Thứ Tư, 7 tháng 12, 2011

Thượng Kinh Ký Sự - Đỗ Ngọc Thạch

http://www.vietventures.com/Images/Photos/hotay.gif
chiều Hồ Tây...

THƯỢNG KINH KÝ SỰ (Hay là BA LẦN TỚI THỦ ĐÔ)

Truyện ngắn Đỗ Ngọc Thạch


1.Giáo đầu
 
Cứ tưởng cái đầu mình là “Của kho vô tận”, tôi thả phanh viết búa xua đủ các kiểu, bỗng một hôm ghé mắt nhìn vào cái “Kho” thấy trống trơn! Hốt hoảng, tôi thu dọn tất cả tài liệu, sách vở vào trong cái thùng giấy cứng (vốn là cái hộp giấy đựng tivi to tướng) rồi định đi “bụi đời” tìm cảm hứng! Ai dè vừa bước ra cửa, đụng ngay mấy người hàng xóm đang cãi lộn dữ dội, xem chừng muốn chuyển qua đánh lộn! Nhớ lời mẹ dặn lúc còn nhỏ rằng, thấy đám cãi lộn, đánh lộn là phải tránh xa, tôi vội quay trở lại, trèo lên gác…ngồi Thiền! Ngồi được ba phút thì Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác bất ngờ xuất hiện ngay trước mặt, râu tóc trắng như mây trắng, không khác gì Đại Tiên Thái Thượng Lão Quân. Tôi chưa kịp hỏi thì Hải Thượng Lãn Ông nhẹ nhàng nói: “Con mở thùng sách của con ra, trong đó có cuốn “Thượng Kinh Ký sự” của ta, con hãy đọc kỹ lại thì sẽ tỉnh ngộ!” Đoạn Hải Thượng Lãn Ông ghé tai tôi nói nhỏ một câu, dặn phải giữ bí mật, nên tôi không thể ghi ra đây được!
Tôi ngồi đọc lại cuốn Thượng Kinh ký sự một ngày…Những gì tôi viết dưới đây là do cuốn Thượng Kinh Ký sự gợi ý!
 
2. Về Thủ đô lần thứ Nhất
 
Đó là những ngày đầu giải phóng Thủ đô…Bố tôi hồi đó ở Quân Y của Sư đoàn 308, đã về Hà Nội trước cùng với đơn vị, mấy chị em chúng tôi (lúc đó chúng tôi đã có 5 chị em, 2 chị đầu) và mẹ đi sau. Tuy bố tôi đi trước nhưng mọi việc của cuộc di chuyển “bầu đoàn thê tử” bố tôi đã xếp đặt ổn thỏa: chuyến ô tô cuối cùng của Quân Y sẽ đón 6 mẹ con chúng tôi từ Phú Thọ về Hà Nội…
 
Lúc đó, tôi mới có hơn sáu tuổi, chưa biết Thủ đô Hà Nội như thế nào nên rất háo hức, muốn chiếc ô tô có cái dấu “Hồng Thập Tự” chở chúng tôi phóng thật nhanh! Và quả là xe chạy rất nhanh, tôi chưa kịp nhận biết là đã tới Hà Nội chưa thì xe dừng, mấy chú Quân Y đi cùng xe nói “Tới Thủ đô rồi!”, rồi nhấc bổng mấy chị em chúng tôi xuống đường! Tôi cũng chưa kịp quan sát kỹ con phố mà chúng tôi đứng chân lần đầu tiên nó như thế nào (sau này tôi mới biết đó là đoạn đầu Phố Tràng Thi, phía gần Cửa Nam, còn đi ngược lên là tới Hồ Hoàn Kiếm), thì mẹ tôi đã dắt tay hai chị tôi và bảo tôi dắt tay hai đứa em trai đi theo ( Năm chị em chúng tôi sàn sàn tuổi nhau, sinh từ 1945 đến 1951)...Đi được khoảng chục bước thì cậu em sát tuổi tôi giằng tay ra khỏi tay tôi, có lẽ do tôi nắm tay em tôi quá chặt? Thấy người em giằng tay ra, tôi cũng thả luôn bàn tay của người em kế sau ra và đứng lại…sửa sang lại y phục! Cúi xuống chân, thấy dây giày bị tuột (tôi đang đi loại giày Ba-ta của Pháp, khá phổ biến lúc đó), tôi liền ngồi xuống buộc lại dây giày. Buộc xong, tôi đứng lên nhìn quanh thì không thấy hai cậu em trai của tôi đâu! Nhìn ra phía mẹ tôi vừa dắt hai người chị cũng không thấy ai!...
 
Lúc đó là thời khắc chuyển giao giữa ban ngày và ban đêm, vào khoảng gần sáu giờ chiều. Người đi lại trên phố đang nhiều dần lên, chắc dân thành phố thích đi chơi ban đêm? Nếu như ở quê thì giờ này chúng tôi đang ăn cơm tối. Nghĩ tới hai từ “ăn cơm”, lập tức tôi thấy đói bụng, cái bụng như đang réo sôi! Tôi liền mở cái túi vải đeo bên sườn, có dòng chữ thêu trên nắp túi “Hoan hô chiến sĩ Điện Biên”, thò tay vào đụng phải cái nắm cơm to bằng quả bưởi. Tôi tính lấy nắm cơm nắm ra ăn thì chợt nghĩ, ai lại ăn giữa đường thế này? Vả lại, phải đi tìm Mẹ và các chị, các em chứ đứng mãi ở đây không phải là cách tốt nhất! Đi vài bước tôi lại nghĩ, nếu lát nữa mẹ quay lại tìm thì sao, với lại tôi đã biết đường phố Hà Nội như thế nào? Nghĩ vậy, tôi quyết định đứng đợi…
 
Khoảng một khắc, tức mười lăm phút trôi qua, đường phố đã sáng đèn, tôi đang đứng nhìn về phía Cửa Nam có ánh đèn điện nhấp nháy rất vui mắt thì bỗng có một thằng bé trạc tuổi tôi, không biết từ đâu tới và đứng sát trước mặt tôi từ bao giờ, dùng một bàn tay xoa đầu tôi và nói một câu gì đó bằng tiếng Pháp rồi co chân phải định đá đít tôi. Không ngờ tôi lại phản ứng rất nhanh, dùng một tay hất bàn chân của thằng bé lên và tay kia đấm thẳng vào mặt, tức thì nó ngã té ngửa trên hè phố! Thằng bé kêu ối một tiếng và lập tức ngồi bật dậy, tính lao vào tấn công tôi! Nhưng nó chưa kịp hành động gì thì thì bị một cô bé cũng trạc tuổi cản lại với giọng nói rõ ràng, dứt khoát: “Bạn không được đánh nhau! Đó là bài học cho bạn đừng có thấy ai cũng bắt nạt!” Dường như tiếng nói của cô bé có uy lực đặc biệt nên cậu bé kia không nói gì mà chuồn mất tăm!...
 
Nhìn thằng bé đi như chạy về phía Cửa Nam, tôi giật mình khi nghe tiếng cô bé nói: “Hình như bạn lần đầu tới Hà Nội?” Tôi gật đầu tỏ vẻ đồng ý. Cô bé lại nói: “Hành động vừa rồi của đứa bạn tôi thật là mất lịch sự, tôi thay mặt Người Hà Nội xin lỗi bạn!” Tôi nói lí nhí: “Không sao!... Không dám!...” Cô bé lại nói: “Bạn đứng chờ người nhà hay là bị lạc đường?” Tôi ngạc nhiên trước cách nói năng rất nhẹ nhàng, dịu dàng của cô bé và nói: “Tôi đứng chờ mẹ tôi! Vì tôi chưa đi khỏi chỗ này nên không thể gọi là bị lạc đường được!” Cô bé bỗng bật cười, tiếng cười như tiếng chuông ngân! Vừa nghĩ như vậy, tôi liền nói với cô bé: “Bạn có tiếng cười rất hay! Tiếng cười như tiếng chuông ngân!...” Cô bé nhìn tôi bằng ánh mắt lấp lánh như hai hòn bi ve…Tôi lại nói ra ý nghĩ ấy thì cô bé lại cười và nói: “Bạn nói năng như người lớn!... Nếu bạn đồng ý thì tôi sẽ là Người Hà Nội đầu tiên để lại trong bạn ký ức đẹp về Hà Nội: Tôi sẽ dẫn bạn đi dạo vòng quanh Hồ Gươm, ăn Kem ở Nhà Thủy Tạ và tới Nhà Kèn nghe hòa nhạc!...” Câu nói ấy cứ trở đi trở lại bên tai tôi và quay như đèn kéo quân trước mắt tôi khi chúng tôi đã nghe xong buổi hòa nhạc đặc biệt ở Nhà Kèn!... Đến khi Cô bạn gái dẫn tôi tới địa chỉ mà tôi đoán rằng bố tôi sẽ ở đó là Bệnh viện Đồn Thủy (sau là Bệnh viện Quân đội 108), tôi vẫn chưa kịp hỏi tên và bất cứ một thông tin gì về cô bé!...
 
3.Về Thủ đô lần thứ Hai
 
Tôi đã đi khỏi Hà Nội rồi lại trở về Hà Nội có đến gần trăm lần. Chẳng hạn như thời kỳ tại ngũ đóng quân ở mấy tỉnh xung quanh Hà Nội, thi thoảng lại được các thủ trưởng cho “tranh thủ” về Hà Nội thăm gia đình, họ hàng hoặc “công cán” gì đó cho đơn vị.Hoặc khi học Đại Học phải đi sơ tán ở Hà Bắc, Hà Nam tôi thường xuyên đạp xe đi đi về về mỗi tuần một lần, nhân lên với bốn năm thì không biết là bao nhiêu lần? Khi đi tới các tỉnh phía Bắc tôi đi qua Cửa Bắc, khi đi về phía Nam tôi đi qua Cửa Nam, qua ga Hàng Cỏ rồi xuôi xuống ga Giáp Bát, khi đi về phía Đông, tôi qua cầu Long Biên, khi đi về phía Tây, tôi đi qua Cầu Giấy…Lối đi nào cũng có nhiều điều thú vị, những kỷ niệm khó quên, nhưng vui ít buồn nhiều, không hiểu tại sao?
 
Lần ấy, tôi đi cùng Trung đội trưởng, làm một cuộc hành trình dài từ Nghệ An ra Hà Nội. Đó là vào thời kỳ cuộc chiến tranh phá hoại của không quân Mỹ đối với miền Bắc rất ác liệt. Đơn vị Ra-đa của tôi lúc đó đang hoạt động ở chiến trường Khu Bốn. Việc tôi được đi cùng Trung đội trưởng về Hà Nội, lúc đó tôi chỉ được biết là: do tôi thông thuộc Hà Nội nên có nhiệm vụ làm người dẫn đường cho Trung đội trưởng, còn Trung đội trưởng ra Hà Nội làm gì thì tôi không được biết vì đó là “Bí mật quân sự”!
 
Thực ra, tuyến đường mà chúng tôi đi thẳng một mạch từ ga Vinh tới ga Hàng Cỏ là xuống tàu, vào ngay phố phường Hà Nội. Nhưng tôi thích được đi tàu qua cầu Long Biên nên khi tàu tới ga Hàng Cỏ, tôi lôi Trung đội trưởng qua tàu đi Hải Phòng. Lúc đó, Trung đội trưởng đang ngủ gà ngủ gật, không biết mô tê gì, thấy tôi nói phải chuyển tàu thì đi theo mà không hỏi han gì!... Khi con tàu đưa chúng tôi qua cầu Long Biên thì cũng là lúc bình minh hé rạng. Đằng đông, những ngón tay hồng của Nàng Bình Minh đang như mơn trớn trần gian, vạn vật! Nhìn xa xa, dòng sông Hồng uốn lượn như một dải lụa lớn, màu hồng ấm áp, còn hai bên bờ là những vạt ngô đang trổ bắp xanh rờn, như đang nhẹ trôi theo dòng sông!...Một bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp mà không một họa sĩ tài ba nào có thể vẽ nổi!
 
 Song, khoảng thời gian tuyệt vời đó đã qua mau khi tàu đỗ ở ga Gia Lâm. Lúc đó, nắng vàng đã rực rỡ mà chưa có tàu Hải Phòng – Hà Nội. Chúng tôi đành ngồi đợi trên sân ga. Trung đội trưởng dường như đã tỉnh táo, vươn vai ngáp dài một cái rồi hỏi: “Đang ở ga nào vậy? Sắp tới Hà Nội chưa?” Tôi nói: “Chúng ta đang ở ga Gia Lâm! Gia Lâm là huyện ngoại thành của Hà Nội, chỉ qua cầu Long Biên là vào ngay trong ḷòng Thủ đô!” Trung đội trưởng gắt: “Thôi, đừng dài dòng nữa! Bao giờ mới có tàu vào Thủ đô!” Tôi nói: “Anh hỏi em, em biết hỏi ai? Hình như đầu máy bị hỏng, họ đang sửa, không biết đến bao giờ!” Tôi vừa dứt lời thì tiếng còi báo động vang lên, kèm theo là tiếng nói rất to từ hai cái loa trên sân ga đồng thanh phát ra: “Đồng bào chú ý! Đồng bào chú ý! Máy bay địch cách Hà Nội một trăm cây số về hướng Đông! Các lực lượng phòng không sẵn sàng chiến đấu! Người không có nhiệm vụ xuống ngay hầm trú ẩn!...” Tôi vừa nghe xong câu nói, ngoảnh lại không thấy Trung đội trưởng đâu cả! Tôi ngồi ôm hai cái ba lô con cóc, nhìn lên sân thượng của mấy cái nhà lầu cạnh ga, đã thấy những khẩu súng 12,7 ly và cả súng trường của dân quân hướng nòng về phía Đông, sẵn sàng nhả đạn!... Tôi rất thích cái hình ảnh đặc trưng này của Thủ đô Hà Nội, và cũng có ở các thành phố khác trên Miền Bắc những năm chiến tranh chống Mỹ, bởi mỗi khi có còi báo động máy bay địch như thế, là chúng tôi – những trắc thủ Ra-đa đang phải ngồi trong xe hiện sóng kín mít, và cái tin có máy bay địch kia chính là do những trắc thủ Ra-đa sinh ra!...Tôi đang mơ màng suy nghĩ về một trận bắn máy bay địch ác liệt, nòng súng 12,7 ly của tôi đã đỏ rực thì có ai đó đá vào chân tôi, hỏi: “Tại sao đồng chí không vào hầm trú ẩn?” Tôi ngẩng nhìn, thì ra là một cô nàng nhân viên nhà ga. Tôi nói ngay: “Tôi mới bị thương ở chân, không đi được! Trung đội trưởng của tôi đã đi thay xuất của tôi rồi!” Cô gái bật cười khanh khách rồi nói: “Cái anh lính binh nhất này coi thường mạng sống lại còn hài hước nữa chứ, định rỡn mặt Tử Thần hả? Tôi sẽ dìu anh vào hầm trú ẩn!” Cô gái cầm cánh tay tôi định kéo lên thì tôi nắm lấy cánh tay cô gái, thay vì đứng lên, tôi kéo mạnh, khiến cô gái bị bất ngờ, ngã đè xấp lên người tôi!...
Chúng tôi đang lúng túng trong tình huống bất ngờ thì tiếng còi “Báo an” vang lên, cùng với tiếng nói đều đều, chứ không gấp gáp như lúc báo động, của hai cái loa phóng thanh:” Đồng bào chú ý! Máy bay địch đã đi xa!...Mọi sinh hoạt trở lại bình thường!” Cô gái nhân viên nhà ga đứng được lên thì xấu hổ chạy vút đi!...
 
Khoảng năm phút sau, trung đội trưởng mới quay lại, lấy ba-lô đeo lên vai rồi nói: “Chúng ta đi ra cầu phao! Chưa có tàu thì đi cầu phao! Ngồi chờ ở đây rất nguy hiểm vì nhà ga là mục tiêu ném bom của máy bay Mỹ!” Tôi nghĩ, không hiểu sao Trung đội trưởng lại “Nhát chết” như thế? Lại còn là người rất thích chải chuốt nữa chứ! Là nông dân vùng chiêm trũng Hà Nam đã năm đời, nhưng trong hai cái túi ngực áo lính của anh ta lúc nào cũng có tới hai cái gương và hai cái lược! Hai cái gương để có thể nhìn được phía sau gáy, còn hai cái lược là để “sơ-cua”, lỡ quên ở đâu mà mất thì có cái dùng thay thế ngay, bởi cứ khoảng mười phút là anh ta phải chải đầu một lần, mỗi lần phải hơn chục nhát lược!...
 
Chúng tôi đi dọc theo bờ sông Hồng… Những vạt ngô đang kỳ trổ bắp thật là ngoạn mục! Ra tới cầu phao mới biết là ban ngày thì tháo ra năm phao cho thuyền bè đi lại, đến tối mới nối cho xe pháo và người bộ hành qua lại. Chúng tôi chui vào một vạt ngô, trải tấm ni-lông dã chiến ra và ngồi ăn lương khô! Trung đội trưởng ăn xong thì lăn ra ngủ ngon lành, lại còn ngáy nữa chứ! Tôi vốn không thích nằm cạnh người ngủ ngáy nên đứng dậy, tính đi dạo một lúc trên bờ bãi Sông Hồng đẹp như mơ này thì một cô gái bất ngờ xuất hiện ngay trước mặt! Tôi vừa kịp định thần nhận ra chính là cô gái nhân viên nhà ga ban nãy thì cô gái lừ lừ nhìn tôi nói: “Thì ra là anh lính ở trên sân ga!...” Tôi làm điệu bộ chào lễ phép rồi nói: “Thì làm sao ạ? Có phải chúng ta có duyên nợ hay không mà lại gặp nhau nơi phong cảnh hữu tình này?” Cô gái trợn mắt la to: “Duyên nợ cái con khỉ! Anh đừng hòng dở trò ra với tôi lần nữa! Cuốn gói đi ngay chỗ khác để tôi chăm sóc bãi ngô của tôi!” Tôi cũng lấy giọng nghiêm nghị đáp lại: “Chúng tôi, chiến sỹ lực lượng Phòng không – Không quân đang trên đường làm nhiệm vụ, không ai được gây trở ngại! Tôi đề nghị được người dân hỗ trợ, giúp đỡ, cho chúng tôi nằm ngủ trên vạt ngô chờ nối cầu phao!” Cô gái khẽ nhếch mép cười, liếc nhìn Trung đội trưởng đang ngủ ngon lành, rồi hạ giọng: “Thôi được, cho các nghỉ nhưng phải chuyển cho tôi thư và quà tới bố của tôi đang chiến đấu ở chiến trường Khu 4 ác liệt, tên là Trần Đình Hợi, hòm thư X”. Nghe xong tên và hòm thư của bố cô gái, tôi reo lên: “Trời!...Đó là Thủ trưởng Trung đoàn của tôi! Ông thường xuống đơn vị tôi mỗi khi đơn vị có nhiệm vụ đặc biệt!” Cô gái còn tỏ vẻ bất ngờ hơn tôi và thế là chúng tôi trở nên thân mật như…cá với nước! Cô gái nói đã ba năm bố cô chưa về thăm nhà, cô rất muốn gặp bố mà không biết làm sao! Tôi nhận lời chuyển thư và quà cho bố cô, cô liền chạy về nhà, chỉ mười phút sau đã quay lại, thì ra nhà cô gần đó và cô đã chuẩn bị từ trước! Nhìn tên cô gái trên phong thư “Trần Thị Ga” tôi thoáng nghĩ, chắc là cô gái đẻ rơi trên sân ga! Khi hỏi chuyện thì quả nhiên là như vậy! Thấy tôi giỏi “đoán mò”, Ga nói: “Anh có biết xem tướng không? Em sẽ lấy chồng làm gì và bao giờ thì cưới?” Tôi làm bộ lẩm nhẩm bẩm đốt ngón tay rồi nói: “Cô có tướng vượng phu ích tử, chồng cô sẽ là người tài và thành đạt. Có lẽ chỉ hai năm nữa là cô sẽ lên kiệu hoa lấy được chồng như ý!”…Tôi vừa ngừng lời thì Trung đội trưởng ngồi bật dậy, nói: “Ai đã phá giấc ngủ của ta, sẽ bị phạt!...À, thì ra là anh chàng Binh nhất láu tôm láu cá! Đi mua ngay cho ta một chai rượu!” Tôi đã quen với “cái vụ sai vặt” nên chạy đi ngay!...
 
Tôi đi dạo một vòng phố xá thị trấn Gia Lâm, ăn một bát phở gà thơm phức rồi mới xách chai rượu trở về ruộng ngô cho Trung đội trưởng, nếu tính thời gian thì phải gần một giờ đồng hồ. Về tới nơi, tưởng rằng sẽ được nghe Trung đội trưởng kể lại “chiến tích chinh phục người đẹp” ai ngờ thấy Trung đội trưởng hai tay ôm “hạ bộ” đang rên i ỉ!...
 
Đến tối, cầu phao vẫn chưa được nối, hỏi ra mới biết có hai cái phao cầu do không neo buộc kỹ đã bị nước cuốn trôi mất tiêu! Người ta đang khắc phục sự cố! Trung đội trưởng sốt ruột nói: “Chờ cả ngày, giờ lại chờ cả đêm thì biết đến bao giờ? Cậu đi hỏi xem có thuyền nào nhận chở ta qua sông không?” Tôi liền đi hỏi những người dân xung quanh thì họ đều nói, hôm nay có lũ ở thượng nguồn, nước sông dâng cao và chảy xiết, không ai muốn mạo hiểm cả. Tôi bèn nghĩ bụng, mình chưa bao giờ đứng trước sự nguy hiểm thực sự, vậy lần này thử xem sao? Không đả động gì đến chuyện nước lũ kéo về, nước sông chảy siết và dâng cao, tôi nói với Trung đội trưởng: “Không có thuyền nào nhận chở người ban đêm. Tôi thấy chúng ta có thể bơi qua sông!” Trung đội trưởng tròn mắt, nói: “Bơi qua sông? Cậu có điên không đấy?” Tôi bình thản nói: “Lúc nước cạn, cát nổi lên giữa dòng sông, chúng tôi còn ra đá bóng vui lắm! Chúng ta sẽ bơi qua sông ở chỗ có cát nổi lên đó!...Chúng ta đã cùng bơi vượt sông La ở Đức Thọ (Hà Tĩnh), rồi sông Lam ở Nam Đàn (Nghệ An), rồi sông Gianh ở Quảng Bình, chẳng lẽ lại sợ Sông Hồng của Hà Nội, như thế thì làm sao mà dám ngẩng mặt nói chuyện với Người Hà Nội? Anh có biết hồi tôi mới học lớp Một, nhà ở Quân Y viện 103, chỉ vì tôi bơi vượt qua sông Nhuệ mà đám trẻ con trong vùng gặp tôi là cúi rạp chào Đại ca đấy!” Hình như lời “khích tướng” của tôi có tác dụng tức thì, Trung đội trưởng và tôi đi ra ngay bờ sông, cởi quần áo cho vào ba-lô rồi lấy tấm vải ni-lông buộc túm lại thành một bọc lớn, đó sẽ là cái phao cho chúng tôi vượt sông. Khi chúng tôi, chỉ mặc cái quần đùi, vác bọc đồ ni-lông trên vai, bước xuống sông, trông không khác gì đặc công thủy xuất quân! Khi nước tới rốn, tôi quay lại thì thấy Trung đội trưởng vẫn đang ở chỗ nước tới đầu gối! Thấy tôi nhìn lại, Trung đội trưởng xốc lại bọc đồ trên vai rồi bước tới! Nghĩ tới câu thành ngữ “Khi nước đã tới rốn thì cho ngập luôn”, tôi nhào ra giữa dòng nước…
 
4.Về Thủ đô lần thứ Ba
 
Sau lần tôi và trung đội trưởng bơi vượt sông Hồng thành công, mọi việc dường như xảy ra rất tốt đẹp khiến Trung đội trưởng lại đề nghị cho tôi được đi cùng ra Hà Nội lần nữa, chỉ cách lần trước ba tháng. Lúc tàu dừng ở ga Hàng Cỏ (Ga Hà Nội), Trung đội trưởng mới nói với tôi: “Tớ cho cậu đi “Tranh thủ” lần này là để thưởng công cho cậu đã góp phần vào kết quả rất tốt đẹp của chuyến đi lần trước: Bộ Tư Lệnh Binh chủng đã quyết định điều tớ ra Phòng Tham mưu, từ Thiếu úy phong vượt cấp lên Thượng úy. Cứ cái đà này, chẳng mấy chốc mà lên tá, rồi lên tướng là cái chắc! Vì thế, tớ sẽ vào thẳng Bộ Tư Lệnh. Còn cậu, có thể tới nhà người quen hoặc về gia đình ở Hải Phòng tùy ý! Chủ nhật tới, nếu rảnh thì vào BTL kêu tớ, chúng ta lại đi dạo Hồ Gươm rồi ăn kem Nhà Thủy Tạ, sau đó đi bơi thuyền Hồ Tây!... Nhưng đừng dắt tớ vào mấy chỗ Thư viện Quốc Gia, Bảo Tàng Mỹ thuật hay Văn Miếu gì đó nữa nhé!...Mấy chỗ đó chẳng có gì thú vị cả!...”
 
 Không biết Trung đội trưởng còn nói gì nữa hay không mà tôi thì bàng hoàng, sửng sốt và “Chết đứng như Từ Hải” bởi, thì ra Trung đội trưởng đang thực hiện một âm mưu “chạy chọt” để được ra Hà Nội, như ngoài đời dân sự thường xảy ra! Tôi ngạc nhiên bởi không nghĩ một người lính thời chiến, một sĩ quan – đảng viên – tấm gương cho bọn lính tráng chúng tôi noi theo hàng ngày, lại có hành động “đào ngũ” một cách tinh vi đến như thế! Tôi chỉ ước mình có được đôi cánh để bay trở vào đơn vị, lúc này đơn vị đang ở Nghi Lộc, Đô Lương (Nghệ An) hay Can Lộc, Đức Thọ (Hà Tĩnh)? Khi tôi kịp định thần thì không thấy Trung đội trưởng đâu nữa mà mấy người xích lô xúm vào lôi lôi, kéo kéo! Đúng lúc tâm trạng hỗn độn như vậy, tôi vụt nhớ đến cái lần về Hà Nội đầu tiên, gặp em ở đầu phố Tràng Thi!... Tôi liền nói với người xích lô chở tôi tới đầu phố Tràng Thi. Khi tôi và người xích lô đang cò cưa về tiền công chở tôi từ Ga về thì một cô gái xuất hiện, như một Nàng Tiên, chợt hóa thành cái cô gái bé nhỏ mà tôi đã gặp 14 năm trước!...Thật khó mà tin được đó lại là sự thật: đó chính là cô bé đã gặp tôi ở chính chỗ này khi tôi tới Hà Nội lần đầu 14 năm trước! Chỉ nhìn tôi khoảng một hay hai phút, cô gái nói: “Anh chính là cậu bé tôi đã gặp 14 năm trước ở đây!...”
 
Giải quyết xong “vụ xích lô”, cô gái mời tôi vào nhà, chỉ cách “điểm dừng lịch sử” vài bước chân. “Em đã nằm mơ thấy người bạn bé nhỏ là anh của 14 năm trước hoài! Đêm qua cũng vậy, còn thấy rất rõ ràng là sẽ gặp lại ở chính chỗ này! Vì thế, suốt ngày hôm nay, em cứ ngóng nhìn ra đây và quả nhiên đã “tóm” được anh!...Em đã là cô giáo, còn anh chỉ là một anh lính Binh Nhất, vì thế anh phải nghe theo sự sắp đặt của em!...” – cô gái nói một tràng mà tôi nghe như là cô đang hát những liên khúc dài bất tận, bởi khi cô ngừng nói – thì tôi đã thấy mình đã tắm rửa sạch sẽ, ngồi bên một mâm cơm hương thơm ngào ngạt!... Hương, tên cô gái, ngồi tiếp tôi ăn cơm và kể cho tôi nghe biết bao nhiêu chuyện. Thì ra, Hương cùng tuổi với tôi, là người Hà Nội đã ba đời, cha mẹ đều là nhà giáo từ thời Pháp thuộc, hiện vẫn còn dạy ở trường Chu Văn An. Hết lớp 10, Hương học ở Trường Sư Phạm 10+3 rồi dạy cấp 2 ở ngoại thành…
 
Hôm sau, Hương dẫn tôi tới những chỗ lần đầu tiên tôi đến Hà Nội, Hương đã dẫn tôi tới: Hồ Hoàn Kiếm, rồi vào nhà Hàng Thủy Tạ, rồi Nhà Kèn, v.v.…
 
Ở nhà Hương một ngày, tôi qua cầu Long Biên tới Ga Gia Lâm tìm cô gái có tên Ga để báo tin rằng bố cô đã hy sinh. Nhưng khi tới Ga thì chỉ gặp mẹ cô, cũng làm việc ở Ga. Bà nói cô đã tình nguyện vào chiến trường chiến đấu, sau khi gia đình nhận được giấy báo tử!
 
Khi người ta không giải thích được nhiều nỗi buồn cùng đến một lúc thì người ta thường trở về với cái nơi người ta đang sống. Vì thế, tôi chỉ ở lại Hà Nội thêm một ngày, đi lang thang khắp nơi, rồi trở về đơn vị…Hương tiễn tôi ra ga, khi gần chia tay, Hương nói: “Nếu chúng ta có duyên thì chỉ một, hai năm nữa là sẽ gặp lại. Ông bố mình rất giỏi xem tướng, nhìn tướng bạn, ông bảo chỉ hai năm nữa là bạn sẽ trở lại con đường học hành mà thôi!” Nghe Hương nói vậy, tôi nghĩ là cô nói đùa cho vui, ai ngờ đúng hai năm sau, tôi trở lại trường cũ thật. Nghĩ tới lời nói của Hương khi chia tay, tôi tới phố Tràng Thi tìm Hương, nhưng thấy cửa nhà đóng khóa im ỉm. Người hàng xóm cho biết Hương đã đi lấy chồng được một tháng!...
 
*
Được trở lại học, đó là điều không phải dễ dàng, vì thế tôi lấy đó làm vui và quyết “Làm lại từ
Đầu”. Tuy nhiên, cũng có lúc buồn chán, tôi thường thả bộ dọc con đường Nguyễn Trãi trước cổng trường (là Khu Thượng Đình – đối diện nhà máy Cao-Xà-Lá Hà Nội)… Một hôm, đi mãi, qua Ngã Tư Sở thì tôi rẽ vào đường Sân Bay từ lúc nào không hay! Đây là con đường dẫn vào Bộ Tư Lệnh Binh chủng Ra-đa, có những ngôi nhà mới xây rất đẹp, hình như đang cùng nhau “ăn tân gia”. Và thật bất ngờ, đứng ở trước cổng một ngôi nhà hoành tráng đó là cô gái Hương Tràng Thi và bên cạnh là một viên sĩ quan đeo lon Thiếu Tá, và tôi không thể gọi một cái tên khác mà phải thốt lên: “Trung đội Trưởng của tôi!”…
 
Sài Gòn, 2008-2009
Đỗ Ngọc Thạch
http://thanglong.cinet.vn/UserFiles/Image/HA/cauLongBien.jpg
Cầu Long Biên mùa nước (Nguồn ảnh: Internet)

Thứ Hai, 5 tháng 12, 2011

Chùm 2 truyện ngắn Đỗ Ngọc Thạch (bichkhe.org)

 
CHÙM TRUYỆN NGẮN ĐÓN CHÀO NGÀY QĐND -22/12

                                                                                           Đỗ Ngọc Thạch
NGƯỜI CON GÁI SÔNG LA
1. 
Người con gái sông La / Đôi mắt trong tựa ngọc…” – đó là lời mở đầu bài hát Người con gái sông La, hát về những cô gái Thanh niên xung phong (TNXP) của tỉnh Hà Tĩnh trên chiến trường Khu Bốn, cụ thể là ở Ngã ba Đồng Lộc, đầy mưa bom, bão đạn những năm tháng chiến tranh chống Mỹ cứu nước. Những cô gái TNXP đó cùng lứa tuổi với tôi và đúng vào thời kỳ không quân Mỹ tập trung đánh phá Khu Bốn thì đơn vị Ra-đa của tôi cũng chiến đấu ở chiến trường khu Bốn này. Chỉ riêng hai điều đó đã khiến cho tôi không thể quên được vùng đất này, huống chi “…trong từng nắm đất / có một phần xương thịt của Em tôi…”- EM TÔI  ở đây chính là O Việt!... 
Ngay hôm đầu tiên gặp O Việt, tôi hỏi em tên gì, nhà ở đâu thì em cứ hát hoài câu hát Người con gái sông La… Vì thế tôi đành gọi em là Người con gái sông La… 
*
Nơi đóng quân  để làm nhiệm vụ của Đơn vị Ra-đa chúng tôi gọi là Trận địa Ra-đa, cũng na ná như trận địa pháo phòng không (hoặc còn gọi là Cao xạ pháo), máy móc, khí tài được đặt trong những ụ đất cao bốn, năm mét, còn giàn Ăng-ten thì đặt trên một gò đất cao. Khi từ Nghệ An hành quân vào Hà Tĩnh, đơn vị Ra-đa chúng tôi đóng quân ở Can Lộc, tận dụng một gò đất cao tự nhiên, chỉ việc san lấp mặt bằng trên đỉnh gò một ngày là có thể kéo máy lên. Nhưng khi làm trận địa Ra-đa ở  xã Đức Thanh, huyện Đức Thọ thì tốn khá nhiều công sức: chỗ chọn làm trận  địa chỉ là bãi đất rộng đầu làng, vốn là khu trồng khoai, đậu nên địa hình bằng phẳng, toàn bộ bốn ụ đất hình chữ U để một xe hiện sóng, một xe đối không (dùng để liên lạc trực tiếp với máy bay ta), hai xe máy phát điện và một gò đất cao năm mét để đặt giàn Ăng-ten (lưới phản xạ) đều phải dùng sức người, tức lực lượng TNXP của huyện Đức Thọ. Đại đội phó Tấn đã chọn tôi làm “trợ lý” để thực hiện thi công trận địa này. 
Lực lượng TNXP giúp chúng tôi đào đắp trận địa đều của huyện Đức Thọ. Nếu không đi khắp làng quê Việt Nam những năm chiến tranh chống Mỹ thì sẽ không thể hình dung nổi lực lượng TNXP lại hầu hết là nữ. Gần 100 cô gái làm trận địa Ra-đa cho chúng tôi lúc này đều là nữ. Có ba đặc điểm làm tôi hết sức bất ngờ, đó là: 1/ Các cô gái đều đã học xong PTTH; 2/ Các cô gái đều có mái tóc dài thướt tha; và 3/ Các cô gái đều rất giỏi ca hát, giỏi đối đáp và nói chung là đều xinh đẹp tuyệt vời! Không khí làm việc sôi động không kém gì trên công trường Đại thủy nông Bắc-Hưng-Hải ở ngoài Bắc ngày trước! Như chúng ta đã biết, hát, hò đối đáp là phải “có nam có nữ mới nên vần nên điệu”, nhưng ở đây tất cả chỉ có tôi và đại đội phó là nam. Vì thế chúng tôi phải “dùng hết công suất” mà vẫn không đối đáp kịp. Rất may là có hai cô gái đã tới trợ giúp tôi và đại đội phó. Thường là nghĩ ngay ra lời đối đáp và đọc cho chúng tôi hò, khi thấy chúng tôi có vẻ sắp “đuối sức” thì hò giúp luôn! Hai cô gái trợ giúp có tên gọi là O Thanh và O Việt… 
Thông thường, mỗi trận địa làm trên địa hình bằng phẳng như thế này, với khoảng năm chục người, thì một tháng là xong. Đại đội phó muốn rút ngắn thời gian nên đã xin tăng gần gấp đôi số người, nhưng do thời kỳ này, máy bay Mỹ thường xuyên bắn  phá bến phà Linh Cảm, Ngã ba Đồng Lộc nên bay qua khu vực trận địa đang làm. Nên mỗi khi có máy bay bay qua, toàn bộ lực lượng đang làm trận địa phải tản ra tránh bom. Cứ cò cưa như vậy mất khá nhiều thời gian…Vì thế, một tháng trôi qua mà trận địa vẫn chưa hoàn thành...Đúng lúc đó lại có lệnh từ Trung đoàn phải cơ động di chuyển trận địa, đại đội trưởng đích thân tới thị sát tình hình. Hai thủ trưởng bàn tính mãi mới đưa ra kết luận: nhanh nhất cũng phải bốn ngày mới xong trận địa, nhanh hơn tính toán trước của đại đội phó là hai ngày! Tuy nhiên, đó mới chỉ là ước tính! Tôi chỉ ngồi nghe các thủ trưởng bàn tính mà không dám có ý kiến gì, ngồi suy nghĩ về câu truyện Tấm Cám trong Kho tàng Truyện cổ tích Việt Nam, khi cô Tấm ngồi khóc bên đống gạo trộn lẫn với thóc, tôi vụt nghĩ: nếu huy động được “Đàn chim sẻ” của ông Bụt đến chuyển đất từ dưới ruộng lên gò thì chỉ trong chớp mắt ta sẽ có ngay một gò đất cao để đặt giàn Ăng-ten lưới phản xạ! Tôi đang mơ màng với Cô Tấm và đàn chim sẻ thì đại đội trưởng vỗ vai tôi, nói: “Anh chàng lính sinh viên này có mưu kế gì không? Nghĩ đi, sẽ trọng thưởng bằng ba ngày “tranh thủ” về nhà!” Đối với lính tráng chúng tôi thời đó, được “tranh thủ” về nhà là phần thưởng lớn nhất! Vì thế, tôi nhận lời với đại đội trưởng sẽ có kế sách để rút ngắn thời gian hoàn thành trận địa.
Tôi đi tìm O Việt, tính nhờ O Việt huy động lực lượng thiếu niên trong xã. Khi tôi nói với O Việt về tình hình khẩn cấp của việc hoàn thành trận địa và ý định của mình, O Việt ủng hộ ngay và nói: “Anh tìm đúng người rồi đó. Năm ngoái em làm cán bộ Huyện Đoàn, phụ trách công tác Đội Thiếu niên, em có thể huy động lực lượng Thiếu niên cả huyện tới tham gia làm trận địa! Nhưng anh phải hứa sẽ giúp em một việc!”. Tôi nói ngay:”Một việc chứ trăm ngàn việc tôi cũng sẵn sàng! O Việt nói đi!” O Việt lưỡng lự một phút rồi nói: “Thôi để làm trận địa xong em sẽ nói!”…
Ngay ngày hôm sau, O Việt đã đến các xã lân cận và chỉ sau một ngày, đã huy động được hơn 100 học sinh thiếu niên tới và chỉ sau một ngày làm việc, trận địa Ra-đa của chúng tôi đã hoàn thành, trước thời gian dự kiến hai ngày! Tôi đi tìm O Việt để hỏi xem cái việc O định nhờ tôi là gì thì mới được biết O Việt cùng một tiểu đội TNXP đã được lệnh tăng cường cho khu vực Ngã Ba Đồng Lộc! Tôi bồn chồn không yên bởi đó đang là điểm đánh phá ác liệt!... 
2. 
Ngày hôm sau, đại đội Ra-đa của chúng tôi đã cơ động đến trận địa mới, xe máy, khí tài, giàn Ăng-ten … đều được đưa vào đúng vị trí không sai một li! Cũng phải thầm cám ơn Ông Trời vì không mưa gió, nếu không sẽ cực kỳ khó khăn vất vả khi triển khai máy móc, khí tài dưới trời mưa, đất bùn trơn trượt!...
Khi Trung đoàn ra lệnh mở máy chiến đấu thì tất cả đã ở tư thế sẵn sàng! Đại đội trưởng gọi tôi lên Ban Chỉ huy Đại Đội, nói: “Đúng như lời hứa, cậu sẽ được đi “tranh thủ” ba ngày! Chúc thượng lộ bình an!”. Tôi chạy về Trung đội, đã thấy Tiểu đội trưởng cầm cái ba-lô cóc của tôi đi tới đón đầu tôi và nói: “Thủ trưởng Đại đội đã báo cho cậu được đi “tranh thủ” ba ngày. Ba-lô quần áo, lương khô và có cả năm cái thư của mọi người nhờ đem về Hà Nội rồi bỏ vào thùng thư Bưu Điện cho nhanh! Đi ngay xuống nhà bếp vì có xe đi lấy gạo, có thể quá giang một đoạn!” Tôi chạy ngay xuống nhà bếp Đại đội, thấy Quản lý Mại đã ngồi trên ca-bin cái xe “gát” cà khổ, dơ tay ngoắc tôi nhanh lên! Khi tôi trèo lên thùng xe đã thấy Tiểu đội trưởng Anh nuôi Sùng và chiến sĩ nuôi quân Khang ngồi đó. TĐT Sùng đưa tôi đưa tôi cái bao tải buộc túm một đầu và nói: “Đây là tiêu chuẩn ăn ba ngày của cậu. Tớ tặng thêm cho cậu một lon thịt hộp, một lon sữa và một gói lương khô! Nhớ có quà Hà Nội nhé, tốt nhất là đem vào cho tớ một chai rượu Làng Vân!...” Tôi nói chắc như đinh đóng cột: “Nhất định là ông anh sẽ có rượu Làng Vân! Còn chiến hữu Khang, thích cái gì?” Khang không nói gì, tưởng anh ta đang “lựa chọn sở thích” tôi lại hỏi, thì Khang nói cụt lủn: “Thích về nhà với vợ! Hỏi nữa không?” Tôi giật mình và thấy như mình có lỗi với anh ta!...
Xe tới Thành phố Vinh thì Quản lý Mại nói: “Xe phải dừng ở đây rồi! Cậu đi kiếm cái xe khác nhé! Chúc may mắn!” Tôi tạm biệt mọi người rồi nhảy xuống đường. Tôi thoáng nghĩ, đứng ở đây vẫy xe không biết đến bao giờ, chi bằng vào Ga Vinh chờ tàu chắc chắn hơn. Tôi vừa đi được dăm bước thì có một chiếc “Zin 3 cầu” đi sát vào tôi, người ngồi ở ca-bin vỗ vào cánh cửa rầm rầm rồi nói: “Có đi Ngã Ba Đồng Lộc thăm người yêu không thì lên xe!” Vừa nghe thấy hai chữ “Đồng Lộc”, tôi vụt nghĩ ngay đến O Việt và không kịp suy nghĩ gì, dơ tay ra hiệu có đi nhờ và khi chiếc “Zin 3 cầu” đi chầm chậm sát bên tôi thì tôi bám thành xe nhảy lên thùng xe! Khi xe chạy được ba phút, tôi mới nhận ra mình đang đi ngược lại lúc nãy, tức về hướng Nam!... 
3. 
Tới Ngã Ba Đồng Lộc thì trời sập tối, nhưng tôi vẫn nhìn rõ con đường ngổn ngang đất đá, nham nhở những hố bom đang lấp dở. Và điều rất dễ nhận ra là cái mùi khét nồng, có cảm giác như sẽ ngạt thở - đó là cái “Mùi chiến trường” rất đặc trưng chỉ ở những nơi “Mưa bom bão đạn” hàng ngày mới có!... Trên con đường ngổn ngang, nham nhở và khét nồng đó, từng tốp, từng tốp các cô gái TNXP đang cặm cụi làm việc!...
Chưa có lệnh thông đường, chiếc Zin 3 cầu dừng lại trước một cô gái TNXP, một tay đang cầm một lá cờ trắng, là cho xe đi qua, một tay đang cầm một lá cờ đỏ, là để dừng xe lại. Người chiến sĩ lái xe nhảy xuống đất, chạy lại chỗ cô gái TNXP cầm cờ, hai người nói chuyện líu ríu, chốc chốc lại cười rúc rích! Tôi cũng nhảy xuống đất, vừa vặn có một cô gái TNXP đi tới. Tôi tóm lấy hỏi ngay O Việt ở đâu. Cô gái nhìn nhanh tôi từ đầu đến chân rồi nói rất nhanh: “O Việt mới bị thương lúc xế chiều, vết thương rất nặng, hiện đang nằm ở Bệnh viện dã chiến! Anh có đến gặp O Việt thì đến nhanh lên!”… 
Theo chỉ dẫn của cô gái TNXP, tôi chạy một mạch đến Bệnh viện dã chiến. Phải  chạy gần nửa tiếng tôi mới tới Bệnh viện. Tìm được O Việt rất nhanh, nhưng O Việt đang nằm bất động, hơi thở yếu ớt, mắt nhắm hờ. Cô Y tá nói với tôi: “O Việt này bị thương rất nặng, khó mà qua khỏi đêm nay!” Nhưng cô Y tá vừa nói đến đó thì O Việt từ từ mở mắt, nhìn thấy tôi thì mắt O như có đốm sáng bừng lên, đôi môi khô nẻ khẽ mỉm cười và thật kỳ lạ, khuôn mặt trắng bệch bỗng ửng hồng, rạng rỡ. Và O Việt bỗng cất tiếng nói, tuy rất nhỏ nhưng tôi nghe rất rõ: “Cái Lan, cái Thanh học cùng lớp em đã có giấy báo vào Đại học, mà em vẫn chưa có…Nhờ anh ra Hà Nội đến Bộ Đại học hỏi giùm em và nếu có thì cầm vào cho em!...” O Việt ngừng nói, mắt lại nhắm hờ! A, thì ra cái việc mà O Việt định nhờ tôi chính là cái giấy báo gọi vào đại học! Tôi nắm nhẹ bàn tay O Việt như có ý muốn nói, tôi sẽ đi hỏi ngay! O Việt khẽ bóp tay tôi như đặt vào tôi niềm  tin mạnh mẽ!... 
Tôi thoáng nghĩ, giấy báo gọi vào Đại học gửi về các địa phương thường nằm ở văn phòng Ủy  ban xã. Ta hãy đến Văn phòng Ủy ban xã hỏi đã rồi ra Hà Nội cũng chưa muộn! Nghĩ vậy, tôi dặn cô Y tá trực canh chừng O Việt rồi chạy vút đi. Rất may là từ bé tôi đã thường xuyên chạy trên vùng đồi mênh mông quê tôi và từ hồi nhập ngũ, sáng nào lính tráng chúng tôi cũng phải chạy “có vũ trang” nửa tiếng cho nên chẳng mấy chốc tôi đã chạy tới nhà ông chủ tịch Xã của O Việt. Lúc đó đã nửa đêm, ông chủ tịch xã bị tôi dựng dậy thì cằn nhằn vài câu, nhưng khi nghe tôi nói tình trạng nguy kịch của O Việt, ông lo lắng và xem chừng rất xúc động, ông dẫn tôi đến ngay văn phòng Ủy Ban, vừa đi vừa “thanh minh thanh nga”: Xã thiếu lực lượng cán bộ trẻ nên có chủ trương giữ một số người có giấy gọi Đại học lại, dự tính hết chiến tranh sẽ cho đi học “bù”. Tôi bảo: “Sao không nói thẳng yêu cầu của xã?” Ông chủ tịch xã ấp úng rồi nói: “Nếu nói thật yêu cầu của xã thì chẳng ai chịu ở lại cả. Vùng chúng tôi là “Đất hiếu học” mà. Có giấy gọi trong tay là họ bay đi luôn!”. “Tôi thật không hiểu tại sao các ông phải dùng cách “nói dối” như thế! – tôi la lên và chạy vọt lên trước.
Chưa hết câu chuyện “nói dối, nói thật” thì chúng tôi đã tới trụ sở Ủy ban Xã. Chỉ trong ba phút, ông chủ tịch xã đã tìm thấy cái giấy gọi vào Trường Đại học Y dược Hà Nội của O Việt. Vừa cầm tờ giấy, tôi đã phóng vút đi… 
Khi tôi về tới phòng bệnh, cô Y tá đang ngồi ngủ gà ngủ gật bỗng giật mình hoảng hốt bởi tôi đã reo lên rất to: “O Việt!... Giấy gọi vào Đại học của O đây rồi!” Hình như tiếng reo to của tôi đã đánh thức O Việt. Lần này, O Việt mở mắt ra rất nhanh và ánh mắt có vẻ linh hoạt gần như thường ngày, O nói với tôi chậm rãi nhưng tiếng nói to và rõ hơn ban nãy: “Anh đọc hết nội dung cái giấy gọi vào Đại học lên cho em nghe đi nào!”. O Việt nói rồi ra hiệu cho cô Y tá đỡ mình ngồi dậy, nhìn tôi ngóng đợi. Tôi thấy bỏng rát trong cổ, chắc phải chạy đi chạy lại quá nhiều. Sau khi uống hết một bát nước đầy, tôi hắng giọng và đọc từ những dòng chữ đầu tiên. Khi đọc đến bốn chữ Phan Lê Lạc Việt, tôi thấy từ hai con mắt O Việt hai dòng nước trong vắt nhẹ nhàng chảy ra, lăn qua gò má chảy xuống đôi môi tím tái và bỗng làm cho đôi môi trở lại mọng ướt như không hề bị thương. Cô Y tá hình như bị lây truyền nên cũng nước mắt ràn rụa. Còn tôi, nhìn những dòng chữ như nhìn qua sương mù, và khi đến dòng cuối cùng, tức chỗ ghi “Ngày…tháng…năm…” thì tôi không nhìn thấy gì nữa. Tôi vội dụi mắt và nhìn vào khuôn mặt rực sáng của O Việt thì bàng hoàng, chân tay rụng rời bởi đôi mắt của O Việt đã khép lại vĩnh viễn, duy chỉ có đôi môi là vẫn mọng ướt và còn vương lại nụ cười của người trinh nữ!... 
4. 
Tôi cùng tiểu đội TNXP của O Việt lo tang lễ cho O Việt xong thì đã sang nửa ngày “tranh thủ” thứ hai, làm sao đủ thời gian mà đi ra tới Hà Nội nữa? Tôi đang lúi húi trồng thêm xung quanh nấm mộ của O Việt mấy khóm hoa sim thì bỗng nghe văng vẳng tiếng hát từ đâu vọng tới: Người con gái sông La / Đôi mắt trong tựa ngọc… Lời bài ca như có sức thôi miên kỳ lạ! Tôi đi như chạy ra bờ sông… Không biết tôi có nhảy xuống sông bơi qua bơi lại một vòng như mọi khi hay không nhưng khi tôi về tới đơn vị thì Đại đội phó ôm chầm lấy tôi mà nói: “Cứ tưởng cậu đang ngồi ăn kem ở  Nhà Thủy Tạ Hồ Gươm rồi chứ, ai ngờ lại thi bơi vượt sông La!...Cậu trở lại rất đúng lúc! Tớ vừa nhận được lệnh đi làm một trận địa Ra-đa nữa ở huyện Thạch Hà, chưa biết lấy ai làm “trợ lý” và chọn chỗ nào ở huyện Thạch Hà? Lại chọn cậu thì sẽ rất tốt vì tên của huyện có một chữ trùng với tên cậu?”… Người lính chúng tôi không được lựa chọn công việc mà ngàn lẻ một công việc nó đã chọn người lính chúng tôi! Vì thế tôi lại đi theo đại đội phó làm một trận địa mới!... 
Sài Gòn, 2008-2009
Đỗ Ngọc Thạch
http://a8.vietbao.vn/images/vn888/hot/201007/1280214230-1-song-la11.jpeg
Núi Hồng-Sông La là biểu tượng đẹp của Hà Tĩnh
*

Chuyện tình Sơn Nữ

Tính năng của máy Ra-đa là có thể phát hiện mục tiêu máy bay địch từ xa, ở khoảng cách tới bốn, năm trăm ki-lô-mét. Càng ngày, khoảng cách này càng được nối dài. Vì thế Ra-đa được gọi là “Mắt Thần”, giống như vị Thần có con mắt nhìn xa ngàn dặm trên Thiên Đình gọi là “Thiên Lý Nhãn”. Tuy nhiên, Ra-đa cũng có “Gót chân A-sin”, tức là trong vòng bán kính khoảng mười ki-lô-mét tính từ chỗ đặt máy, mục tiêu lẫn vào “sóng cố định” dày đặc nên không thể nhận ra được. Lợi dụng “Gót chân A-sin” đó của máy Ra-đa, máy bay địch cố gắng bay rất thấp, khi qua những vùng địa hình có núi cao thì luồn lách qua những khe núi (muốn bay như thế, phi công phải là những cao thủ), khi máy bay địch bay như thế, sóng phản xạ có hiện về nhưng lẫn vào đám sóng cố định nên không thể nhận ra!...

Để khắc phục “Gót chân A-sin” của Ra-đa Mắt Thần, những Đài quan sát bằng mắt thường đã được thành lập và bố trí xen kẽ với những Đài Ra-đa Mắt Thần, kịp thời bổ khuyết đường bay của máy bay địch để Sở Chỉ Huy của Lực lượng Phòng Không – Không quân theo dõi mục tiêu được liên tục và có đối sách kịp thời. Những Đài quan sát bằng mắt thường của chúng ta đã góp một phần không nhỏ vào chiến thắng của bộ đội Phòng Không – Không quân trong cuộc chiến Chống chiến tranh phá hoại bằng Không quân của Không lực Hoa Kỳ trong những năm tháng chống Mỹ hào hùng!...


                                                                                                         *

Đài Quan sát bằng mắt thường (từ đây gọi tắt là Đài quan sát – ĐQS) được biên chế thành một Tiểu đội, trực thuộc Sở Chỉ huy . ĐQS của Tiểu đội Trưởng Lê Nhãn có biệt danh là Thiên Lý, đóng “Đại bản doanh” trên một ngọn núi, chỉ cao chưa tới một ngàn mét nhưng có cái tên rất hay là Chim Ưng, vì thế, trong liên lạc thì dùng biệt danh Thiên Lý, còn trong ngôn ngữ đời thường thì gọi là Chim Ưng. Tiểu đội Trưởng Nhãn rất thích loài Chim Ưng nên anh đã nuôi được một tổ Chim Ưng trên núi.


Tiểu đội của ĐQS gồm có bảy người, ba người thay nhau trực 24/24 trên Đài Quan sát, hai người lo nhiệm vụ thông tin, liên lạc thông suốt và hai người lo nuôi quân “ăn no đánh thắng”!


Lực lượng “Hỏa đầu quân” trong quân đội chúng ta được gọi là Chiến sĩ nuôi quân, hay gọi tắt bằng cách gọi thân mật là Anh nuôi, để phân biệt với những Chiến sĩ nuôi quân gái là Chị Nuôi. Đi bộ đội, thường là chẳng ai thích làm Anh nuôi và lực lượng này thường được xếp vào bảng danh mục dưới cái tên chung là Hậu cần, để phân biệt với những đội quân xung kích chuyên lãnh ấn Tiên phong mỗi khi đánh trận!…


Hai Anh nuôi của Tiểu đội ĐQS là nhân vật chính của Truyện ngắn này và không hiểu tại sao lại là anh em sinh đôi, được bố mẹ đặt tên cho trái ngược nhau là Thủy và Hỏa, nhưng họ lại chẳng hề xung khắc với nhau như Nước với Lửa – như tên gọi của họ -, mà ngay từ nhỏ, họ đã luôn gắn bó với nhau như hình với bóng! Một điểm đặc biệt nữa của hai Anh nuôi là họ đều “không cao”, chỉ đúng một mét rưỡi! Và đặc điểm “không cao” này không chỉ của hai anh em Thủy và Hỏa mà là của cả Tiểu đội ĐQS! Tuy chưa phải là người lùn “Mét Mốt” – chiều cao chuẩn phổ biến của người Lùn trên toàn thế giới, - nhưng khi nhìn cả bảy người của Tiểu đội ĐQS đứng cạnh nhau thì người ta nghĩ ngay đến câu chuyện cổ tích “Nàng Bạch Tuyết và Bảy Chú Lùn”! Nhưng người nói ý nghĩ ấy ra thành lời chính là Tham Mưu Trưởng Trung Đoàn khi đến thăm Đài quan sát của “Bảy Chú Lùn”. Lúc ấy Tham Mưu Trưởng nói: “Phải chi có Nàng Bạch Tuyết đến đây thì chúng ta có được câu chuyện Cổ tích “Nàng Bạch Tuyết và Bảy Chú Lùn” thời hiện đại!”. Nghe Tham Mưu trưởng nói vậy, Anh nuôi Thủy ngập ngừng, nói: “Báo cáo Thủ trưởng, nếu chúng em tìm được Nàng Bạch Tuyết thì Thủ trưởng có cho ở trên núi này với chúng em không?”. Tham Mưu Trưởng cười lớn: “Nếu có cô gái nào tình nguyện làm Nàng Bạch Tuyết thì tôi sẽ ký quyết định cả hai tay, biên chế cô ta vào thành viên chính thức với nhiệm vụ Y tá!”. Tức thì Anh nuôi Hỏa nói nhanh: “Quân tử nhất ngôn, tứ mã nan truy, Thủ trưởng nhớ nhé!” Tham Mưu trưởng lại cười lớn, nhưng nhìn kỹ vào hai con mắt thâm quầng của ông, người ta thấy ươn ướt!... “Ở nơi núi cao rừng sâu này thì làm sao có cô gái nào dám mạo hiểm leo núi? Nếu là truyện Liêu Trai thì sẽ là Hồ Ly tinh mà thôi!...” – Tham Mưu Trưởng thoáng nghĩ và cảm thấy ớn lạnh nơi sống lưng!...


                                                                                              *

Vì sao Anh nuôi Hỏa lại nói với Tham Mưu Trưởng như vậy? Bởi vì ngay từ khi mới lên núi làm nhiệm vụ, lúc đi dạo quanh đoạn đường dưới chân núi, Cả Thủy và Hỏa đã gặp cô Sơn Nữ đang đi hái lá thuốc và sau khi làm quen, cô nói sẽ có ngày lên núi thăm Tiểu đội ĐQS. Thủy và Hỏa tưởng là cô Sơn Nữ nói vui miệng nên không nhớ đến câu nói đó, tức không hề có sự chuẩn bị đón khách! Vì thế, chỉ ba ngày sau, hai Anh nuôi đang đi cõng nước (từ lưng chừng núi lên đỉnh núi, gần năm trăm mét) thì bất ngờ gặp cô Sơn Nữ ở đúng nơi có mạch nước!


Nhìn bộ dạng lúng túng của hai anh chàng Cửu Vạn (khi đi cõng nước, nước đựng trong cái can bằng sắt, vốn để đựng xăng, loại 20 lít, rất nặng và phải leo lên từng bậc đá …nên “trang phục” phải gọn gàng như Đô Vật, tức chỉ mặc cái quần đùi), cô Sơn Nữ cười rúc rích một hồi rồi nói: “Hai anh sao không mời em lên núi chơi mà cứ gãi đầu gãi tai hoài như thế?” Thủy nói: “Tại…chúng tôi mắc cỡ quá!...Bây giờ cô đứng đây chờ tôi vác cái can nước này lên núi rồi quay lại đón cô nhé!” Hỏa nói thêm: “Đúng đấy! Để chúng tôi về báo cho mọi người chuẩn bị để đón tiếp cô thật đàng hoàng!”. Cô Sơn Nữ không cười nữa mà nói: “Các anh chỉ vẽ chuyện. Ngọn núi này em vẫn thường lên hái cây thuốc, từ ngày các anh tới thì em chưa lên mà thôi! Hôm nay em muốn lên giới thiệu với các anh vườn thuốc của em ở trên đỉnh núi! Tức như là em về nhà mình, bây giờ là nhà của chúng ta!” Nói rồi cô Sơn Nữ leo lên những bậc đá nhanh thoăn thoắt, khiến cho hai anh nuôi tròn mắt ngạc nhiên!


Cuộc đón tiếp cô Sơn Nữ trên đỉnh núi Chim Ưng được coi như là một sự kiện trọng đại của Đài Quan Sát. Cô Sơn Nữ còn hứa là sẽ rủ rê thêm các cô bạn nữa thường xuyên lên núi chơi, nhân tiện vận chuyển giúp Đài Quan Sát một số lương thực, thực phẩm…từ chân núi lên đỉnh núi.


                                                                                                           *

Từ khi có cô Sơn Nữ lên đỉnh núi thăm Đài Quan Sát, hai anh em Thủy và Hỏa bàn với nhau: Cứ tưởng bảy người lính chúng ta như là bị giam lỏng ở đây, sẽ chết già trong cô đơn hoang vu! Ai ngờ có cô Sơn Nữ xinh đẹp như Tiên Nữ giáng trần tới thăm, và sẽ còn cùng với các Nàng Tiên khác tới nữa. Như vậy, chúng ta phải làm cho nơi rừng núi hoang vu này biến thành chốn Bồng lai Tiên cảnh, thì mới gọi là đáp lại thiện cảm của các Nàng Tiên! Thế là ngày ngày, hai anh em Anh nuôi Thủy và Hỏa đi lấy các loại cây giống của các loại cây Đào Hoa, Đào Quả, Mận, Mơ, Mai, và rất nhiều loại hoa đem trồng trên đỉnh núi. Trên đỉnh núi trồng kín rồi thì lan dần xuống các triền núi!...


Công việc trồng cây, trồng hoa của hai anh em Anh nuôi Thủy và Hỏa nó cũng âm thầm, bền bỉ như công việc quan sát bầu trời, phát hiện mục tiêu máy bay của Đài Quan Sát. Ở Sở Chỉ huy, các sĩ quan Tham mưu và đặc biệt là Tham mưu trưởng vẫn ngày ngày đều đặn nhận được những số liệu về đường bay của máy bay địch ở khu vực hoạt động của Đài Quan Sát Thiên Lý. Cũng như vậy, trên đỉnh núi Chim Ưng, những mầm sống của cây Đào, cây Mai, cây Mận…vẫn ngày ngày phát triển. Và đến lúc cả đỉnh núi Chim Ưng đã trở thành một rừng Đào, rừng Mận thì ai cũng chưa dám tin ngay đó là sự thật…


                                                                                              *

Sáu năm sau, Đài Quan Sát được lệnh giải thể. Tính từ lúc nó được thành lập năm 1967 đến lúc có lệnh giải thể là năm 1973, chỉ có duy nhất một lần Tham Mưu trưởng và hai sĩ quan Tham mưu tới thăm sau khi nó được thành lập một tháng. Không phải người ta quên nó vì nó ở nơi heo hút xa xôi mà vì còn rất nhiều công việc khác cấp bách hơn! … Chính vì thế, như là để chuộc lại sự “bỏ rơi” suốt sáu năm qua, đích thân Tham Mưu trưởng – tác giả sáng lập ĐQS –, Lúc này đã là Trung Đoàn Trưởng, đã cầm Quyết định giải thể đến gặp những người lính ở Đài Quan Sát Thiên Lý. Ông đã nghe các chiến sĩ nói qua máy bộ đàm về vườn Đào trên đỉnh núi Chim Ưng, nhưng khi được tận mắt chứng kiến, ông vẫn hết sức kinh ngạc: Đúng là chốn Bồng Lai Tiên cảnh! Và điều ngạc nhiên thứ hai là cả Bảy chiến sĩ của Đài Quan Sát dường như là không hề bị già đi theo thời gian, ngược lại họ còn khỏe mạnh hơn lúc mới lên núi!... Khi nói về nguyện vọng sau khi giải thể, Tiểu Đội trưởng Lê Nhãn nói: “Nếu quân đội cần chúng tôi đi đâu, chúng tôi xin sẵn sàng! Nhưng sau khi kết thúc chiến tranh, chúng tôi xin được phục viên về đây làm nghề trồng Đào Tiên, vì đang có bảy người vợ và mười bốn đứa con đang chờ đợi!” Nói rồi Tiểu đội trưởng Lê Nhãn dẫn Tham Mưu trưởng xuống Làng Chim Ưng ở sườn núi, nơi gần với mạch suối nước: Có bảy ngôi nhà ẩn hiện trong những cây Đào Quả lúc lỉu và những cây Đào Hoa rực rỡ!...


Việc Tham Mưu Trưởng tức Trung Đoàn Trưởng ra quyết định cho cả Bảy chiến sĩ của Đài Quan Sát Thiên Lý được phục viên ngay sau quyết định giải thể chỉ mãi sau ngày 30-4-1975 người ta mới tán đồng, tức là khi ông bị đột tử trong một vụ tai nạn giao thông. Còn khi mới ra quyết định cho cả Bảy chiến sĩ của Đài quan sát phục viên, ai cũng phản đối! Chỉ khi người ta chết đi thì mọi việc làm trước đó mới được nhìn nhận chính xác chăng?


Bây giờ, đến đỉnh núi Chim Ưng (đã được đổi tên thành Vườn Đào Bảy Chú Lùn), ta sẽ thấy ngôi mộ của Tham Mưu Trưởng và Bức Tượng “Tham Mưu Trưởng và Bảy Chú Lùn” rất đẹp!

Đỗ Ngọc Thạch
http://www.eva.vn/upload/1-2011/images/2011-01-27/1296098002-xu7.jpg
Khi mùa xuân tới... Ảnh Internet

Thứ Bảy, 3 tháng 12, 2011

Lưu Quang Vũ "Sống mãi Tuổi 17" - Đỗ Ngọc Thạch

http://tuanvietnam.vietnamnet.vn/Library/Images/53/2008/08/30_Luu%20Quang%20Vu.jpg

Lưu Quang Vũ "Sống mãi tuổi 17" - Đỗ Ngọc Thạch

Giải thưởng Hội Nhà văn Hà Nội 2010 đã trao giải “Thành tựu trọn đời về Thơ” cho Tuyển thơ Gió và Tình yêu thổi trên đất nước tôi (NXB Hội Nhà văn và Nhã Nam hợp tác xuất bản, H.2010) của cố thi sĩ Lưu Quang Vũ (1948-1988).
Gió và tình yêu thổi trên đất nước tôi (2010) với hơn 100 thi phẩm có thể xem như tuyển tập thơ Lưu Quang Vũ đầy đủ, công phu và kỹ lưỡng nhất cho đến thời điểm này. Tuyển tập thơ sẽ đem lại cho độc giả hình dung khá toàn diện về hành trình thơ Lưu Quang Vũ, nơi mỗi chặng đường đều in dấu những suy nghĩ, xúc cảm sâu đậm của tác giả và ghi dấu nhiều biến động của lịch sử, xã hội trong những thập niên cuối của thế kỷ 20.
Gió và tình yêu thổi trên đất nước tôi  được chia làm năm phần, theo thứ tự thời gian: Phần 1: Hương cây;  Phần 2: Viết cho em từ cửa biển;  Phần 3:  Đất nước đàn bầu;  Phần 4: Mắt của trời xanh ;  Phần 5: Những đám mây ban sớm.
Hình ảnh “Mây trắng” là một hình ảnh đẹp trong thơ Lưu Quang Vũ từ những vần thơ đầu tiên. Đó là những bài thơ Tình Lưu Quang Vũ viết cho Tố Uyên, chẳng hạn như trong bài Vườn trong phố:
 “Nơi ban đầu lòng ta ươm tổ mật
 Nơi ta hái những chùm thơ thứ nhất
 Nơi thu sang mây trắng vẫn bay về”.
Và đó chính là lý do để Vũ gọi “Mây trắng” là Nàng Thơ của mình, tỏa bóng suốt cuộc đời mình:
“Trên mái nhà, cao vút rừng cây
Trên rừng cây những đám mây xô dạt
Trên ngày tháng, trên cả niềm cay đắng
Thơ tôi là mây trắng của đời tôi”
(Mây trắng của đời tôi)
Lưu Quang Vũ coi Thơ là niềm đam mê lớn nhất trong cuộc đời cầm bút của mình, anh thường nói với bạn bè: “Kịch là công việc, thơ là hồn phách”. Anh làm thơ như một thôi thúc nội tại mãnh liệt, làm thơ như ghi nhật ký, làm thơ ngay cả khi không thể đăng báo hay chia sẻ cùng ai. Để lại một di sản thơ không nhỏ, nhưng sinh thời, Lưu Quang Vũ mới in được nửa tập thơ trong Hương cây - Bếp lửa (in chung cùng Bằng Việt - 1968), hai tập Mây trắng đời tôi (1989) và Bầy ong trong đêm sâu (1993) ra mắt bạn đọc sau khi anh mất. Chính vì vậy, Gió và tình yêu thổi trên đất nước tôi (2010) với hơn 100 thi phẩm có thể xem như tuyển tập thơ Lưu Quang Vũ đầy đủ, công phu và kỹ lưỡng nhất cho đến thời điểm này. Tuyển tập thơ sẽ đem lại cho độc giả hình dung khá toàn diện về hành trình thơ Lưu Quang Vũ, nơi mỗi chặng đường đều in dấu những suy nghĩ, xúc cảm sâu đậm của tác giả và ghi dấu nhiều biến động của lịch sử, xã hội trong những thập niên cuối của thế kỷ 20.
Untitled-1
Đọc Gió và tình yêu thổi trên đất nước tôi ta hình dung được không chỉ số phận của chính nhà thơ mà là số phận của cả dân tộc, đất nước qua trường kỳ lịch sử, có những lúc rực rỡ hào hùng, cũng có cả những năm tháng vật vã khổ đau. Và riêng cuộc đời nhà thơ, dù có không ít tháng ngày u ám, cô đơn, đổ vỡ, có lúc tuyệt vọng... song  “Khổ đau dẫu nhiều tôi chọn niềm vui”, “Để luôn luôn được trở lại với đời” :
                                
Ước chi được hóa thành ngọn gió
Để được ôm trọn vẹn nước non này
Để thổi ấm những đỉnh đèo buốt giá
Để mát rượi những mái nhà nắng lửa
Để luôn luôn được trở lại với đời…
Gió và tình yêu thổi trên đất nước tôi…
(Gió và tình yêu thổi trên đất nước tôi)
Bên cạnh hơn một trăm bài thơ được chia làm năm phần, sắp xếp theo trình tự thời gian, tuyển tập còn bao gồm phần thủ bút của Lưu Quang Vũ trích trong tập Cuốn sách xếp lầm trang. Việc ra mắt một tuyển tập dày dặn, công phu về thơ Lưu Quang Vũ không chỉ là cơ hội để người đọc tìm lại những vần thơ từng một thời được say đắm, đến với những bài thơ còn ít được biết đến, mà hơn thế, đây thực sự còn là dịp để Lưu Quang Vũ được nhìn nhận, và ghi nhận ở một tầm vóc mới, xứng đáng hơn trong nền thơ ca VN hiện đại, bởi cho đến nay mà nói, thơ ca VN hiện đại thời kỳ chống Mỹ - thời kỳ thơ LQV xuất hiện, - không có tên LQV trong đội ngũ các nhà thơ tiêu biểu vốn cùng xuất hiện và cùng lứa tuổi với Lưu Quang Vũ như Phạm Tiến Duật, Nguyễn Duy, Nguyễn Đức Mậu, Thanh Thảo, v.v…
*
Lưu Quang Vũ sinh tại tại Phú Thọ, là con trai nhà viết kịch Lưu Quang Thuận (quê Đà Nẵng) và bà Vũ Thị Khánh, và tuổi thơ sống tại Phú thọ cùng cha mẹ. Khi hòa bình lập lại (1954) gia đình ông chuyển về sống tại Hà Nội. Từ 1965 đến 1970, Vũ nhập ngũ, phục vụ trong quân chủng Phòng không - Không quân. Đây là thời kỳ thơ Lưu Quang Vũ bắt đầu nở rộ. Từ 1970 đến 1978: xuất ngũ và làm đủ mọi nghề để mưu sinh, làm ở Xưởng Cao su Đường sắt do Tạ Đình Đề làm Giám đốc, làm hợp đồng cho NXB Giải phóng, chấm công trong một đội cầu đường, vẽ pa-nô, áp-phích,...Từ 1978 đến 1988: Lưu Quang Vũ làm biên tập viên Tạp chí Sân khấu, bắt đầu sáng tác kịch nói với vở kịch đầu tay Sống mãi tuổi 17, viết lại theo kịch bản của Vũ Duy Kỳ.
Chỉ trong khoảng 10 năm, Vũ đã là tác giả của gần 50 vở kịch và hầu hết các vở kịch của Vũ đều được các đoàn kịch, chèo dựng thành công dưới sự chỉ đạo của nhiều đạo diễn nổi tiếng, đã làm sôi động sân khấu Việt Nam một thời như: Hồn Trương Ba da hàng thịt, Lời thề thứ 9, Bệnh sĩ, Khoảnh khắc và vô tận, Ông không phải bố tôi, Tôi và chúng ta, Tin ở hoa hồng, Nàng Sita, v.v… Vở kịch đầu tay "Sống mãi tuổi 17" được trao tặng Huy chương Vàng Hội diễn sânkhấu năm 1980. Lưu Quang Vũ được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt 2 (năm 2000) về nghệ thuật sân khấu. Tuy được giải thưởng lớn về sân khấu như vậy, nhưng theo như nhiều nhà nghiên cứu văn học, nhiều nhà thơ thì Lưu Quang Vũ là một Thi sĩ đích thực, thơ mới là cái làm nên Lưu Quang Vũ, như nhận định sau của nhà thơ Vũ Quần Phương: “Nhưng đọc hết các bản thảo anh để lại, tôi thấy thơ mới là nơi anh ký thác nhiều nhất và tôi tin nhiều bài thơ của anh sẽ thắng được thời gian. Hình như Lưu Quang Vũ cũng nhận ra điều đó. Anh nói với nhiều bạn bè rằng anh thích được làm thơ hơn cả viết kịch lẫn viết truyện, rằng thành công của thơ thường mang cho anh niềm vui lâu hơn dù nhuận bút tiêu có chóng hết hơn. Cố nhiên với Lưu Quang Vũ hay với chúng ta, không có sự khinh trọng giữa các loại hình nghệ thuật. Ở đây chỉ muốn nói tới cái tạng của anh. Tôi thấy trước sau cốt cách thi sĩ vẫn là nét trội nhất trong tâm hồn anh. Tôi cũng trộm nghĩ, về lâu dài, sự đóng góp của Lưu Quang Vũ về thơ còn lớn hơn về kịch” (Vũ Quần Phương: Đọc thơ Lưu Quang Vũ).
Nhận xét trên của Vũ Quần Phương là đúng và nói “Ðắm đuối đó là một đặc điểm của suốt đời Lưu Quang Vũ” cũng rất đúng và tôi muốn nói thêm cái sự “đắm đuối” ấy không chỉ là “đặc sản” của riêng Lưu Quang Vũ mà là của cả một thế hệ cùng trang lứa khi đó, mà dễ thấy ngay ở Bằng Việt, người “bạn đường” với Lưu Quang Vũ trong tập thơ in chung “Hương cây - Bếp lửa”:
"Lẵng quả thông" trong suối nhạc nhiệm màu
Hay "Chuyến xe đêm" thẫn thờ, mê đắm
Mùi cỏ dại trên cánh đồng xa thẳm
Một bầu trời vĩnh viễn ướp hương hoa…
(Bằng Việt: Nghĩ lại về Pauxtopxki)
Song, khi Vũ Quần Phương nói tiếp : “Gần như cả tập Cuốn sách xếp lầm trang, hai mươi hai bài, đều chưa đăng cả. Mà đây là một tập hay, có lẽ hay nhất trong các tập của Lưu Quang Vũ. Tôi đọc và sửng sốt, đây là một Lưu Quang Vũ khác, một Lưu Quang Vũ mà bạn bè còn ít biết tới. Ở đây anh cô đơn hơn, cay đắng hơn và nhiều ý nghĩ của anh bế tắc quá. Nhưng cũng chính ở đây anh viết thực chân thành, trái tim trần trụi nhoi nhóp đập sau nét chữ mảnh mai như chữ con gái - chưa bao giờ tôi thấy thơ Lưu Quang Vũ chân thành đến tàn nhẫn với chính mình như ở tập này. Anh ghi lên giấy tất cả những gì đã có ở lòng anh, không cần biết những ý tình ấy có phù hợp hay không với thời cuộc. Lưu Quang Vũ không gửi đăng ở đâu. Anh viết cho anh thôi, cho nhu cầu của riêng anh, trước hết. Nhưng chắc chắn anh tin rằng tập thơ sẽ có lúc được xuất bản vì một lý do đơn giản: nó hay, hay vì nó đã diễn đạt tinh vi được một tâm trạng mà tâm trạng đang cảm xúc cao độ những gì mà nó đang sống” - thì tôi thấy không còn đúng nữa. Thứ nhất, cả tập Cuốn sách xếp lầm trang…không thể “là một tập hay, có lẽ hay nhất trong các tập của Lưu Quang Vũ”. Thứ hai, nếu nói nó hay “vì nó đã diễn đạt tinh vi được một tâm trạng mà tâm trạng đang cảm xúc cao độ những gì nó đang sống” , song tâm trạng đó lại “có nhiều ý nghĩ bế tắc”, thì quả là không ổn. Diễn tả tâm trạng cô đơn, bế tắc không phải là sở trường, không phải là cảm hứng chủ đạo trong thơ Lưu Quang Vũ, mà chỉ là một “thời kỳ đen tối” đã trở thành “kỷ niệm buồn” mà chính bản thân Vũ cũng muốn xóa bỏ trong bộ nhớ, đã được Lưu Quang Vũ bộc bạch thành cả một bài thơ:
Tôi chẳng muốn kỷ niệm về tôi là một điệu hát buồn
Bao bài ca xáo trộn trong tôi
Có tiếng khóc của con chim gẫy cánh
Tiếng đau rên của ngôi nhà đổ sập
Tiếng con thuyền không về được bờ quen
Tiếng mưa rơi trên ngọn cỏ yếu mềm…
Như đêm hội này chỉ một lần tôi được hát
Chỉ sống một cuộc đời giữa vô cùng năm tháng
Chỉ một lần gặp bạn, bạn yêu thương
Chẳng muốn kỷ niệm về tôi là một điệu hát buồn
Tôi chọn bài ca của mùa hạ nắng
Tôi chọn bài ca của người gieo hạt
Hôm nay là mầm, mai sẽ thành cây
Khổ đau dẫu nhiều tôi chọn niềm vui
Là suối mát lòng tôi gửi bạn
Một cuộc đời - một bài ca duy nhất
Tôi chẳng muốn điệu hát buồn là kỷ niệm về tôi.
 (Gió và tình yêu thổi trên đất nước tôi)
Về vấn đề “cô đơn, bế tắc” trong thơ Lưu Quang Vũ, về những “bài thơ xé lòng” của Lưu Quang Vũ đã được nhà Phê bình văn học Vương Trí Nhàn đề cập và lý giải khá thấu tình đạt lý trong bài viết “Lưu Quang Vũ và một mảng đời mảng thơ thường bị quên lãng” in trong cuốn “Cây bút, đời người” (NXB Hội Nhà văn, 2007):
“Những phiền toái đã đến với Vũ khá nhanh chóng, những phiền toái do lỡ lầm hư hỏng của chính anh gây ra cũng có, mà do cái ngặt nghèo của hoàn cảnh cũng có. Tôi không nhớ thật rõ, nhưng hình như ngay vào khoảng đầu những năm 70, khi Vũ mới 22-23, trong đầu óc một số chúng tôi, cái hình ảnh mơ mộng của một nhà thơ được ái mộ nơi anh đã nhòa đi gần hết. Thay vào đấy là hình ảnh một kẻ long đong giữa cuộc đời vô định. Những hoang tưởng ngớ ngẩn đã đẩy Vũ đến chỗ vượt ra khỏi những quy định thông thường mà một người làm thơ trẻ phải tuân thủ. Và Vũ bị trả giá đích đáng. Báo chí không in thơ Vũ nữa. Vũ rơi vào tình thế cô độc, hầu như lạc lõng giữa dòng người sôi nổi. Một điều khốn khổ nữa là chính lúc ấy, cái gia đình riêng của Vũ cũng rạn vỡ” ... “Tôi còn nhớ rất rõ cái cảm tưởng nước đôi giày vò bản thân mình khi nghe những bài thơ đó của Vũ: một mặt e ngại, cảm thấy nó đi ngược với tâm trạng chung, cái lạc quan chung nên không cần ai bảo, đã thấy là không phải. Nhưng mặt khác lại thích thú, cảm thấy ở đó có một phần vui buồn của mình nên tìm kiếm vụng trộm, tán thành vụng trộm, thèm muốn trở lại với những dòng thơ đó, như thèm muốn nhìn thấy chính hình ảnh của mình.
…Từ đầu 1970, cuộc sống Hà Nội đã bắt đầu phô ra tất cả cái khó khăn phiền phức mà thời chiến phải có. Thành phố như một người ngấm bệnh…Từ đủ mọi phía, hoài nghi len lỏi tới, những hoài nghi đủ sức làm bủn rủn con người và không cho người ta vững tâm làm việc gì cả. Thơ Vũ bắt lấy những cái đó rất nhanh. Từ hoàn cảnh riêng, Vũ suy ra cả cuộc đời chung và diễn tả những tan nát đổ vỡ với tất cả cái đắm đuối của tuổi trẻ. Chúng tôi đã thử tìm cách chống lại thứ thơ ấy. Chẳng phải là đôi lúc, Vũ đã không khỏi có chút huênh hoang? Đã vay mượn chắp vá? Đã tố cái khốn khó của mình lên? Đã rên rỉ nhiều hơn là kiên nhẫn chịu đựng và dìm nỗi đau của mình trong nước lạnh? Chúng tôi biết cả. Nhưng tận trong thâm tâm, mỗi người vẫn biết là có lòng mình, tâm trạng của mình ở trong những dòng thơ rách xé đó. Vốn xa lạ với mọi thứ giáo huấn, dạy bảo, Vũ không hẳn cố ý làm lây truyền cái nôn nao buồn bã của mình. Nhưng có lẽ chính vì thế mà tiếng kêu của anh càng tội nghiệp. Nó giống như một tiếng nức nở…”.
Và con người bằng xương thịt của Lưu Quang Vũ thì được Vương Trí Nhàn phác họa thật thảm hại: “Nay bước sang tuổi 20 - tuổi hai mươi khốn khổ của tôi ơi / Tuổi tai ương dằng dặc trận mưa dài; trong một bài thơ nào đó, hình như nay đã thất lạc, Vũ viết vậy - bước sang tuổi 20, giờ đây người anh đanh lại, xạm đi, trên nét mặt nhiều khoảng tối u uất. Lúc nào Vũ cũng như đăm chiêu không bằng lòng một điều gì, để rồi khi chịu không được, lại buột ra một câu thật suồng sã, láo lếu...”. Nhưng, cuộc đời không ruồng bỏ mà rất bao dung, bởi Vũ đã có tình bạn và tình yêu - hai thứ tình cảm rất cần đối với Thi sĩ cô đơn: “Còn ở Hà Nội, người bao dung hơn cả, là Nguyễn Lâm. Căn phòng nhỏ của Lâm ở Triệu Việt Vương là nơi Vũ thường xuyên lui tới. Những lúc vui, Vũ đi những đâu đâu, khi buồn quá, lại trở về với Lâm. Lâm có thể nghe Vũ kể đủ chuyện, có thể nghe Vũ chửi bới kêu than, lại có thể lặng đi chờ đợi khi Vũ đờ đẫn không nói gì. Lần ra ga Hàng Cỏ cùng Vũ trong một đêm trời lạnh, đó là Lâm. Ngồi xe xích lô cùng Vũ đi rong, để rồi lại trở về trầm ngâm bên chiếc điếu cày hay chén rượu nhạt, lại cũng là Lâm, ”Lâm rùa” như chúng tôi đã đặt tên. Bao nhiêu ngang ngược của Vũ, Lâm chịu được hết. Trong những năm tháng tơi tả của Vũ, Lâm là hiện thân của sự chứa chấp thông cảm mà Vũ khao khát, nhưng lại thường tự đánh mất. Cố nhiên, nói về thơ Vũ lúc này, còn phải nói về gia đình và những người đàn bà, nơi nương tựa về tâm lý của Vũ, những khi đặc biệt cơ cực. Đó là những chuyện mà ở ta ít có thói quen nói ra công khai, song thật ra, lại liên quan trực tiếp đến nhiều sáng tác cụ thể của các nghệ sĩ nói chung và Lưu Quang Vũ nói riêng. Đọc những bài thơ tình hay nhất của Vũ viết khoảng sau 1970, tôi nhớ tới lời tự thú của Picasso: “Cũng như tất cả các họa sĩ khác, tôi trước tiên là họa sĩ của phụ nữ, và với tôi, phụ nữ trước tiên là một cơ chế của sự đau khổ”.
*
Ở trên, tôi đã nói diễn tả tâm trạng cô đơn, bế tắc không phải là sở trường và cảm hứng chủ đạo của thơ Lưu Quang Vũ mà đó chính là tình yêu và cảm hứng dân tộc, lịch sử. Những bài thơ mà “Con mắt xanh” của nhà phê bình trứ danh Hoài Thanh chọn để giới thiệu Lưu Quang Vũ với Thi đàn lúc đó là những bài Thơ tình, - không phải tình trong mộng mà tình có thực - mối tình của Thi sĩ họ Lưu và “Con chim Vành khuyên” Tố Uyên: Vườn trong phố, Hơi ấm bàn tay…Ta như ngất ngây, say đắm với những vần thơ tuôn trào cuồn cuộn mà đầy nhạc tính và người ta yêu dấu hiện ra rất giản dị mà cũng rất rực rỡ:
Trong thành phố có một vườn cây mát
Trong triệu người có em của ta
Buổi trưa nắng bầy ong đi kiếm mật
Vào vườn rồi ong chẳng nhớ lối ra
Vườn em là nơi đọng gió trời xa
Hoa tím chim kêu bàng thưa lá nắng
Con nhện đi về giăng tơ trắng
Trái tròn căng mập nhựa sinh sôi…
 …………
Dưa hấu bổ ra thơm suốt ngày dài
Em cũng mát lành như trái cây mùa hạ
Nước da nâu và nụ cười bỡ ngỡ
Em như cầu vồng bảy sắc hiện sau mưa
 (Vườn trong phố)
Phút đưa nhau ta chỉ nắm tay mình
Điều chưa nói thì bàn tay đã nói
Mình đi rồi hơi ấm còn ở lại
Còn bồi hồi trong những ngón tay ta.
Như hai dòng sông gặp gỡ đổi phù sa
Nhập luồng nước, hòa nhau màu sắc
Trao cảm thương, hai bàn tay nắm chặt
Nghe máu mẹ cha chuyển giữa mỗi tay mình.
(Hơi ấm bàn tay)
Tình yêu thời đó thật lãng mạn. Những bài thơ tình đó thật là đẹp. Đó cũng là thời của những bài thơ tình nổi tiếng như Hương thầm của Phan Thị Thanh Nhàn, Cuộc chia li màu đỏ của Nguyễn Mỹ…mà các bạn trẻ 8X, 9X bây giờ không thể nào có được!
Song, hầu như Thi sĩ lớn nào cũng gặp khổ đau trong Tình yêu. Mối tình Lưu Quang Vũ và Tố Uyên đã tan vỡ. Bài thơ Từ biệt viết cho Tố Uyên, đó là cả tâm hồn tan nát của Lưu Quang Vũ:
Thôi nhé, em đi
Như một cánh chim bay mất
Phòng anh chẳng có gì ăn được
Chim bay về những mái nhà vui.
Nghĩa gì đâu kỷ niệm tháng năm dài
Lời thương mến nhớ lại thành chua chát
Lòng ta cạn hay đời quá hẹp
Nghĩ cho cùng, nào dám trách chi em.
(Từ biệt)
Dù sao đi nữa, những bài thơ tình viết cho Tố Uyên trong phần Hương cây vẫn là những bài thơ tình hay nhất của Lưu Quang Vũ, đó là những vần thơ có tính chất khai mở của thơ Lưu Quang Vũ. Không hiểu sao, khi in trong Tập Gió và tình yêu thổi trên đất nước tôi này, những lời đề tặng Tố Uyên lại bị xóa đi?
*
Trong cuộc Tọa đàm về Thơ Lưu Quang Vũ vừa rồi, nhà thơ Anh Ngọc có nhận xét :Chất thơ của Lưu Quang Vũ có nhiều tự sự, lời thơ, câu chữ rất mềm và trong sáng. Thứ hấp dẫn dài lâu với độc giả chính là chiều sâu suy tư và nhạc tính của những câu thơ. "Thơ nằm giữa văn học và âm nhạc, nên thơ cần được đọc lên. Thơ Vũ là loại thơ như thế". Cũng theo Anh Ngọc, "Lưu Quang Vũ là nhà thơ cổ điển ngay ở lứa tuổi 20" với những vần thơ giàu tính chiêm nghiệm và một cách vô tình, giàu chất triết lý. “Cổ điển ngay ở lứa tuổi hai mươi” mà Anh Ngọc nhận xét về thơ Lưu Quang Vũ chính là cảm hứng dân tộc, lịch sử, đất nước trong thơ Lưu Quang Vũ. Cái cảm hứng thi ca “già trước tuổi” này ta đã thấy trong Thơ Mới với Huy Thông, Chế Lan Viên, Huy Cận…khi cũng đang ở “Tuổi đôi mươi” như Lưu Quang Vũ. Có thể nói cảm hứng dân tộc, lịch sử, đất nước là cảm hứng chủ đạo trong thơ Lưu Quang Vũ, là thiên phú bẩm sinh của Lưu Quang Vũ. Những bài thơ Lưu Quang Vũ viết từ “cảm hứng lịch sử, dân tộc, đất nước” cứ như những dòng sông cuộn chảy với những thác ghềnh ở thượng nguồn, những cánh đồng lúc thì mát xanh lúc thì vàng rực nơi bình nguyên, và trong những âm thanh réo sôi, cuồn cuộn đó, ta nghe thấy bước chân của con người, ra đi từ thuở hồng hoang cho tới hôm nay:
Đi dọc một triền sông
Những chiếc trống đồng vùi trong cát
Những mảnh bình vỡ nát
Những mũi tên lăn lóc
Khắp đồi núi hoang vu
Những rìu đá cổ sơ những hang động khổng lồ
Những đống lửa còn tro tàn sót lại.
Đi tìm lại thời gian đã mất
Thuở biển cả điên cuồng gầm thét
Những con chim lạc mỏ dài
Bay qua vầng trăng lớn
Cánh sừng sững tắm hoàng hôn đỏ rực
Cất tiếng kêu hoang dại dưới đêm nồng.
Đi tìm lại những bông hoa xanh biếc
Những rễ cây quằn quại
Những ngà voi nhọn hoắt
Những tiếng hú dài ào ạt mưa rơi
Tôi đi tìm dòng máu của tôi
Hơi thở đầu sôi sục của tôi
Trong cuồn cuộn những ngực trần đen bóng
Những bộ lạc mình vẽ đầy rồng rắn
Quần hôn trên bờ bãi sông Hồng
Những mái tóc dài bay gió biển Đông
Những mái lá có bùi nhùi giữ lửa
Những người đàn bà tết cỏ cây che vú
Đã ngọt ngào dòng sữa
Điệu ru con đầu tiên
Bức tranh đầu tiên khắc mặt người lên đá
Điệu múa đầu tiên theo nhịp thuyền.
(Đất nước đàn bầu)
Nếu có câu “Thi trung hữu họa” thì chính là cảm hứng dân tộc, lịch sử, đất nước trong thơ Lưu Quang Vũ. Nếu nói “Thi trung hữu nhạc” thì chính là cảm xúc Tình Yêu trong thơ Lưu Quang Vũ…(*). Chính những bài Thơ Tình của Lưu Quang Vũ khiến thơ Vũ trẻ mãi không già và “Sống mãi tuổi 17”! Chính vì thế, tôi vẫn thấy những những câu thơ ở thời “Mối tình đầu” của Lưu Quang Vũ mới thật là ấn tượng:
Nơi lá chuối che nghiêng như một cánh buồm
Cánh buồm xanh đi về trong hạnh phúc
Se sẽ chứ không cánh buồm bay mất
Qua dịu dàng ẩm ướt của làn môi…
 (Vườn trong phố)
Sài Gòn, tháng 9-2010
Đỗ Ngọc Thạch.
 nguồn: nguoibanduong.net


Giải thưởng Hội Nhà văn Hà Nội 2010 đã trao giải “Thành tựu trọn đời về Thơ” cho Tuyển thơ Gió và Tình yêu thổi trên đất nước tôi (NXB Hội Nhà văn và Nhã Nam hợp tác xuất bản, H.2010) của cố thi sĩ Lưu Quang Vũ (1948-1988). Gió và tình yêu thổi trên đất nước tôi (2010) với hơn 100 thi phẩm có thể xem như tuyển tập thơ Lưu Quang Vũ đầy đủ, công phu và kỹ lưỡng nhất cho đến thời điểm này. Tuyển tập thơ sẽ đem lại cho độc giả hình dung khá toàn diện về hành trình thơ Lưu Quang Vũ, nơi mỗi chặng đường đều in dấu những suy nghĩ, xúc cảm sâu đậm của tác giả và ghi dấu nhiều biến động của lịch sử, xã hội trong những thập niên cuối của thế kỷ 20.
Xem chi tiết





... ít ai nhớ tới chị Tố Uyên, người vợ đầu của nhà thơ Lưu Quang Vũ. Hai người đã có chung một đứa con trai, cháu Lưu Minh Vũ, hiện là một MC  trên màn ảnh nhỏ VTV.

Người con gái sông La; Chuyện tình Sơn Nữ - Đỗ Ngọc Thạch

NGƯỜI CON GÁI SÔNG LA
Truyện ngắn Đỗ Ngọc Thạch

1. 
Người con gái sông La / Đôi mắt trong tựa ngọc…” – đó là lời mở đầu bài hát Người con gái sông La, hát về những cô gái Thanh niên xung phong (TNXP) của tỉnh Hà Tĩnh trên chiến trường Khu Bốn, cụ thể là ở Ngã ba Đồng Lộc, đầy mưa bom, bão đạn những năm tháng chiến tranh chống Mỹ cứu nước. Những cô gái TNXP đó cùng lứa tuổi với tôi và đúng vào thời kỳ không quân Mỹ tập trung đánh phá Khu Bốn thì đơn vị Ra-đa của tôi cũng chiến đấu ở chiến trường khu Bốn này. Chỉ riêng hai điều đó đã khiến cho tôi không thể quên được vùng đất này, huống chi “…trong từng nắm đất / có một phần xương thịt của Em tôi…”- EM TÔI  ở đây chính là O Việt!... 
Ngay hôm đầu tiên gặp O Việt, tôi hỏi em tên gì, nhà ở đâu thì em cứ hát hoài câu hát Người con gái sông La… Vì thế tôi đành gọi em là Người con gái sông La 
*
Nơi đóng quân  để làm nhiệm vụ của Đơn vị Ra-đa chúng tôi gọi là Trận địa Ra-đa, cũng na ná như trận địa pháo phòng không (hoặc còn gọi là Cao xạ pháo), máy móc, khí tài được đặt trong những ụ đất cao bốn, năm mét, còn giàn Ăng-ten thì đặt trên một gò đất cao. Khi từ Nghệ An hành quân vào Hà Tĩnh, đơn vị Ra-đa chúng tôi đóng quân ở Can Lộc, tận dụng một gò đất cao tự nhiên, chỉ việc san lấp mặt bằng trên đỉnh gò một ngày là có thể kéo máy lên. Nhưng khi làm trận địa Ra-đa ở  xã Đức Thanh, huyện Đức Thọ thì tốn khá nhiều công sức: chỗ chọn làm trận  địa chỉ là bãi đất rộng đầu làng, vốn là khu trồng khoai, đậu nên địa hình bằng phẳng, toàn bộ bốn ụ đất hình chữ U để một xe hiện sóng, một xe đối không (dùng để liên lạc trực tiếp với máy bay ta), hai xe máy phát điện và một gò đất cao năm mét để đặt giàn Ăng-ten (lưới phản xạ) đều phải dùng sức người, tức lực lượng TNXP của huyện Đức Thọ. Đại đội phó Tấn đã chọn tôi làm “trợ lý” để thực hiện thi công trận địa này. 
Lực lượng TNXP giúp chúng tôi đào đắp trận địa đều của huyện Đức Thọ. Nếu không đi khắp làng quê Việt Nam những năm chiến tranh chống Mỹ thì sẽ không thể hình dung nổi lực lượng TNXP lại hầu hết là nữ. Gần 100 cô gái làm trận địa Ra-đa cho chúng tôi lúc này đều là nữ. Có ba đặc điểm làm tôi hết sức bất ngờ, đó là: 1/ Các cô gái đều đã học xong PTTH; 2/ Các cô gái đều có mái tóc dài thướt tha; và 3/ Các cô gái đều rất giỏi ca hát, giỏi đối đáp và nói chung là đều xinh đẹp tuyệt vời! Không khí làm việc sôi động không kém gì trên công trường Đại thủy nông Bắc-Hưng-Hải ở ngoài Bắc ngày trước! Như chúng ta đã biết, hát, hò đối đáp là phải “có nam có nữ mới nên vần nên điệu”, nhưng ở đây tất cả chỉ có tôi và đại đội phó là nam. Vì thế chúng tôi phải “dùng hết công suất” mà vẫn không đối đáp kịp. Rất may là có hai cô gái đã tới trợ giúp tôi và đại đội phó. Thường là nghĩ ngay ra lời đối đáp và đọc cho chúng tôi hò, khi thấy chúng tôi có vẻ sắp “đuối sức” thì hò giúp luôn! Hai cô gái trợ giúp có tên gọi là O Thanh và O Việt… 
Thông thường, mỗi trận địa làm trên địa hình bằng phẳng như thế này, với khoảng năm chục người, thì một tháng là xong. Đại đội phó muốn rút ngắn thời gian nên đã xin tăng gần gấp đôi số người, nhưng do thời kỳ này, máy bay Mỹ thường xuyên bắn  phá bến phà Linh Cảm, Ngã ba Đồng Lộc nên bay qua khu vực trận địa đang làm. Nên mỗi khi có máy bay bay qua, toàn bộ lực lượng đang làm trận địa phải tản ra tránh bom. Cứ cò cưa như vậy mất khá nhiều thời gian…Vì thế, một tháng trôi qua mà trận địa vẫn chưa hoàn thành...Đúng lúc đó lại có lệnh từ Trung đoàn phải cơ động di chuyển trận địa, đại đội trưởng đích thân tới thị sát tình hình. Hai thủ trưởng bàn tính mãi mới đưa ra kết luận: nhanh nhất cũng phải bốn ngày mới xong trận địa, nhanh hơn tính toán trước của đại đội phó là hai ngày! Tuy nhiên, đó mới chỉ là ước tính! Tôi chỉ ngồi nghe các thủ trưởng bàn tính mà không dám có ý kiến gì, ngồi suy nghĩ về câu truyện Tấm Cám trong Kho tàng Truyện cổ tích Việt Nam, khi cô Tấm ngồi khóc bên đống gạo trộn lẫn với thóc, tôi vụt nghĩ: nếu huy động được “Đàn chim sẻ” của ông Bụt đến chuyển đất từ dưới ruộng lên gò thì chỉ trong chớp mắt ta sẽ có ngay một gò đất cao để đặt giàn Ăng-ten lưới phản xạ! Tôi đang mơ màng với Cô Tấm và đàn chim sẻ thì đại đội trưởng vỗ vai tôi, nói: “Anh chàng lính sinh viên này có mưu kế gì không? Nghĩ đi, sẽ trọng thưởng bằng ba ngày “tranh thủ” về nhà!” Đối với lính tráng chúng tôi thời đó, được “tranh thủ” về nhà là phần thưởng lớn nhất! Vì thế, tôi nhận lời với đại đội trưởng sẽ có kế sách để rút ngắn thời gian hoàn thành trận địa.
Tôi đi tìm O Việt, tính nhờ O Việt huy động lực lượng thiếu niên trong xã. Khi tôi nói với O Việt về tình hình khẩn cấp của việc hoàn thành trận địa và ý định của mình, O Việt ủng hộ ngay và nói: “Anh tìm đúng người rồi đó. Năm ngoái em làm cán bộ Huyện Đoàn, phụ trách công tác Đội Thiếu niên, em có thể huy động lực lượng Thiếu niên cả huyện tới tham gia làm trận địa! Nhưng anh phải hứa sẽ giúp em một việc!”. Tôi nói ngay:”Một việc chứ trăm ngàn việc tôi cũng sẵn sàng! O Việt nói đi!” O Việt lưỡng lự một phút rồi nói: “Thôi để làm trận địa xong em sẽ nói!”…
Ngay ngày hôm sau, O Việt đã đến các xã lân cận và chỉ sau một ngày, đã huy động được hơn 100 học sinh thiếu niên tới và chỉ sau một ngày làm việc, trận địa Ra-đa của chúng tôi đã hoàn thành, trước thời gian dự kiến hai ngày! Tôi đi tìm O Việt để hỏi xem cái việc O định nhờ tôi là gì thì mới được biết O Việt cùng một tiểu đội TNXP đã được lệnh tăng cường cho khu vực Ngã Ba Đồng Lộc! Tôi bồn chồn không yên bởi đó đang là điểm đánh phá ác liệt!... 
2. 
Ngày hôm sau, đại đội Ra-đa của chúng tôi đã cơ động đến trận địa mới, xe máy, khí tài, giàn Ăng-ten … đều được đưa vào đúng vị trí không sai một li! Cũng phải thầm cám ơn Ông Trời vì không mưa gió, nếu không sẽ cực kỳ khó khăn vất vả khi triển khai máy móc, khí tài dưới trời mưa, đất bùn trơn trượt!...
Khi Trung đoàn ra lệnh mở máy chiến đấu thì tất cả đã ở tư thế sẵn sàng! Đại đội trưởng gọi tôi lên Ban Chỉ huy Đại Đội, nói: “Đúng như lời hứa, cậu sẽ được đi “tranh thủ” ba ngày! Chúc thượng lộ bình an!”. Tôi chạy về Trung đội, đã thấy Tiểu đội trưởng cầm cái ba-lô cóc của tôi đi tới đón đầu tôi và nói: “Thủ trưởng Đại đội đã báo cho cậu được đi “tranh thủ” ba ngày. Ba-lô quần áo, lương khô và có cả năm cái thư của mọi người nhờ đem về Hà Nội rồi bỏ vào thùng thư Bưu Điện cho nhanh! Đi ngay xuống nhà bếp vì có xe đi lấy gạo, có thể quá giang một đoạn!” Tôi chạy ngay xuống nhà bếp Đại đội, thấy Quản lý Mại đã ngồi trên ca-bin cái xe “gát” cà khổ, dơ tay ngoắc tôi nhanh lên! Khi tôi trèo lên thùng xe đã thấy Tiểu đội trưởng Anh nuôi Sùng và chiến sĩ nuôi quân Khang ngồi đó. TĐT Sùng đưa tôi đưa tôi cái bao tải buộc túm một đầu và nói: “Đây là tiêu chuẩn ăn ba ngày của cậu. Tớ tặng thêm cho cậu một lon thịt hộp, một lon sữa và một gói lương khô! Nhớ có quà Hà Nội nhé, tốt nhất là đem vào cho tớ một chai rượu Làng Vân!...” Tôi nói chắc như đinh đóng cột: “Nhất định là ông anh sẽ có rượu Làng Vân! Còn chiến hữu Khang, thích cái gì?” Khang không nói gì, tưởng anh ta đang “lựa chọn sở thích” tôi lại hỏi, thì Khang nói cụt lủn: “Thích về nhà với vợ! Hỏi nữa không?” Tôi giật mình và thấy như mình có lỗi với anh ta!...
Xe tới Thành phố Vinh thì Quản lý Mại nói: “Xe phải dừng ở đây rồi! Cậu đi kiếm cái xe khác nhé! Chúc may mắn!” Tôi tạm biệt mọi người rồi nhảy xuống đường. Tôi thoáng nghĩ, đứng ở đây vẫy xe không biết đến bao giờ, chi bằng vào Ga Vinh chờ tàu chắc chắn hơn. Tôi vừa đi được dăm bước thì có một chiếc “Zin 3 cầu” đi sát vào tôi, người ngồi ở ca-bin vỗ vào cánh cửa rầm rầm rồi nói: “Có đi Ngã Ba Đồng Lộc thăm người yêu không thì lên xe!” Vừa nghe thấy hai chữ “Đồng Lộc”, tôi vụt nghĩ ngay đến O Việt và không kịp suy nghĩ gì, dơ tay ra hiệu có đi nhờ và khi chiếc “Zin 3 cầu” đi chầm chậm sát bên tôi thì tôi bám thành xe nhảy lên thùng xe! Khi xe chạy được ba phút, tôi mới nhận ra mình đang đi ngược lại lúc nãy, tức về hướng Nam!... 
3. 
Tới Ngã Ba Đồng Lộc thì trời sập tối, nhưng tôi vẫn nhìn rõ con đường ngổn ngang đất đá, nham nhở những hố bom đang lấp dở. Và điều rất dễ nhận ra là cái mùi khét nồng, có cảm giác như sẽ ngạt thở - đó là cái “Mùi chiến trường” rất đặc trưng chỉ ở những nơi “Mưa bom bão đạn” hàng ngày mới có!... Trên con đường ngổn ngang, nham nhở và khét nồng đó, từng tốp, từng tốp các cô gái TNXP đang cặm cụi làm việc!...
Chưa có lệnh thông đường, chiếc Zin 3 cầu dừng lại trước một cô gái TNXP, một tay đang cầm một lá cờ trắng, là cho xe đi qua, một tay đang cầm một lá cờ đỏ, là để dừng xe lại. Người chiến sĩ lái xe nhảy xuống đất, chạy lại chỗ cô gái TNXP cầm cờ, hai người nói chuyện líu ríu, chốc chốc lại cười rúc rích! Tôi cũng nhảy xuống đất, vừa vặn có một cô gái TNXP đi tới. Tôi tóm lấy hỏi ngay O Việt ở đâu. Cô gái nhìn nhanh tôi từ đầu đến chân rồi nói rất nhanh: “O Việt mới bị thương lúc xế chiều, vết thương rất nặng, hiện đang nằm ở Bệnh viện dã chiến! Anh có đến gặp O Việt thì đến nhanh lên!”… 
Theo chỉ dẫn của cô gái TNXP, tôi chạy một mạch đến Bệnh viện dã chiến. Phải  chạy gần nửa tiếng tôi mới tới Bệnh viện. Tìm được O Việt rất nhanh, nhưng O Việt đang nằm bất động, hơi thở yếu ớt, mắt nhắm hờ. Cô Y tá nói với tôi: “O Việt này bị thương rất nặng, khó mà qua khỏi đêm nay!” Nhưng cô Y tá vừa nói đến đó thì O Việt từ từ mở mắt, nhìn thấy tôi thì mắt O như có đốm sáng bừng lên, đôi môi khô nẻ khẽ mỉm cười và thật kỳ lạ, khuôn mặt trắng bệch bỗng ửng hồng, rạng rỡ. Và O Việt bỗng cất tiếng nói, tuy rất nhỏ nhưng tôi nghe rất rõ: “Cái Lan, cái Thanh học cùng lớp em đã có giấy báo vào Đại học, mà em vẫn chưa có…Nhờ anh ra Hà Nội đến Bộ Đại học hỏi giùm em và nếu có thì cầm vào cho em!...” O Việt ngừng nói, mắt lại nhắm hờ! A, thì ra cái việc mà O Việt định nhờ tôi chính là cái giấy báo gọi vào đại học! Tôi nắm nhẹ bàn tay O Việt như có ý muốn nói, tôi sẽ đi hỏi ngay! O Việt khẽ bóp tay tôi như đặt vào tôi niềm  tin mạnh mẽ!... 
Tôi thoáng nghĩ, giấy báo gọi vào Đại học gửi về các địa phương thường nằm ở văn phòng Ủy  ban xã. Ta hãy đến Văn phòng Ủy ban xã hỏi đã rồi ra Hà Nội cũng chưa muộn! Nghĩ vậy, tôi dặn cô Y tá trực canh chừng O Việt rồi chạy vút đi. Rất may là từ bé tôi đã thường xuyên chạy trên vùng đồi mênh mông quê tôi và từ hồi nhập ngũ, sáng nào lính tráng chúng tôi cũng phải chạy “có vũ trang” nửa tiếng cho nên chẳng mấy chốc tôi đã chạy tới nhà ông chủ tịch Xã của O Việt. Lúc đó đã nửa đêm, ông chủ tịch xã bị tôi dựng dậy thì cằn nhằn vài câu, nhưng khi nghe tôi nói tình trạng nguy kịch của O Việt, ông lo lắng và xem chừng rất xúc động, ông dẫn tôi đến ngay văn phòng Ủy Ban, vừa đi vừa “thanh minh thanh nga”: Xã thiếu lực lượng cán bộ trẻ nên có chủ trương giữ một số người có giấy gọi Đại học lại, dự tính hết chiến tranh sẽ cho đi học “bù”. Tôi bảo: “Sao không nói thẳng yêu cầu của xã?” Ông chủ tịch xã ấp úng rồi nói: “Nếu nói thật yêu cầu của xã thì chẳng ai chịu ở lại cả. Vùng chúng tôi là “Đất hiếu học” mà. Có giấy gọi trong tay là họ bay đi luôn!”. “Tôi thật không hiểu tại sao các ông phải dùng cách “nói dối” như thế! – tôi la lên và chạy vọt lên trước.
Chưa hết câu chuyện “nói dối, nói thật” thì chúng tôi đã tới trụ sở Ủy ban Xã. Chỉ trong ba phút, ông chủ tịch xã đã tìm thấy cái giấy gọi vào Trường Đại học Y dược Hà Nội của O Việt. Vừa cầm tờ giấy, tôi đã phóng vút đi… 
Khi tôi về tới phòng bệnh, cô Y tá đang ngồi ngủ gà ngủ gật bỗng giật mình hoảng hốt bởi tôi đã reo lên rất to: “O Việt!... Giấy gọi vào Đại học của O đây rồi!” Hình như tiếng reo to của tôi đã đánh thức O Việt. Lần này, O Việt mở mắt ra rất nhanh và ánh mắt có vẻ linh hoạt gần như thường ngày, O nói với tôi chậm rãi nhưng tiếng nói to và rõ hơn ban nãy: “Anh đọc hết nội dung cái giấy gọi vào Đại học lên cho em nghe đi nào!”. O Việt nói rồi ra hiệu cho cô Y tá đỡ mình ngồi dậy, nhìn tôi ngóng đợi. Tôi thấy bỏng rát trong cổ, chắc phải chạy đi chạy lại quá nhiều. Sau khi uống hết một bát nước đầy, tôi hắng giọng và đọc từ những dòng chữ đầu tiên. Khi đọc đến bốn chữ Phan Lê Lạc Việt, tôi thấy từ hai con mắt O Việt hai dòng nước trong vắt nhẹ nhàng chảy ra, lăn qua gò má chảy xuống đôi môi tím tái và bỗng làm cho đôi môi trở lại mọng ướt như không hề bị thương. Cô Y tá hình như bị lây truyền nên cũng nước mắt ràn rụa. Còn tôi, nhìn những dòng chữ như nhìn qua sương mù, và khi đến dòng cuối cùng, tức chỗ ghi “Ngày…tháng…năm…” thì tôi không nhìn thấy gì nữa. Tôi vội dụi mắt và nhìn vào khuôn mặt rực sáng của O Việt thì bàng hoàng, chân tay rụng rời bởi đôi mắt của O Việt đã khép lại vĩnh viễn, duy chỉ có đôi môi là vẫn mọng ướt và còn vương lại nụ cười của người trinh nữ!... 
4. 
Tôi cùng tiểu đội TNXP của O Việt lo tang lễ cho O Việt xong thì đã sang nửa ngày “tranh thủ” thứ hai, làm sao đủ thời gian mà đi ra tới Hà Nội nữa? Tôi đang lúi húi trồng thêm xung quanh nấm mộ của O Việt mấy khóm hoa sim thì bỗng nghe văng vẳng tiếng hát từ đâu vọng tới: Người con gái sông La / Đôi mắt trong tựa ngọc… Lời bài ca như có sức thôi miên kỳ lạ! Tôi đi như chạy ra bờ sông… Không biết tôi có nhảy xuống sông bơi qua bơi lại một vòng như mọi khi hay không nhưng khi tôi về tới đơn vị thì Đại đội phó ôm chầm lấy tôi mà nói: “Cứ tưởng cậu đang ngồi ăn kem ở  Nhà Thủy Tạ Hồ Gươm rồi chứ, ai ngờ lại thi bơi vượt sông La!...Cậu trở lại rất đúng lúc! Tớ vừa nhận được lệnh đi làm một trận địa Ra-đa nữa ở huyện Thạch Hà, chưa biết lấy ai làm “trợ lý” và chọn chỗ nào ở huyện Thạch Hà? Lại chọn cậu thì sẽ rất tốt vì tên của huyện có một chữ trùng với tên cậu?”… Người lính chúng tôi không được lựa chọn công việc mà ngàn lẻ một công việc nó đã chọn người lính chúng tôi! Vì thế tôi lại đi theo đại đội phó làm một trận địa mới!... 
Sài Gòn, 2008-2009
Đỗ Ngọc Thạch

Anh hùng La Thị Tám lúc ở Ngã ba Đồng Lộc năm 1968 - 1972
Nguồn ảnh: Internet

Chuyện tình Sơn Nữ

Truyện ngắn Đỗ Ngọc Thạch

Tính năng của máy Ra-đa là có thể phát hiện mục tiêu máy bay địch từ xa, ở khoảng cách tới bốn, năm trăm ki-lô-mét. Càng ngày, khoảng cách này càng được nối dài. Vì thế Ra-đa được gọi là “Mắt Thần”, giống như vị Thần có con mắt nhìn xa ngàn dặm trên Thiên Đình gọi là “Thiên Lý Nhãn”. Tuy nhiên, Ra-đa cũng có “Gót chân A-sin”, tức là trong vòng bán kính khoảng mười ki-lô-mét tính từ chỗ đặt máy, mục tiêu lẫn vào “sóng cố định” dày đặc nên không thể nhận ra được. Lợi dụng “Gót chân A-sin” đó của máy Ra-đa, máy bay địch cố gắng bay rất thấp, khi qua những vùng địa hình có núi cao thì luồn lách qua những khe núi (muốn bay như thế, phi công phải là những cao thủ), khi máy bay địch bay như thế, sóng phản xạ có hiện về nhưng lẫn vào đám sóng cố định nên không thể nhận ra!...

Để khắc phục “Gót chân A-sin” của Ra-đa Mắt Thần, những Đài quan sát bằng mắt thường đã được thành lập và bố trí xen kẽ với những Đài Ra-đa Mắt Thần, kịp thời bổ khuyết đường bay của máy bay địch để Sở Chỉ Huy của Lực lượng Phòng Không – Không quân theo dõi mục tiêu được liên tục và có đối sách kịp thời. Những Đài quan sát bằng mắt thường của chúng ta đã góp một phần không nhỏ vào chiến thắng của bộ đội Phòng Không – Không quân trong cuộc chiến Chống chiến tranh phá hoại bằng Không quân của Không lực Hoa Kỳ trong những năm tháng chống Mỹ hào hùng!...

                                                                                                         *

Đài Quan sát bằng mắt thường (từ đây gọi tắt là Đài quan sát – ĐQS) được biên chế thành một Tiểu đội, trực thuộc Sở Chỉ huy . ĐQS của Tiểu đội Trưởng Lê Nhãn có biệt danh là Thiên Lý, đóng “Đại bản doanh” trên một ngọn núi, chỉ cao chưa tới một ngàn mét nhưng có cái tên rất hay là Chim Ưng, vì thế, trong liên lạc thì dùng biệt danh Thiên Lý, còn trong ngôn ngữ đời thường thì gọi là Chim Ưng. Tiểu đội Trưởng Nhãn rất thích loài Chim Ưng nên anh đã nuôi được một tổ Chim Ưng trên núi.

Tiểu đội của ĐQS gồm có bảy người, ba người thay nhau trực 24/24 trên Đài Quan sát, hai người lo nhiệm vụ thông tin, liên lạc thông suốt và hai người lo nuôi quân “ăn no đánh thắng”!

Lực lượng “Hỏa đầu quân” trong quân đội chúng ta được gọi là Chiến sĩ nuôi quân, hay gọi tắt bằng cách gọi thân mật là Anh nuôi, để phân biệt với những Chiến sĩ nuôi quân gái là Chị Nuôi. Đi bộ đội, thường là chẳng ai thích làm Anh nuôi và lực lượng này thường được xếp vào bảng danh mục dưới cái tên chung là Hậu cần, để phân biệt với những đội quân xung kích chuyên lãnh ấn Tiên phong mỗi khi đánh trận!…

Hai Anh nuôi của Tiểu đội ĐQS là nhân vật chính của Truyện ngắn này và không hiểu tại sao lại là anh em sinh đôi, được bố mẹ đặt tên cho trái ngược nhau là Thủy và Hỏa, nhưng họ lại chẳng hề xung khắc với nhau như Nước với Lửa – như tên gọi của họ -, mà ngay từ nhỏ, họ đã luôn gắn bó với nhau như hình với bóng! Một điểm đặc biệt nữa của hai Anh nuôi là họ đều “không cao”, chỉ đúng một mét rưỡi! Và đặc điểm “không cao” này không chỉ của hai anh em Thủy và Hỏa mà là của cả Tiểu đội ĐQS! Tuy chưa phải là người lùn “Mét Mốt” – chiều cao chuẩn phổ biến của người Lùn trên toàn thế giới, - nhưng khi nhìn cả bảy người của Tiểu đội ĐQS đứng cạnh nhau thì người ta nghĩ ngay đến câu chuyện cổ tích “Nàng Bạch Tuyết và Bảy Chú Lùn”! Nhưng người nói ý nghĩ ấy ra thành lời chính là Tham Mưu Trưởng Trung Đoàn khi đến thăm Đài quan sát của “Bảy Chú Lùn”. Lúc ấy Tham Mưu Trưởng nói: “Phải chi có Nàng Bạch Tuyết đến đây thì chúng ta có được câu chuyện Cổ tích “Nàng Bạch Tuyết và Bảy Chú Lùn” thời hiện đại!”. Nghe Tham Mưu trưởng nói vậy, Anh nuôi Thủy ngập ngừng, nói: “Báo cáo Thủ trưởng, nếu chúng em tìm được Nàng Bạch Tuyết thì Thủ trưởng có cho ở trên núi này với chúng em không?”. Tham Mưu Trưởng cười lớn: “Nếu có cô gái nào tình nguyện làm Nàng Bạch Tuyết thì tôi sẽ ký quyết định cả hai tay, biên chế cô ta vào thành viên chính thức với nhiệm vụ Y tá!”. Tức thì Anh nuôi Hỏa nói nhanh: “Quân tử nhất ngôn, tứ mã nan truy, Thủ trưởng nhớ nhé!” Tham Mưu trưởng lại cười lớn, nhưng nhìn kỹ vào hai con mắt thâm quầng của ông, người ta thấy ươn ướt!... “Ở nơi núi cao rừng sâu này thì làm sao có cô gái nào dám mạo hiểm leo núi? Nếu là truyện Liêu Trai thì sẽ là Hồ Ly tinh mà thôi!...” – Tham Mưu Trưởng thoáng nghĩ và cảm thấy ớn lạnh nơi sống lưng!...

                                                                                              *

Vì sao Anh nuôi Hỏa lại nói với Tham Mưu Trưởng như vậy? Bởi vì ngay từ khi mới lên núi làm nhiệm vụ, lúc đi dạo quanh đoạn đường dưới chân núi, Cả Thủy và Hỏa đã gặp cô Sơn Nữ đang đi hái lá thuốc và sau khi làm quen, cô nói sẽ có ngày lên núi thăm Tiểu đội ĐQS. Thủy và Hỏa tưởng là cô Sơn Nữ nói vui miệng nên không nhớ đến câu nói đó, tức không hề có sự chuẩn bị đón khách! Vì thế, chỉ ba ngày sau, hai Anh nuôi đang đi cõng nước (từ lưng chừng núi lên đỉnh núi, gần năm trăm mét) thì bất ngờ gặp cô Sơn Nữ ở đúng nơi có mạch nước!

Nhìn bộ dạng lúng túng của hai anh chàng Cửu Vạn (khi đi cõng nước, nước đựng trong cái can bằng sắt, vốn để đựng xăng, loại 20 lít, rất nặng và phải leo lên từng bậc đá …nên “trang phục” phải gọn gàng như Đô Vật, tức chỉ mặc cái quần đùi), cô Sơn Nữ cười rúc rích một hồi rồi nói: “Hai anh sao không mời em lên núi chơi mà cứ gãi đầu gãi tai hoài như thế?” Thủy nói: “Tại…chúng tôi mắc cỡ quá!...Bây giờ cô đứng đây chờ tôi vác cái can nước này lên núi rồi quay lại đón cô nhé!” Hỏa nói thêm: “Đúng đấy! Để chúng tôi về báo cho mọi người chuẩn bị để đón tiếp cô thật đàng hoàng!”. Cô Sơn Nữ không cười nữa mà nói: “Các anh chỉ vẽ chuyện. Ngọn núi này em vẫn thường lên hái cây thuốc, từ ngày các anh tới thì em chưa lên mà thôi! Hôm nay em muốn lên giới thiệu với các anh vườn thuốc của em ở trên đỉnh núi! Tức như là em về nhà mình, bây giờ là nhà của chúng ta!” Nói rồi cô Sơn Nữ leo lên những bậc đá nhanh thoăn thoắt, khiến cho hai anh nuôi tròn mắt ngạc nhiên!

Cuộc đón tiếp cô Sơn Nữ trên đỉnh núi Chim Ưng được coi như là một sự kiện trọng đại của Đài Quan Sát. Cô Sơn Nữ còn hứa là sẽ rủ rê thêm các cô bạn nữa thường xuyên lên núi chơi, nhân tiện vận chuyển giúp Đài Quan Sát một số lương thực, thực phẩm…từ chân núi lên đỉnh núi.

                                                                                                           *

Từ khi có cô Sơn Nữ lên đỉnh núi thăm Đài Quan Sát, hai anh em Thủy và Hỏa bàn với nhau: Cứ tưởng bảy người lính chúng ta như là bị giam lỏng ở đây, sẽ chết già trong cô đơn hoang vu! Ai ngờ có cô Sơn Nữ xinh đẹp như Tiên Nữ giáng trần tới thăm, và sẽ còn cùng với các Nàng Tiên khác tới nữa. Như vậy, chúng ta phải làm cho nơi rừng núi hoang vu này biến thành chốn Bồng lai Tiên cảnh, thì mới gọi là đáp lại thiện cảm của các Nàng Tiên! Thế là ngày ngày, hai anh em Anh nuôi Thủy và Hỏa đi lấy các loại cây giống của các loại cây Đào Hoa, Đào Quả, Mận, Mơ, Mai, và rất nhiều loại hoa đem trồng trên đỉnh núi. Trên đỉnh núi trồng kín rồi thì lan dần xuống các triền núi!...

Công việc trồng cây, trồng hoa của hai anh em Anh nuôi Thủy và Hỏa nó cũng âm thầm, bền bỉ như công việc quan sát bầu trời, phát hiện mục tiêu máy bay của Đài Quan Sát. Ở Sở Chỉ huy, các sĩ quan Tham mưu và đặc biệt là Tham mưu trưởng vẫn ngày ngày đều đặn nhận được những số liệu về đường bay của máy bay địch ở khu vực hoạt động của Đài Quan Sát Thiên Lý. Cũng như vậy, trên đỉnh núi Chim Ưng, những mầm sống của cây Đào, cây Mai, cây Mận…vẫn ngày ngày phát triển. Và đến lúc cả đỉnh núi Chim Ưng đã trở thành một rừng Đào, rừng Mận thì ai cũng chưa dám tin ngay đó là sự thật…

                                                                                              *

Sáu năm sau, Đài Quan Sát được lệnh giải thể. Tính từ lúc nó được thành lập năm 1967 đến lúc có lệnh giải thể là năm 1973, chỉ có duy nhất một lần Tham Mưu trưởng và hai sĩ quan Tham mưu tới thăm sau khi nó được thành lập một tháng. Không phải người ta quên nó vì nó ở nơi heo hút xa xôi mà vì còn rất nhiều công việc khác cấp bách hơn! … Chính vì thế, như là để chuộc lại sự “bỏ rơi” suốt sáu năm qua, đích thân Tham Mưu trưởng – tác giả sáng lập ĐQS –, Lúc này đã là Trung Đoàn Trưởng, đã cầm Quyết định giải thể đến gặp những người lính ở Đài Quan Sát Thiên Lý. Ông đã nghe các chiến sĩ nói qua máy bộ đàm về vườn Đào trên đỉnh núi Chim Ưng, nhưng khi được tận mắt chứng kiến, ông vẫn hết sức kinh ngạc: Đúng là chốn Bồng Lai Tiên cảnh! Và điều ngạc nhiên thứ hai là cả Bảy chiến sĩ của Đài Quan Sát dường như là không hề bị già đi theo thời gian, ngược lại họ còn khỏe mạnh hơn lúc mới lên núi!... Khi nói về nguyện vọng sau khi giải thể, Tiểu Đội trưởng Lê Nhãn nói: “Nếu quân đội cần chúng tôi đi đâu, chúng tôi xin sẵn sàng! Nhưng sau khi kết thúc chiến tranh, chúng tôi xin được phục viên về đây làm nghề trồng Đào Tiên, vì đang có bảy người vợ và mười bốn đứa con đang chờ đợi!” Nói rồi Tiểu đội trưởng Lê Nhãn dẫn Tham Mưu trưởng xuống Làng Chim Ưng ở sườn núi, nơi gần với mạch suối nước: Có bảy ngôi nhà ẩn hiện trong những cây Đào Quả lúc lỉu và những cây Đào Hoa rực rỡ!...

Việc Tham Mưu Trưởng tức Trung Đoàn Trưởng ra quyết định cho cả Bảy chiến sĩ của Đài Quan Sát Thiên Lý được phục viên ngay sau quyết định giải thể chỉ mãi sau ngày 30-4-1975 người ta mới tán đồng, tức là khi ông bị đột tử trong một vụ tai nạn giao thông. Còn khi mới ra quyết định cho cả Bảy chiến sĩ của Đài quan sát phục viên, ai cũng phản đối! Chỉ khi người ta chết đi thì mọi việc làm trước đó mới được nhìn nhận chính xác chăng?

Bây giờ, đến đỉnh núi Chim Ưng (đã được đổi tên thành Vườn Đào Bảy Chú Lùn), ta sẽ thấy ngôi mộ của Tham Mưu Trưởng và Bức Tượng “Tham Mưu Trưởng và Bảy Chú Lùn” rất đẹp!

Đỗ Ngọc Thạch
 Rộn rã đón xuân về, Tin tức, xuan 2011, tet 2011, ron ra don xuan ve, bo anh xuan, anh dep ngay xuan, ngày xuan 2011, xuan ve tren ban nho
Khi mùa xuân tới
Nguồn Ảnh: Internet