ trọi hành tinh sự sống này và lấp đầy nó bằng rác. Sự thất bại có thể là phương thuốc để chống lại sự kiêu ngạo và xấc xược này vì nó thường mang đến sự khiêm nhường.
Năng lực thất bại có ý nghĩa trọng yếu đối với bản thể của chúng ta
Chúng ta cần bảo vệ, nuôi dưỡng, thậm chí trân quý năng lực này. Nhận thức rằng chúng ta, về bản chất, sẽ vẫn cứ là những tạo vật bất toàn, không hoàn hảo, đầy sai lầm là một nhận thức quan trọng; nói cách khác, luôn có một khoảng cách giữa cái chúng ta là và cái chúng ta có thể là. Bất cứ những thành tựu nào mà con người từng đạt được trong lịch sử thì đó là do có sự tồn tại của không gian rỗng này. Chính ở trong khoảng không gian này mà con người, các cá nhân cũng như cộng đồng, mới có thể hoàn thành bất cứ cái gì. Không phải bỗng dưng chúng ta trở thành một cái gì đó tốt hơn; chúng ta vẫn thế, vẫn là những kẻ yếu đuối, đầy sai lầm. Nhưng hình ảnh con người với đầy lỗi lầm của mình có thể trở thành hình ảnh không thể chịu đựng nổi, khiến con người xấu hổ đến nỗi phải cố làm một cái gì tử tế hơn một chút. Mỉa mai thay, chính cuộc đấu tranh của con người với những thất bại của chính mình đã đem đến những điều tốt đẹp nhất ở con người.
Khoảng cách giữa cái chúng ta và cái chúng ta có thể là đồng thời cũng là không gian mà trong đó các diễn ngôn không tưởng được hình thành. Văn học không tưởng, ở những tác phẩm xuất sắc nhất, có thể ghi lại chi tiết cuộc đấu tranh của con người với những thất bại của xã hội và cá nhân. Mặc dù thường xây dựng những thế giới của sự thái quá và phong nhiêu nhưng các tác phẩm không tưởng lại là hình thức phản ứng đối với những thiếu hụt và nỗi bất định của đời sống; chúng là hình thức biểu hiện tốt nhất của cái mà chúng ta thiếu nhất. Tác phẩm Utopia của Thomas More thực ra là câu chuyện về chính nước Anh ở thời đại của ông hơn là câu chuyện về một hòn đảo tưởng tượng. Các tác phẩm không tưởng có vẻ giống như hình thức tôn vinh sự hoàn thiện của con người nhưng nếu đọc ngược lại, chúng chỉ là những hình thức thú nhận đặc biệt về sự thất bại, sự bất toàn và sự lúng túng.
Thế nhưng việc chúng ta cứ tiếp tục mơ và thêu dệt nên những tác phẩm không tưởng vẫn hết sức quan trọng. Nếu chúng ta không phải những kẻ mộng mơ, hẳn hôm nay chúng ta sẽ sống trong một thế giới xấu xí hơn nhiều. Nhưng trên hết, không có những giấc mơ, không có những sự không tưởng, loài người chúng ta có lẽ đã trở nên kiệt quệ. Giả sử đến một ngày, khoa học giải quyết hết mọi vấn đề của chúng ta. Chúng ta sẽ trở nên mạnh khỏe hơn, có thể trường sinh bất tử, trí não chúng ta, nhờ sự tiến bộ nào đó, sẽ có thể hoạt động như một chiếc máy tính. Đến ngày ấy, chúng ta có thể trở thành một cái gì đó rất thú vị nhưng tôi không chắc chúng ta sẽ có cái mà vì nó chúng ta sống. Chúng ta có thể trở nên hoàn thiện nhưng về bản chất, chúng ta đã chết.
Cuối cùng khả năng thất bại khiến chúng ta là chúng ta; sự sống của chúng ta, những tạo vật về bản chất là những kẻ thất bại, chính là cội rễ của mọi tham vọng. Sự thất bại, nỗi sợ thất bại và tìm cách tránh nó trong tương lai là, tất cả đều là một phần của quá trình mà qua đó, diện mạo và số phận của chúng ta được quyết định. Đó là lý do vì sao, như tôi đã ngầm nhắc đến trước đó, năng lực thất bại là cái mà chúng ta nhất thiết phải bảo vệ, bất kể những người theo thuyết lạc quan rao giảng gì đi nữa. Đó là một thứ đáng trân trọng, thậm chí còn hơn những kiệt tác nghệ thuật, những tượng đài hay những công trình hoàn thiện nào khác. Vì, theo một nghĩa nào đó, năng lực thất bại còn quan trọng hơn bất kỳ những thành tựu nào của cá nhân. Chính nó mới khiến cho những thành tựu khả hữu.
Chúng ta là những kẻ được chỉ định để thất bại
Dẫu cuộc đời của chúng ta có trở nên thành công như thế nào đi nữa, dẫu chúng ta có là những người thông minh, cần cù, mẫn cán thế nào đi nữa, thì cùng một kết cục ấy đang chờ đợi chúng ta: “sự thất bại về mặt sinh học”. Mối “đe dọa sự sống” của nỗi thất bại ấy đã luôn tồn tại bên cạnh con người trong suốt chiều dài lịch sử, mặc dù để sống với một cảm giác thỏa mãn tương đối, chúng ta đều phải giả vờ như không nhìn thấy nó. Tuy nhiên, sự giả vờ của chúng ta chưa bao giờ ngăn được việc chúng ta mỗi lúc tiến về đích đến của mình ngày một nhanh hơn, “tỉ lệ nghịch với bình phương khoảng cách từ cái chết”, như nhân vật Ivan Ilyich của Tolstoy đã miêu tả rất rành rọt về quá trình này. Song ở đây nhân vật của Tolstoy không làm rõ vấn đề nhiều. Câu hỏi khẩn thiết hơn là làm thế nào để tiếp cận sự thất bại lớn ấy, làm thế nào để đối mặt nó, ôm xiết lấy nó và sở hữu nó – điều mà Ivan tội nghiệp đã không làm được.
Một hình mẫu tốt hơn có lẽ là hình tượng nhân vật Antonius Block trong bộ phim The Seventh Sealcủa Ingmar Bergman. Một hiệp sĩ trở về sau cuộc Thập tự chinh, rơi vào trạng thái khủng hoảng niềm tin, Block bị đặt đối diện với thất bại vĩ đại – Cái Chết – trong hình hài con người. Chàng không do dự đối đầu với Thần Chết. Chàng không chạy trốn, không cầu xin sự khoan nhượng – chàng chỉ thách Thần Chết ngồi chơi một ván cờ với mình. Khỏi phải nói, chàng không thể thắng được trong trò chơi – không ai có thể thắng cả - nhưng chiến thắng không phải là mục đích. Ta chơi với sự thất bại vĩ đại, sự thất bại cuối cùng, không phải để thắng, mà để học sự thất bại.
Bergman, như một triết gia, đã dạy chúng ta một bài học lớn ở đây. Tất cả chúng ta đều kết thúc trong sự thất bại song đó không phải là điều quan trọng nhất. Điều thực sự quan trọng là chúng ta thất bại như thế nào và chúng ta đạt được gì trong quá trình ấy. Trong khoảng thời gian ngắn ngủi của cuộc chơi với Thần Chết, Antonius Block hẳn đã trải nghiệm được nhiều hơn tất cả những gì mình đã trải nghiệm trong đời; không có trò chơi ấy, chàng có đã sống chẳng vì một điều gì cả. Cuối cùng, dĩ nhiên, chàng đã thua nhưng chàng cũng đã thực hiện được một điều hiếm hoi. Chàng không chỉ biến thất bại thành một nghệ thuật mà còn có thể biết nghệ thuật thất bại trở thành một phần hết sức ý nghĩa trong nghệ thuật sống.
Hải Ngọc dịch
Nguồn:
http://opinionator.blogs.nytimes.com/2013/ 12/15/in-praise-of-failure/?_php=true&_ type=blogs&_r=0
http://opinionator.blogs.nytimes.com/2013/ 12/15/in-praise-of-failure/?_php=true&_ type=blogs&_r=0
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét