Thứ Năm, 17 tháng 4, 2014

ngợi ca sự thất bại - Costica Bradatan

03:05-11/04/2014 
Ngợi ca sự thất bại
Costica Bradatan

Một cảnh trong phim "The Seventh Seal" của
Ingmar Bergman: Antonius Block chơi cờ với
Thần Chết. “Khỏi phải nói, chàng không thể
thắng được trong trò chơi – không ai có thể thắng cả
- nhưng chiến thắng không phải là mục đích."
Nếu đến một lúc nào đó, cần phải suy nghĩ nghiêm túc về sự thất bại, thì đó chính là lúc này.
Chúng ta chắc chắn đang sống trong một thời đại của những tiến bộ không ngừng. Chúng ta được chứng kiến những bước phát triển trong khoa học, nghệ thuật, kỹ thuật, y học... với một tốc độ chưa từng thấy. Chúng ta biết về hoạt động của não người và những thiên hà xa xôi hơn những gì mà cha ông chúng ta có thể tưởng tượng. Việc thiết kế một hình thái cao cấp của con người – khỏe khoắn hơn, mạnh mẽ hơn, thông minh hơn, đẹp đẽ hơn, dẻo dai hơn – có vẻ như đang nằm trong kế hoạch. Thậm chí, sự bất tử giờ đây dường như cũng sắp là điều khả thi, là một kết quả có thể đạt đến nhờ những bước tiến ngày càng vượt bậc của khoa sinh học ứng dụng.

Chắc chắn những hứa hẹn về sự phát triển, tiến bộ không ngừng của con người là điều có sức cám dỗ. Song điều đó cũng hàm ẩn mối nguy hiểm – trong một tương lai hoàn thiện hơn, sự thất bại sẽ là điều không còn mấy ý nghĩa.

Tại sao ta lại phải bận tâm? Cụ thể hơn, tại sao triết học lại nên quan tâm đến sự thất bại? Chẳng nhẽ không còn vấn đề nào hay hơn để suy tư hay sao? Câu trả lời thật đơn giản: Triết học là lĩnh vực tốt nhất để suy tư về sự thất bại vì triết học hiểu sự thất bại một cách sâu sắc. Ít nhất, lịch sử triết học phương Tây không gì khác hơn là sự nối dài liên tục của những thất bại, dẫu đó là những thất bại hữu ích và quyến rũ. Bất kỳ triết gia lớn nào cũng tìm cách khẳng định mình bằng việc phơi bày, phân tích những “thất bại”, “sai lầm”, “nhầm lẫn” hay “sự ngây thơ” của những triết gia khác, để rồi đến lượt mình, họ sẽ lại bị phủ định bởi những người khác như là những kẻ thất bại trước đó; cứ như thể, bất kể làm gì đi nữa, định mệnh của triết học là thất bại. Thế nhưng dẫu đi hết từ thất bại này sang thất bại khác, triết học vẫn lớn lên qua nhiều thế kỷ. Như Emmanuel Levinas từng diễn đạt một cách rất ấn tượng, “điều hay nhất ở triết học là nó thất bại.” Thất bại, dường như, chính là cái mà triết học ăn, là cái giúp nó duy trì sự sống. Nói chung, triết học chỉ có thể tiếp tục sinh lộ của nó chừng nào nó còn thất bại.

Vì thế, cho phép tôi bàn về tầm quan trọng của sự thất bại.

Sự thất bại có ý nghĩa vì một số lý do. Ở đây, tôi muốn nói đến ba lý do.

Thất bại cho phép chúng ta nhìn thấy sự tồn tại của mình trong hoàn cảnhtrần trụi của nó

Hễ khi nào xảy ra, sự thất bại lại phát lộ cho ta thấy sự tồn tại của ta gần với phía đối lập của nó như thế nào. Từ bản năng sinh tồn của mình, hay đơn giản do sự mù lòa trong nhận thức, chúng ta có xu hướng nhìn thế giới như một nơi kiên cố, đáng tin cậy, thậm chí không thể phá hủy. “Đối với một chủ thể biết suy nghĩ, hình dung về sự phi tồn tại của mình, về sự chấm dứt những nghĩ suy và đời sống của mình, hoàn toàn là điều bất khả,” Goethe đã nói như thế. Chúng ta, những kẻ luôn tự lừa dối bản thân, quên rằng chúng ta cận kề với trạng thái không -phải – như - chúng ta - vẫn luôn lànhư thế nào. Một vụ tai nạn máy bay, chẳng hạn, hoàn toàn có thể đặt dấu chấm hết cho mọi thứ; thậm chí một tảng đá rơi, hay bộ phận phanh của ô tô bị hỏng cũng có thể làm được việc này. Dẫu không phải bao giờ cũng là tai họa định mệnh, sự thất bại luôn mang theo nó mối đe dọa đối với sự hiện sinh ở một mức độ nào đó.

Thất bại là sự xâm nhập đột ngột của hư vô vào giữa sự sống. Trải nghiệm sự thất bại có nghĩa là bắt đầu nhìn thấy những nứt rạn trong cơ cấu của sự sống và chắc chắn, đến khi ta thực sự ngấm nó, sự thất bại hóa ra lại trở thành một thứ phúc lành được ngụy trang. Vì chính mối đe dọa thường trực, lơ lửng này sẽ khiến ta nhận ra được sự phi thường của chính sự tồn tại của mình: rằng bất chấp điều hiển hiện ấy, ta vẫn cứ hiện hữu, vẫn cứ tồn tại. Nhận thức ấy trao cho chúng ta một niềm kiêu hãnh nhất định.

Ở vai trò này, sự thất bại cũng có khả năng như một phép chữa bệnh đặc biệt. Hầu hết chúng ta (trừ những người tự ý thức hay may mắn đốn ngộ) thường điều chỉnh sự tồn tại của mình rất kém; chúng ta cứ muốn tưởng tượng bản thân mình quan trọng hơn nhiều so với thực chất của chúng ta, chúng ta cư xử cứ như thế thế giới này tồn tại chỉ cho chúng ta; ở những thời điểm tồi tệ nhất, chúng ta xem mình như những đứa trẻ, thấy mình là trung tâm của mọi thứ và đợi chờ phần còn lại của vũ trụ này lúc nào cũng sẵn sàng phục tòng ta. Chúng ta tham lam ngấu nghiến những giống loài khác, làm trơ trọi hành tinh sự sống này và lấp đầy nó bằng rác. Sự thất bại có thể là phương thuốc để chống lại sự kiêu ngạo và xấc xược này vì nó thường mang đến sự khiêm nhường.

Năng lực thất bại có ý nghĩa trọng yếu đối với bản thể của chúng ta

Chúng ta cần bảo vệ, nuôi dưỡng, thậm chí trân quý năng lực này. Nhận thức rằng chúng ta, về bản chất, sẽ vẫn cứ là những tạo vật bất toàn, không hoàn hảo, đầy sai lầm là một nhận thức quan trọng; nói cách khác, luôn có một khoảng cách giữa cái chúng ta là và  cái chúng ta có thể là. Bất cứ những thành tựu nào mà con người từng đạt được trong lịch sử thì đó là do có sự tồn tại của không gian rỗng này. Chính ở trong khoảng không gian này mà con người, các cá nhân cũng như cộng đồng, mới có thể hoàn thành bất cứ cái gì. Không phải bỗng dưng chúng ta trở thành một cái gì đó tốt hơn; chúng ta vẫn thế, vẫn là những kẻ yếu đuối, đầy sai lầm. Nhưng hình ảnh con người với đầy lỗi lầm của mình có thể trở thành hình ảnh không thể chịu đựng nổi, khiến con người xấu hổ đến nỗi phải cố làm một cái gì tử tế hơn một chút. Mỉa mai thay, chính cuộc đấu tranh của con người với những thất bại của chính mình đã đem đến những điều tốt đẹp nhất ở con người.

Khoảng cách giữa cái chúng ta và cái chúng ta có thể là đồng thời cũng là không gian mà trong đó các diễn ngôn không tưởng được hình thành. Văn học không tưởng, ở những tác phẩm xuất sắc nhất, có thể ghi lại chi tiết cuộc đấu tranh của con người với những thất bại của xã hội và cá nhân. Mặc dù thường xây dựng những thế giới của sự thái quá và phong nhiêu nhưng các tác phẩm không tưởng lại là hình thức phản ứng đối với những thiếu hụt và nỗi bất định của đời sống; chúng là hình thức biểu hiện tốt nhất của cái mà chúng ta thiếu nhất. Tác phẩm Utopia của Thomas More thực ra là câu chuyện về chính nước Anh ở thời đại của ông hơn là câu chuyện về một hòn đảo tưởng tượng. Các tác phẩm không tưởng có vẻ giống như hình thức tôn vinh sự hoàn thiện của con người nhưng nếu đọc ngược lại, chúng chỉ là những hình thức thú nhận đặc biệt về sự thất bại, sự bất toàn và sự lúng túng.

Thế nhưng việc chúng ta cứ tiếp tục mơ và thêu dệt nên những tác phẩm không tưởng vẫn hết sức quan trọng. Nếu chúng ta không phải những kẻ mộng mơ, hẳn hôm nay chúng ta sẽ sống trong một thế giới xấu xí hơn nhiều. Nhưng trên hết, không có những giấc mơ, không có những sự không tưởng, loài người chúng ta có lẽ đã trở nên kiệt quệ. Giả sử đến một ngày, khoa học giải quyết hết mọi vấn đề của chúng ta. Chúng ta sẽ trở nên mạnh khỏe hơn, có thể trường sinh bất tử, trí não chúng ta, nhờ sự tiến bộ nào đó, sẽ có thể hoạt động như một chiếc máy tính. Đến ngày ấy, chúng ta có thể trở thành một cái gì đó rất thú vị nhưng tôi không chắc chúng ta sẽ có cái mà vì nó chúng ta sống. Chúng ta có thể trở nên hoàn thiện nhưng về bản chất, chúng ta đã chết.

Cuối cùng khả năng thất bại khiến chúng ta là chúng ta; sự sống của chúng ta, những tạo vật về bản chất là những kẻ thất bại, chính là cội rễ của mọi tham vọng. Sự thất bại, nỗi sợ thất bại và tìm cách tránh nó trong tương lai là, tất cả đều là một phần của quá trình mà qua đó, diện mạo và số phận của chúng ta được quyết định. Đó là lý do vì sao, như tôi đã ngầm nhắc đến trước đó, năng lực thất bại là cái mà chúng ta nhất thiết phải bảo vệ, bất kể những người theo thuyết lạc quan rao giảng gì đi nữa. Đó là một thứ đáng trân trọng, thậm chí còn hơn những kiệt tác nghệ thuật, những tượng đài hay những công trình hoàn thiện nào khác. Vì, theo một nghĩa nào đó, năng lực thất bại còn quan trọng hơn bất kỳ những thành tựu nào của cá nhân. Chính nó mới khiến cho những thành tựu khả hữu.

Chúng ta là những kẻ được chỉ định để thất bại

Dẫu cuộc đời của chúng ta có trở nên thành công như thế nào đi nữa, dẫu chúng ta có là những người thông minh, cần cù, mẫn cán thế nào đi nữa, thì cùng một kết cục ấy đang chờ đợi chúng ta: “sự thất bại về mặt sinh học”. Mối “đe dọa sự sống” của nỗi thất bại ấy đã luôn tồn tại bên cạnh con người trong suốt chiều dài lịch sử, mặc dù để sống với một cảm giác thỏa mãn tương đối, chúng ta đều phải giả vờ như không nhìn thấy nó. Tuy nhiên, sự giả vờ của chúng ta chưa bao giờ ngăn được việc chúng ta mỗi lúc tiến về đích đến của mình ngày một nhanh hơn, “tỉ lệ nghịch với bình phương khoảng cách từ cái chết”, như nhân vật Ivan Ilyich của Tolstoy đã miêu tả rất rành rọt về quá trình này. Song ở đây nhân vật của Tolstoy không làm rõ vấn đề nhiều. Câu hỏi khẩn thiết hơn là  làm thế nào để tiếp cận sự thất bại lớn ấy, làm thế nào để đối mặt nó, ôm xiết lấy nó và sở hữu nó – điều mà Ivan tội nghiệp đã không làm được.

Một hình mẫu tốt hơn có lẽ là hình tượng nhân vật Antonius Block trong bộ phim The Seventh Sealcủa Ingmar Bergman. Một hiệp sĩ trở về sau cuộc Thập tự chinh, rơi vào trạng thái khủng hoảng niềm tin, Block bị đặt đối diện với thất bại vĩ đại – Cái Chết – trong hình hài con người. Chàng không do dự đối đầu với Thần Chết. Chàng không chạy trốn, không cầu xin sự khoan nhượng – chàng chỉ thách Thần Chết ngồi chơi một ván cờ với mình. Khỏi phải nói, chàng không thể thắng được trong trò chơi – không ai có thể thắng cả - nhưng chiến thắng không phải là mục đích. Ta chơi với sự thất bại vĩ đại, sự thất bại cuối cùng, không phải để thắng, mà để học sự thất bại.

Bergman, như một triết gia, đã dạy chúng ta một bài học lớn ở đây. Tất cả chúng ta đều kết thúc trong sự thất bại song đó không phải là điều quan trọng nhất. Điều thực sự quan trọng là chúng ta thất bại như thế nào và chúng ta đạt được gì trong quá trình ấy. Trong khoảng thời gian ngắn ngủi của cuộc chơi với Thần Chết, Antonius Block hẳn đã trải nghiệm được nhiều hơn tất cả những gì mình đã trải nghiệm trong đời; không có trò chơi ấy, chàng có đã sống chẳng vì một điều gì cả. Cuối cùng, dĩ nhiên, chàng đã thua nhưng chàng cũng đã thực hiện được một điều hiếm hoi. Chàng không chỉ biến thất bại thành một nghệ thuật mà còn có thể biết nghệ thuật thất bại trở thành một phần hết sức ý nghĩa trong nghệ thuật sống. 
Hải Ngọc dịch

Nguồn: 
http://opinionator.blogs.nytimes.com/2013/ 12/15/in-praise-of-failure/?_php=true&_ type=blogs&_r=0

Thứ Hai, 14 tháng 4, 2014

các lý thuyết nghiên cứu văn học...- N.V.Dân

Những ban đêm thành cột mốc tháng năm/ Đêm xanh vợi cũng trở thành đêm trắng/ Đêm thao thức đón chờ ánh sáng/ Đêm của chúng ta ấp ủ những mặt trời. (Đêm trắng - Nguyễn Văn Thạc)
Gửi thư    Bản in

Các lý thuyết nghiên cứu văn học và tính khả dụng


Kate Upton từng khát khao thu nhỏ núi đôi
Kate Upton sở hữu vòng 1 tự nhiên cỡ 34D








Nguyễn Văn Dân - 12-04-2014 09:13:01 AM
Từ những thập niên đầu thế kỷ XX, các nhà nghiên cứu ở nước ta đã bắt đầu vận dụng các lý thuyết và phương pháp của phương Tây để khảo cứu và thẩm định văn chương. Nhưng việc áp dụng các phương pháp khoa học đôi khi cũng bộc lộ sự lệ thuộc vào lý thuyết mà chưa căn cứ xác đáng vào thực tiễn sáng tác, từ đó ít nhiều đã để định kiến chi phối một số nhận định của mình, dẫn đến những kết quả thiếu chính xác, làm giảm chất lượng và hiệu quả của phê bình. Ở giai đoạn này, các khiếm khuyết nói trên có thể được biện minh bởi tình trạng non trẻ của khoa nghiên cứu văn học. Nhưng ngày nay, tình trạng phê bình lệ thuộc vào định kiến lý thuyết hình như vẫn đang chi phối một bộ phận trong giới nghiên cứu. Dù việc áp dụng lý thuyết là rất cần thiết, song không phải các lý thuyết đều có thể áp dụng như nhau. Khi áp dụng một lý thuyết, chúng ta nên xem xét thực tiễn văn học để thấy có phù hợp với lý thuyết đó không, nếu phù hợp thì phù hợp đến mức nào.
Chẳng hạn gần đây ở Việt Nam, người ta bắt đầu nói đến “triển vọng của nghiên cứu hậu thực dân trong văn học”. Song chúng tôi cũng thấy băn khoăn là không biết khi nghiên cứu văn học hậu thực dân ở Việt Nam thì chúng ta nghiên cứu vấn đề gì? Thực tế là vấn đề văn học hậu thực dân trên thế giới đã xuất hiện ở (và đối với) những nướcthuộc địa cũ của Pháp, Anh và Mỹ, đó là những nước vẫn còn giữ lại những thiết chế chính trị và văn hoá của mẫu quốc, họ có vấn đề về mâu thuẫn giữa thiết chế với bản sắc dân tộc, có vấn đề tìm lại bản sắc dân tộc sau chế độ thực dân, bởi lẽ phần lớn các nước đó sau khi độc lập vẫn nằm trong Liên hiệp Pháp hay Liên hiệp Anh.
Theo các nhà nghiên cứu, không phải tất cả những nước đã qua giai đoạn thuộc địa đều có vấn đề về hậu thực dân. Ví dụ, Hoa Kỳ đã từng là thuộc địa của Anh, nhưng nó lại không có vấn đề hậu thực dân (theo Jonathan Hart and Terry Goldie, “Post-colonial theory”, Encyclopedia of Contemporary Literary Theory, General Editor and Compiler: Irena R. Makaryk, University of Toronto Press, Toronto - Buffalo - London, 1997, tr. 156). Mặc dù vẫn lấy tiếng Anh làm ngôn ngữ chính, nhưng văn hoá Hoa Kỳ lại không hề có sự mâu thuẫn giữa thiết chế với bản sắc dân tộc, vì Koa Kỳ có một nền thiết chế chính trị và văn hoá hoàn toàn tự chủ, độc lập với thiết chế chính trị và văn hoá mẫu quốc. Trường hợp tương tự cũng xảy ra với một số nước thuộc địa cũ ở châu Âu, khi mà những nước này đã giành được độc lập tự chủ hoàn toàn. Ở các nước đó không có vấn đề hậu thực dân. Đây là một nhận xét rất quan trọng, nó sẽ giúp ta tránh được quan điểm giáo điều trong việc áp đặt nghiên cứu hậu thực dân cho bất cứ quốc gia thuộc địa cũ nào.
Tương tự, Việt Nam đã giành độc lập bằng cuộc cách mạng dân chủ, lật đổ chế độ thực dân, thiết lập một chế độ mới với những thiết chế chính trị và văn hoá mới. Vậy ở Việt Nam, trong hơn nửa thế kỷ qua, vấn đề cần giải quyết là vấn đề văn học hậu thực dân hay là vấn đề xây dựng nền văn học mới? Liên quan đến chủ đề hậu thực dân, Việt Nam sẽ được nhìn nhận giống với trường hợp của Hoa Kỳ và một số nước châu Âu, hay là giống với các nước thuộc địa cũ ở châu Phi, châu Mỹ và châu Á? Nghiên cứu văn học hậu thực dân ở Việt Nam hiện nay, nếu có thì nó xuất phát từ yêu cầu của thực tiễn hay là một sự áp đặt của lý thuyết bên ngoài? Việc xác định vấn đề như vậy là rất quan trọng.
Đó là chưa kể nhiều người còn hiểu sai những khái niệm chủ chốt nhất của lĩnh vực nghiên cứu này: hai thuật ngữ tiếng Anh “postcolonialism” và “Orientalism” đã được họ dịch là “chủ nghĩa hậu thực dân” và “chủ nghĩa phương Đông”. Trên thực tế không hề có “chủ nghĩa” hậu thực dân và “chủ nghĩa” phương Đông trong khoa học (nếu có các chủ nghĩa này thì chúng mang một nội hàm khác và ở trong lĩnh vực khác). Trong khoa học, “Postcolonialism” chỉ có nghĩa là “nghiên cứu hậu thực dân” [hay “nghiên cứu hậu thuộc địa”]; còn “Orientalism” có các nghĩa: “phong cáchphương Đông”, “phương Đông học” [hay “nghiên cứu phương Đông”]. Trong các ngôn ngữ phương Tây, hậu tố “ism” trong nhiều trường hợp không có nghĩa là “chủ nghĩa”.
Rồi lại rộ lên câu chuyện văn học nữ quyền. Ở phương Tây, phong trào nữ quyền thể hiện trong rất nhiều lĩnh vực, như việc đòi quyền tham gia chính trị của phụ nữ mà ở nhiều nước hiện nay vẫn chưa được quan tâm thoả đáng. Còn trong văn học, phong trào nữ quyền ở phương Tây hiện nay chủ yếu thể hiện ở việc phát hiện, phục hồi và quan tâm đến tác phẩm của các nhà văn nữ. Vậy ở Việt Nam thì sao? Chúng ta có vấn đề nữ quyền trong một số lĩnh vực xã hội, nhưng trong văn học thì như thế nào? Chúng ta sẽ giải quyết vấn đề gì? Người phụ nữ đã xuất hiện ngay từ buổi đầu của lịch sử văn học trên cả phương diện đối tượng lẫn chủ thể sáng tác, điều này trên thế giới và ở Việt Nam thì thời nào cũng có. Nhưng có phải cứ viết về phụ nữ thì là văn học nữ quyền không? Có phải cứ nghiên cứu về phụ nữ trong văn học thì là phê bình nữ quyền không? Thực tế là phải có vấn đề liên quan đến quyền của phụ nữ thì chúng ta mới có thể nói tới nữ quyền trong văn học. Hiện nay ở nước ta mới chỉ có giới thiệu các bài viết của nước ngoài về nữ quyền mà chưa thấy nói văn học nữ quyền ở Việt Nam là gì. Phải chăng vì nó không có vấn đề nên người ta không nói ra được. Mà không có vấn đề thì không thể nghiên cứu được. Nếu không xác định được vấn đề thì việc nghiên cứu nữ quyền trong văn học cũng chỉ là gắn một cái nhãn mới cho những công việc vẫn làm lâu nay, hoặc là du nhập vấn đề nữ quyền của phương Tây vào nước ta một cách gượng ép. Cái đó trong khoa học người ta gọi là “nguỵ vấn đề”. Từ nguỵ vấn đề đến nguỵ khoa học chỉ là một bước nhỏ. Đó là điều rất cần cân nhắc kỹ lưỡng.
Cũng trong xu hướng tiếp thu cái mới, có người đang nói tới khả năng cách tân của phê bình sinh thái. Với chủ trương đề cao mối quan hệ hài hoà giữa con người với tự nhiên, họ cho rằng “Trên cơ sở sinh thái chỉnh thể luận, chủ trương của mỹ học sinh thái là thống nhất hài hòa giữa con người và tự nhiên, con người và xã hội, con người và bản thân chứ không phải là con người chiếm hữu, chinh phục và cải tạo tự nhiên, không chủ trương quan điểm lao động sáng tạo ra cái đẹp (tôi nhấn mạnh – NVD)”[RTF bookmark start: }_ednref5[RTF bookmark end: }_ednref5. Đây là lời diễn giải của một nhà nghiên cứu người Trung Quốc được tác giả Đỗ Văn Hiểu trích lại trong bài viết “Phê bình sinh thái – Khuynh hướng nghiên cứu văn học mang tính cách tân” (Nhà văn, số 12-2012). Nếu đây đúng là quan điểm của phê bình sinh thái thì mọi quan niệm về triết học và văn học sẽ phải được xem xét lại. Tại sao con người lại không cải tạo tự nhiên? Tại sao con người lại không lao động để sáng tạo ra cái đẹp? Nếu chúng ta xem xét đến quan điểm của Liên Hợp Quốc (LHQ) về phát triển bền vững thì sẽ thấy rằng LHQ không chủ trương như vậy. LHQ chủ trương rằng con người không thể không phát triển, và đã phát triển thì không thể không cải tạo tự nhiên. Vấn đề là phải cải tạo tự nhiên một cách bền vững chứ không phải là phá huỷ tự nhiên. Và tư tưởng này cũng chỉ là phát triển trên cơ sở của tư tưởng bảo vệ thiên nhiên đã có từ bao đời nay. Nếu tuân theo ý kiến “không chủ trương quan điểm lao động sáng tạo ra cái đẹp” thì số phận của mọi tác phẩm nghệ thuật ca ngợi lao động chinh phục tự nhiên sẽ ra sao? Đây không phải là một sự cách tân của phê bình sinh thái, mà thực chất sẽ là một cuộc “cách mạng” xoá bỏ phần lớn các giá trị truyền thống của văn học. Vậy thì liệu lý thuyết này có thể áp dụng cho nghiên cứu văn học không? Hay nó chỉ là lý thuyết của những người hoạt động bảo vệ môi trường?
Trên thực tế, phê bình sinh thái là một phong trào xã hội bảo vệ môi trường. Nó xuất hiện chủ yếu ở Mỹ từ những thập niên cuối thế kỷ XX. Đặc biệt, năm 1992 ở nước này đã thành lập tổ chức Hiệp hội Nghiên cứu Văn học và Môi trường (tiếng Anh: Association for the Study of Literature and Environment [ASLE]). Một trong những nhiệm vụ của nó là nghiên cứu mối quan hệ giữa văn hoá, văn học với môi trường, với tự nhiên, nhưng “văn học” ở đây phải được hiểu theo nghĩa rộng, nó bao gồm cả các tác phẩm, công trình phi hư cấu (tức phi văn chương). Như thế, nếu xếp nó vào là một loại lý thuyết nghiên cứu văn học thì cũng là gượng ép. Có lẽ chính vì thế mà giáo sư người Mỹ M. P. Cohen (2004) đã nhận xét: “Nếu bạn muốn là một nhà phê bình sinh thái, thì bạn hãy chuẩn bị sẵn sàng để giải thích điều mình làm và sẵn sàng chịu bị phê phán, nếu không nói là bị chế giễu.” (Michael P. Cohen, “Blues in Green: Ecocriticism Under Critique”, http://www.asle.org/site/resources/ecocritical-library/intro/blues/). Cohen cũng nhận xét: “Theo định nghĩa, hay ít nhất là theo nguyên ngữ, lý thuyết phê bình sinh thái tổ chức các cuộc thảo luận về văn học môi trường, dựa trên khoa học, sử học và triết học, trong khi nó cũng phê bình các nguồn này. Nếu không, phê bình sinh thái sẽ có thể trở thành một địa hạt mà ở đó văn học sẽ gặp phải định kiến dân gian, và có thể nó sẽ không có gì nhiều ngoài lợi ích xã hội học như là những quan điểm chưa được kiểm tra của các giáo sư văn học mà đồng thời cũng là các nhà hoạt động môi trường nghiệp dư.” Ông nói rõ thêm: “Như vậy, phê bình sinh thái khẳng định gần như chính bản thân phạm vi chữ nghĩa là môi trường chú giải của nó, cái môi trường có hạn mà người đọc hay người viết quan tâm đó có được là nhờ không chỉ các yếu tố quyết định đã được mã hoá về mặt văn hoá, mà còn nhờ các yếu tố quyết định của tự nhiên đã tồn tại trước các yếu tố văn hoá và chúng sẽ tồn tại lâu hơn các yếu tố đó.”
Về tương lai của phê bình sinh thái, Cohen viết: “Phê bình sinh thái cần phải chất vấn sát sao hơn nữa bản chất của văn bản tự sự về môi trường chứ không chỉ đơn thuần ca tụng văn bản đó như nó thường làm.” Trong tinh thần này, Cohen đã gọi một phiên bản của phê bình sinh thái là “trường phái tụng ca”. Nó ca ngợi thiên nhiên và kêu gọi quay về với thiên nhiên, như ASLE đã lấy ý tưởng của John Elder làm khẩu hiệu: “Tôi thà đi bộ còn hơn!” [“I’d rather be hiking!”].
Vì thế Cohen cũng cho rằng: “Rõ ràng, phê bình sinh thái có thể trở thành một chủ đề nóng và đang được tranh cãi trong giới nghiên cứu văn học.” Quả thực, một số người cũng nghi ngờ việc sử dụng ngôn ngữ “sinh thái” trong phê bình sinh thái. Trên thực tế, nhiều bài viết về phê bình sinh thái là của các nhà nhân học và văn hoá học, in thành sách hoặc đăng trên các tạp chí văn học và văn hoá, thậm chí cả tạp chí môi trường (như bài viết nói trên của Cohen đã được đăng trên tạp chí Environmental History [Lịch sử môi trường]No. 9. 1 (January 2004), p. 9-36).
Như vậy, phê bình sinh thái trước hết là một phong trào văn hoá - xã hội bảo vệ môi trường, một phong trào xã hội bảo vệ và phát triển con người. Song nếu nói phê bình sinh thái là một sự “cách tân” trong nghiên cứu văn học thì là một tuyên bố vội vàng và phi thực tế. Vấn đề môi trường chỉ là một trong nhiều vấn đề của văn học và nó cũng không phải là một vấn đề mới. Thực tế văn học chưa bao giờ ca ngợi sự phá huỷ thiên nhiên. Nó cũng không cần phải có những nguyên tắc thẩm mỹ đến mức thiếu chúng thì người ta không biết thế nào là tác phẩm văn học bảo vệ môi trường. Mặt khác, với tư cách là một phong trào văn hoá - xã hội bảo vệ môi trường, phê bình sinh thái đòi hỏi phải có trình độ chuyên gia về khoa học môi trường, về văn hoá học và về khoa học phát triển bền vững. (Thực tế đang có các chuyên gia hoạt động trong lĩnh vực này như chúng tôi đã nói.) Nó hoàn toàn không thể là công việc ngẫu hứng của các nhà phê bình.
Nếu cứ lấy một vấn đề xã hội bất kỳ để gắn một cách gượng ép với văn học và gọi nó là mỹ học, thì chúng ta sẽ có vô vàn lý thuyết mỹ học nhưng không áp dụng được.

(Nguồn: Văn nghệ số 15/2014)

Thứ Năm, 10 tháng 4, 2014

siêu mẫu Nam Phi Candice Swanepoel

Thứ Năm, 10/04/2014 - 15:55

Siêu mẫu Nam Phi gợi cảm từng centimet

(Dân trí) - Candice Swanepoel - chân dài đình đám của Victoria’s Secret là một trong những siêu mẫu Nam Phi thành danh nhất thế giới. Vẻ đẹp ngọt ngào và nét quyến rũ tự nhiên của người đẹp tóc vàng đã giúp cô kiếm được hàng triệu đô la mỗi năm.





Candice Swanepoel xinh đẹp và trẻ trung trong ảnh quảng cáo mới của Victoria’s Secret

Candice Swanepoel xinh đẹp và trẻ trung trong ảnh quảng cáo mới của Victoria’s Secret

Candice Swanepoel xinh đẹp và trẻ trung trong ảnh quảng cáo mới của Victoria’s Secret

Candice Swanepoel xinh đẹp và trẻ trung trong ảnh quảng cáo mới của Victoria’s Secret

Candice Swanepoel xinh đẹp và trẻ trung trong ảnh quảng cáo mới của Victoria’s Secret

Candice Swanepoel xinh đẹp và trẻ trung trong ảnh quảng cáo mới của Victoria’s Secret

Candice Swanepoel xinh đẹp và trẻ trung trong ảnh quảng cáo mới của Victoria’s Secret

Candice Swanepoel xinh đẹp và trẻ trung trong ảnh quảng cáo mới của Victoria’s Secret
Candice Swanepoel xinh đẹp và trẻ trung trong ảnh quảng cáo mới của Victoria’s Secret

VN

VN

VN

VN

VN

VN
VN
Theo Hot

Thứ Ba, 8 tháng 4, 2014

tìm đỗ ngọc thạch với Google

Web Results
thƠ tỨ tuyỆt - rƯỢu cẦn - và sÁu bÀi lỤc bÁt - tỨ tuyỆt mÙa thu - ngƯỜi hÀ nỘi - Ở sÀi gÒn xem tranh bÙi xuÂn phÁi -
http://www.newvietart.com/DONGOCTHACH_saigon.html
Đỗ Ngọc Thạch . Sinh ngày l9-5-1948, tại Phú Thọ. Tốt nghiệp Khoa Ngữ Văn Đại họcTổng hợp Hà Nội năm l976; đã tham gia quân đội ...
http://www.trieuxuan.info/?pg=tgdetail&id=495
1. Hóa thạch. Có nhà khảo cổ học nọ sau khi làm xong luận án Tiến sĩ thì phát hiện ra rằng ngành khảo cổ học không còn vấn đề ...
http://www.vannghechunhat.net/truyen/do-ngoc-thach.html
Đỗ Ngọc Thạch . Sinh ngày l9-5-1948, tại Phú Thọ. Tốt nghiệp ĐH Tổng hợp (Khoa Ngữ Văn) năm l976; Làm việc tại các cơ quan: ...
http://vanchuongviet.org/index.php?comp=tacgia&action=detail&id=1831
Qua sông bằng đò - Truyện ngắn Đỗ Ngọc Thạch Qua sông bằng đò Chuyên mục: Truyện ngắn Đỗ Ngọc ThạchLượt xem: 316
https://plus.google.com/114919060793471437834
Tìm Đỗ Ngọc Thạch trên Google - Trích: người đánh đành Klong Put. truyện ngắn đỗ ngọc thạch; Kết quả tìm kiếm.
http://vnthvymailcom.blogspot.com/2013/06/tim-o-ngoc-thach-tren-google-trich.html
Phê bình và Tiểu Luận của Đỗ Ngọc Thạch- Trích: Sân khấu Tuồng - nguôn gốc và... PB&TL của Đỗ Ngọc Thạch- trích: Sân ...
http://dothach.blogspot.com/2013/08/san-khau-tuong-nguon-goc-va-o-ngoc-thach.html
THAY ĐỔI SỐ PHẬN . Sa Phi là người phụ nữ có tướng sát phu nổi tiếng cả một vùng : người đàn ông nào cưới cô xong cũng ...
http://newvietart.com/index3.1632.html
Ngọc Thạch Đỗ - University of transport in Ho Chi Minh City
https://plus.google.com/101005100793535386742

VN

Thứ Hai, 7 tháng 4, 2014

Tự lực Văn đoàn...- Lại Nguyên Ân

03:44-28/02/2014 
Tự Lực văn đoàn - một “nhóm lợi ích” trong đời sống văn nghệ*
Lại Nguyên Ân

Các tác phẩm Tự Lực văn đoàn được dịch
sang tiếng nước ngoài
Khi viết về Tự Lực văn đoàn (TLVĐ), những năm gần đây, số lớn ý kiến thường chỉ thiên về kể công lao, đóng góp của TLVĐ; ít thấy ai đặt hoạt động TLVĐ vào đời sống văn nghệ đương thời để mô tả, nhận định các hoạt động cụ thể của nó; cũng ít thấy ai chú ý tìm hiểu xem TLVĐ được cảm nhận ra sao trong tầm nhìn của những người đương thời, nhất là những đồng nghiệp viết văn làm báo, hoặc công chúng văn nghệ thời ấy.
Thiết nghĩ, đối với TLVĐ, hội đoàn sáng tác có tổ chức chặt chẽ đầu tiên ở Việt Nam thời hiện đại, nếu xem xét hoạt động của nó từ tầm nhìn gần, không lý tưởng hóa, người ta sẽ thấy TLVĐ ra đời và hoạt động như một nhóm lợi ích.

TLVĐ gồm bảy thành viên: Nhất Linh (Nguyễn Tường Tam), Khái Hưng (Trần Khánh Giư), Tú Mỡ (Hồ Trọng Hiếu), Hoàng Đạo (Nguyễn Tường Long), Thế Lữ (Nguyễn Đình Lễ), Thạch Lam (Nguyễn Tường Lân), Xuân Diệu (Ngô Xuân Diệu); các thành viên này cùng với nhiều người khác trong gia đình Nguyễn Tường và một số người thân khác của các thành viên, hoạt động trên hai tờ tuần báoPhong Hóa (1932-1936), Ngày Nay (1935; 1936-1940), và nhà xuất bản Đời Nay (1934-1945). 

So với nhiều nhóm nhà văn khác, khi tụ khi tán, suốt những năm 1930-1945, thì cơ sở ấn loát kể trên của TLVĐ tỏ ra vững vàng hơn hẳn. Tuy nhiên, các cơ sở báo chí xuất bản này không hoạt động như một cơ sở kinh doanh ấn loát bất kỳ nào đó. 

Người ta biết, chẳng hạn, nhà xuất bản Tân Dân của Vũ Đình Long hoạt động xuất bản sách báo như một tổ chức sản xuất kinh doanh ấn phẩm nhưng không tính đến, thậm chí không chấp nhận sự tập hợp các nhà văn tại đây theo các dấu hiệu đồng thuận về những tư tưởng hay thị hiếu nghệ thuật nhất định. Do vậy, giữa ông chủ Tân Dân và các nhà văn cộng tác với các ấn phẩm của nhà Tân Dân chỉ có các quan hệ lao động (thuê người làm và làm thuê) hoặc thương mại (mua bản thảo, bán bản thảo) mà trong đó sự xung đột lợi ích là khá thường trực (dù không lớn, chủ yếu chỉ xoay quanh vấn đề định mức hoặc cách tính nhuận bút), sự cộng đồng lợi ích tuy vẫn có nhưng là tương đối nhỏ; còn lại, hầu như không có gì gắn bó họ với nhau thành một nhóm lợi ích. 

Trong khi đó, các tờ Phong HóaNgày Nay và nhà xuất bản Đời Nay ưu tiên hoạt động như công cụ, như phương tiện của nhóm tác gia trong TLVĐ. Nó ưu tiên đăng tải tác phẩm của các thành viên trong nhóm, sau đó mới dành chỗ đăng một số tác phẩm của các cộng tác viên, tức là những người ngoài nhóm ấy, chỉ có liên hệ hoặc thân hoặc sơ với hầu hết hoặc một vài thành viên của nhóm. Ngay sau khi sắp hoàn tất việc đăng báo, các tác phẩm của các thành viên sẽ được chuyển sang khâu in thành sách. Chính nhờ được đặt vào quy trình liên tục này về ấn loát nên các tác phẩm của các nhà văn trong TLVĐ đều được công bố trọn vẹn, hầu như không tác phẩm nào bị dở dang, mất mát (trừ những tác phẩm mới chỉ đăng trên Ngày Nay, kỷ nguyên mới, 1945, ví dụ truyện dài Xiềng Xích của Khái Hưng). Trong sự tiếp cận của các giới sự tầm nghiên cứu hậu thế, đây là một lợi thế khá lớn của các nhà văn trong TLVĐ so với phần đông tác giả đương thời, tác phẩm thường đăng tải trên nhiều tờ báo khác nhau, thường bị gián đoạn do các báo bị đóng cửa hoặc có thay đổi thành phần tòa soạn, rốt cuộc là số tác phẩm bị thất lạc, mất mát không ít. 
 
Cùng với việc đảm bảo tốt khâu công bố tác phẩm cho các nhà văn trong nhóm, TLVĐ còn chú trọng tạo dư luận, gây tiếng vang cho các nhà văn thành viên, xây dựng uy tín, giá trị cho sự nghiệp văn chương của họ. Đây là một chiến lược nhiều mặt, được hai tờ báo Phong Hóa, Ngày Nay và các thành viên TLVĐ ráo riết thực hiện theo nhiều cách, nhất là trong dăm bảy năm đầu từ khi nhóm này xuất hiện. 

Chẳng hạn, người ta có thể thấy, từ khi ra đời (1933) đến khoảng 1938, TLVĐ có chiến lược hạ uy tín những tác gia khác, ngoài văn phái mình. 

Trước hết, việc này nhắm vào những người già, những tác gia thuộc thế hệ trước.

Vì sao một trong những thói tật khá phổ biến ở xã hội đương thời là tật nghiện rượu, lại không được các biếm họa trên Phong Hóa gán cho hai gã Lý Toét, Xã Xệ hư cấu, như đối với nhiều thói tật khác, mà lại gán cho một Tản Đà cụ thể? Điều này, vào năm 1937, Vũ Trọng Phụng có lời giải:

“Xưa kia, muốn cho Thế Lữ nổi tiếng về thơ mới, Tự Lực văn đoàn đã phải dùng đến cách làm cho thiên hạ tưởng Nguyễn Khắc Hiếu là một kẻ không có tư cách nhân phẩm gì nữa, khốn nạn vô cùng”. [1] 

Cố nhiên, đến những năm 1938-39, TLVĐ sẽ thay đổi thái độ, trên Ngày Nay sẽ có những bài khen ngợi thơ Tản Đà, rồi nhà Đời Nay đề nghị in thơ Tản Đà thành các tập tuyển, v.v… Nhưng ở thời đầu TLVĐ, việc nhóm này đả kích Tản Đà, là điều thấy rõ; đó cũng là lúc phong trào thơ mới đang khởi lên, việc bài xích thơ cũ, khuếch trương thơ mới được xem là một nhiệm vụ lớn mà TLVĐ muốn giành lấy trọng trách. 

Có thể nói, TLVĐ, thông qua các biếm họa, hý họa, các mục vui cười trên Phong Hóa, đã tỏ rõ một ý hướng liên tục bôi nhọ thể diện khá nhiều nhân vật uy tín đương thời. Trong số ấy, Tản Đà chỉ là một, và hẳn chưa phải là đối tượng hàng đầu. Bởi, ngay từ đầu, được nhắm đến thường xuyên ở các trang châm biếm, hý hước của Phong Hóa là bộ đôi Vĩnh - Quỳnh. 

Nước Nam có hai người tài 
Thứ nhất sừ Ĩnh thứ hai sừ Uỳnh 
Một sừ béo múp rung rinh 
Một sừ lểu đểu như hình cò hương 
Không vốn liếng chẳng ruộng nương 
Chỉ đem dư luận bán buôn làm giàu 
Bây giờ đang xỉa xói nhau 
Người cầu lập hiến, kẻ câu trực quyền
“Thưa các ngài, thực vi tiên,
Muốn xem chiến đấu, quẳng tiền vào đây” [2] 

Bài thơ châm biếm này phải chăng là “hiền lành”, “vô hại”, theo như lời bình của không ít phê bình gia hậu thế? Thưa không! Bởi sự lược quy nghề làm báo vào nghề “buôn bán dư luận”, – xưa cũng như nay, dù là câu đùa cũng vẫn cứ nhuốm màu xuyên tạc độc ác; vả chăng, tại sao văn phái Tự Lực lại loại trừ mình khỏi nghề “buôn bán dư luận” trong khi chính mình cũng làm báo? Ở đây, tư tưởng chính trị của Phạm Quỳnh về một nền “quân chủ lập hiến”, của Nguyễn Văn Vĩnh về thiết chế “cai trị trực tiếp” của chính quyền Pháp, – vốn là hai đề xuất có trọng lượng trong những thảo luận đương thời về tương lai chính trị Đông Dương, – đã bị nhóm Tự Lực đả kích phủ định. Vậy nên, có thể nói, nếu từ thời ấy cho đến tận cuối thế kỷ XX, một bộ phận lớn của công chúng người Việt vẫn còn giữ những định kiến bất công đối với hai nhân vật hàng đầu này của văn hóa Việt Nam thời hiện đại (Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh), thì, góp vào việc xây dựng những định kiến ấy, phổ cập định kiến ấy vào công chúng, không thể không có phần công sức đáng kể của Phong Hóa, Ngày Nay, hai cơ quan của TLVĐ! 

Ngay Phan Khôi, cùng thế hệ Tản Đà, người đã rất sớm nhận ra và lên tiếng khen giọng điệu báo chí mới mẻ của Phong Hóa, [3] nhưng đáp lại, Phong Hóa luôn dùng lối giễu cợt để giữ khoảng cách, để dứt khoát gạt Phan Khôi về phái già. Bỏ qua rất nhiều trò chọc ghẹo vốn là đương nhiên khó tránh khỏi của thể tài hài báo, ít ra vẫn có một sai lạc không thể biện hộ, ấy là việc Phong Hóa và TLVĐ tạo ra thành ngữ “lý luận Phan Khôi” với hàm ý chế nhạo. 

Trong khi tư duy lô-gích là cái thiếu nhất ở người Việt, trong khi Phan Khôi là nhà báo thể hiện sự cố gắng nhiều hơn hết để nghĩ mới về mọi sự mọi việc, trong khi chính TLVĐ cũng hướng tới cái mới, duy lý, tiến bộ cho văn hóa xã hội Việt, thì chính họ lại dựng lên thành ngữ này, hùa theo luồng định kiến thông tục cũ kỹ trong giới cầm bút vốn đặc trưng cho xu thế thù ghét lý tính, bài xích lý luận của số đông với tâm thế gia trưởng thủ cựu; ở phương diện này, Nhất Linh (nếu ông là tác giả chính của thành ngữ này) chỉ đứng ngang với những cây bút tầm thường, và tỏ ra thấp hơn Phan Khôi rõ rệt.

Nhưng khi đó Nhất Linh và các thành viên TLVĐ đã hành động theo lợi ích nhóm, mà chiến lược là hạ uy tín của những “đàn anh” trong báo giới văn giới, bất kể là ai. 

Một trong những cách nữa để TLVĐ tạo sự chú ý đến sáng tác của các nhà văn trong nhóm là gây ra những sự cố. Tố cáo cây bút nào đó, càng có tên tuổi càng tốt, dường như đã “ăn cắp” tác phẩm của nhà văn nhóm mình, là một thủ đoạn đắc sách. Theo cách này, đầu năm 1936, Phong Hóa phao lên rằng Nguyễn Công Hoan đã “chịu khó sưu tầm để viết Lá Ngọc Cành Vàng giống Nửa Chừng Xuân, và  Cô Giáo Minh giống hệt Đoạn Tuyệt”. [4] 

Cách tạo dư luận ở đây là tận dụng, lạm dụng văn trào lộng, hý hước, để khi bị chất vấn theo lối nghiêm chỉnh thì trả lời: đấy chỉ là một câu khôi hài. Nhưng họ biết, lời nói đùa có thể được công chúng tin chắc hoặc ngờ ngợ tin là thật, vì thế dù sao Nguyễn Công Hoan cũng phải lên tiếng, tuy ông chỉ nhấn mạnh rằng ý tứ truyện Cô Giáo Minh trái hẳn với Đoạn Tuyệt. [5] Đến lượt Khái Hưng đáp lại, khăng khăng giữ nhận định riêng: hai cuốn Cô Giáo Minh và  Đoạn Tuyệt “giống nhau lắm”, rồi đánh trống lảng, chuyển câu chuyện sang trò chơi phán đoán về giá trị: cuốn nào hay hơn sẽ còn lại, tất nhiên là lộ rõ cái ý: sách của tác giả TLVĐ nhất định phải hay hơn! [6] 

Đặt trong tình trạng khá đa dạng về văn phái, về báo chí văn học đương thời, giọng điệu khẳng định tác phẩm của văn phái mình hay hơn các văn phái khác, báo mình xử sự tốt đẹp hơn báo khác, hầu như là một kỹ thuật phòng ngự-phản công rất mực phổ cập. Các báo Phong Hóa, Ngày Nay của TLVĐ không nằm ngoài ứng xử ấy. Khác với thái độ công bằng của Phan Khôi trong vai trò “Ngự sử đàn văn”, các trang Phong Hóa trên đó Hàn Đãi Đậu nhặt nhạnh “những hạt đậu dọn” trong vườn văn thiên hạ, thường lưu ý bắt bẻ những sai sót, lầm lạc trong thơ văn các tác giả khác, chứ gần như không khi nào động đến tác phẩm các thành viên TLVĐ. 

Sự hoạt động liên tục của các trang này – bên cạnh tác dụng cảnh báo giới viết văn viết báo đương thời về nhiệm vụ làm sáng sủa câu văn tiếng Việt – còn mang lại những kết quả chỉ có lợi riêng cho TLVĐ, tạo cho văn đoàn này và các thành viên của nó một thế đứng trên, thế đứng đàn anh, áp đảo đối với các cá nhân nhà văn cũng như các văn phái khác, đương thời. Các tờ báo của TLVĐ có mặt liên tục trong gần 10 năm, cho nên áp lực mà họ tạo ra trong đời sống văn nghệ đương thời là rất mạnh, khiến họ mặc nhiên được xem như nhóm văn nghệ chi phối diện mạo văn học những năm 1930-40. Chỉ cần đọc hồi ức Nguyên Hồng về lần đầu tiên được gặp Thế Lữ, khoảng 1934-35 ở Hải Phòng, cảm nhận cảnh người anh họ sang trọng, tài cao, học cao, hỏi han ban phát và khích lệ người em họ nghèo khó ham học ham viết, [7] là có thể hiểu vì sao, khi nói tới Vũ Trọng Phụng, báoNgày Nay lại sẵn sàng miệt thị ông là “nhà văn xã hội kỳ quặc” chuyên “lòe độc giả bằng cái học vấn sơ học của mình”. [8] 

Giới nghiên cứu hậu thế hiện nay thường hướng cái nhìn ngưỡng mộ về di sản của TLVĐ, song cũng nên biết một phần dư luận đương thời đối với văn đoàn này ra sao. Người ta không khó để thấy được tìm được những ví dụ loại này ở báo chí Hà Nội đương thời.

Xin dẫn một số ý kiến độc giả gửi tới Hà Nội Báo, biểu đồng tình với việc báo này phê phán TLVĐ, nhân những tranh luận giữa tuần báo này với Phong Hóa, từ đầu năm 1936 cho tới khi Phong Hóa bị đóng cửa.

 Các độc giả này kể ra ba cái tội của báo Phong Hóa, trong đó bên cạnh tội chế giễu cái ngu dốt của dân quê và chế giễu những người tàn tật còn có tội dìm đồng nghiệp: “Không có một cách cạnh tranh bất chính nào là  Phong Hóa không dùng tới, để dìm đồng nghiệp xuống. Bất kỳ một tờ báo nào mới ra cũng bị Phong Hóa nói xỏ nói xiên, nói châm nói chọc, có khi kéo cả đại đội ra để công kích. Họ công kích như vậy để làm gì? Cốt cho đồng nghiệp lùi đi, để trên bãi cỏ xanh, chỉ còn một mình họ ăn…” (ý kiến ông Đặng Thế Xương).[9] 

Như vậy, có thể nói, trong tầm nhìn của công chúng đương thời, tiếng nói của TLVĐ không phải chỉ có một chiều được hưởng ứng, đồng tình, mà còn gây không ít những phản cảm, phản kháng. 

Nhìn chung, thái độ thường là kẻ cả, trịch thượng của các thành viên TLVĐ đối với các nhà văn và các nhóm văn nghệ khác đương thời, một mặt tạo cho họ uy thế, sự thán phục, sự lắng nghe, sự bắt chước, học theo làm theo, từ phía những cây bút khác, nhất là số người đang tập tành nghề viết; nhưng mặt khác cũng tạo khoảng cách giữa các nhà văn trong TLVĐ đối với các nhà văn khác. Khoảng cách này có thể đã khiến hầu hết các nhà văn trong TLVĐ xem thường, không tính đến, không xem xét, không tiếp nhận kinh nghiệm từ các nhà văn ngoài TLVĐ; đây là điều không hay, thậm chí có hại cho con đường sáng tác của họ. 

Các nhà văn trong TLVĐ từng khiến giới viết truyện đương thời cảm phục và gắng sức đua theo, vì kiểu tiểu thuyết luận đề là do họ đề xướng và cho ra mắt những sản phẩm đầu tiên. Tuy vậy, điều đáng nói là, nếu như các cây bút văn xuôi trong TLVĐ đã in dấu vào mô hình thể tài tự sự này ở điểm khởi đầu, thì chính họ lại không có sản phẩm nào nằm trong sự kết tinh của cả quá trình phát triển ấy. Quả thật, không có tác phẩm nào đáng gọi là kiệt tác trong số các tiểu thuyết TLVĐ. Bởi nếu nói đến kiệt tác ở văn xuôi tự sự hư cấu giai đoạn ấy, người ta chỉ kể được Số Đỏ (của Vũ Trọng Phụng) và  Chí Phèo (của Nam Cao), hai tác phẩm của hai nhà văn ngoài văn đoàn Tự Lực. 

Lý giải điều này là việc không dễ. 

Tuy vậy, có thể nghĩ tới một trong những lý do là sự quá tự tín của các nhà văn trong TLVĐ. Họ đã nghĩ một cách nghiêm chỉnh đến việc tiếp nhận kinh nghiệm sáng tác của các nhà văn Âu Tây, nhưng họ lại hầu như hoàn toàn xem thường kinh nghiệm sáng tác của giới viết văn người Việt cùng thời với mình.

Chẳng hạn, về ngôn ngữ, họ chủ trương và thực hành việc viết bằng một thứ tiếng Việt trong sáng, giản dị, dễ hiểu, song họ hầu như không để ý đến việc những người viết văn đương thời thể nghiệm hoặc xử lý ra sao đối với chất liệu đời sống Việt Nam hoặc chất liệu ngôn ngữ tiếng Việt. Hoặc, họ có hầu như ngay từ đầu những ý tưởng về nhu cầu thoát khỏi chế độ đại gia đình để tìm đến kiểu gia đình hạt nhân, vốn phù hợp với sự phát triển con người cá nhân của một lớp thanh niên mới xuất hiện trong xã hội thuộc địa Âu hóa những năm 1920-30; song họ có khá ít sự hiểu biết về các tầng lớp dưới, ở cả thôn quê lẫn đô thị cũng đương thời ấy. Thế nhưng họ lại xem thường những khảo sát về những lớp người ấy do các nhà văn nhà báo bên ngoài văn phái họ thực hiện. Các tiểu thuyết của họ có văn phong sáng sủa, mực thước, nhưng cả tác giả, người kể chuyện lẫn các nhân vật trong truyện đều nói cùng một giọng, mọi nhân vật đều nói như nhau, hầu như không cho thấy các sắc thái giọng nói.
 
Đấy chỉ là một trong số những dấu hiệu về sự khác biệt, song lại là khác biệt về “bí kíp” của sự nhạt nhẽo ngày càng lộ rõ trong ngôn ngữ của các tác gia văn xuôi TLVĐ, so với những sắc giọng đậm và mặn, có khi thô lỗ, có khi tục tằn, in dấu khẩu ngữ, biệt ngữ, phương ngữ trong mạch văn của không ít tác gia ngoài TLVĐ. 

Mà đấy chỉ là một trong những ví dụ về hệ quả của thế đứng cách bức, trịch thượng và xa lạ, của TLVĐ so với những nhà văn đương thời ngoài nhóm ấy. 

Điều đó gây thiệt hại cho họ, cho văn chương, chứ không phải cái gì khác. 

Ngày Tự Lực văn đoàn công bố 10 tôn chỉ của mình, 2-3-1934, được coi là ngày thành lập hội đoàn sáng tác này. 10 tôn chỉ đó là:

 1. Tự sức mình làm ra những sách có giá trị về văn chương chứ không phiên dịch sách nước ngoài nếu những sách này chỉ có tính cách văn chương thôi: mục đích là để làm giàu thêm văn sản trong nước.

 2. Soạn hay dịch những cuốn sách có tư tưởng xã hội. Chú ý làm cho người và xã hội ngày một hay hơn.

 3. Theo chủ nghĩa bình dân, soạn những sách có tính cách bình dân và cổ động cho người khác yêu chủ nghĩa bình dân.

 4. Dùng một lối văn giản dị, dễ hiểu, ít chữ nho, một lối văn thật có tính cách An Nam.

 5. Lúc nào cũng mới, trẻ, yêu đời, có trí phấn đấu và tin ở sự tiến bộ.

 6. Ca tụng những nết hay vẻ đẹp của nước mà có tính cách bình dân, khiến cho người khác đem lòng yêu nước một cách bình dân. Không có tính cách trưởng giả quý phái.

 7. Trọng tự do cá nhân.

 8. Làm cho người ta biết rằng đạo Khổng không hợp thời nữa.

 9. Đem phương pháp khoa học thái tây [gọi chung những nước Âu Tây] ứng dụng vào văn chương Việt Nam.

 10. Theo một trong 9 điều này cũng được miễn là đừng trái ngược với những điều khác.

(Theo wikipedia)


---

* Bài viết là bản rút gọn của bài đã đăng trên tạp chí Nghiên cứu văn học, Hà Nội, số 12 (tháng 12/2013), tr. 112-121.

 [1] Vũ Trọng Phụng: Để đáp lời báo “Ngày Nay”: Dâm hay là không dâm // Tương Lai, Hà Nội, s. 9 (25.3.1937)

[2] Phong dao mới // Phong Hóa, Hà Nội, s. 14 (22 Septembre 1932), tr. 2.

[3] Bài có lẽ sớm nhất của Phan Khôi về Phong Hóa là bài “Vẽ hình” trong mục “Những điều nghe thấy” ký Thông Reo (Trung Lập, Sài Gòn, ngày 5 và 6 Février 1933). 

[4] Xem: Xuân thủ đâm ân // Phong Hóa, Hà Nội, s. 172 (31 Janvier 1936), tr. 3 (Lưu ý: đây là nhại mấy từ “Xuân thủ đàm ân” /= đầu xuân nói việc ơn ích/ mà các báo đương thời thường đặt làm tên mục thông tin những việc thăng thưởng cho quan lại, viên chức; tòa soạn Phong Hóa ghi chú từ “đâm” là “nẩy ra đâm ra”; đây là một trong rất nhiều mục châm biếm, hài hước thường xuyên trên báo Phong Hóa). 

[5] Nguyễn Công Hoan: Từ “Đoạn Tuyệt” đến “Cô Giáo Minh” // Hà Nội Báo, Hà Nội, s. 9 (4 Mars 1936), tr. 8-9.

[6] Khái Hưng: Cùng ông Nguyễn Công Hoan // Phong Hóa, Hà Nội, s. 177 (6 Mars 1936), tr. 4 (đăng lại trên Hà Nội Báo, s. 11, ngày 18 Mars 1936, tr. 9-11)

[7] Nguyên Hồng: Nhà thơ ở Ngõ Nghè (trích hồi ký “Bước đường viết văn”, 1970) trong sách: Thế Lữ, Cuộc đời trong nghệ thuật, Hà Nội: Nxb. Hội Nhà Văn, 1991, tr. 57-68. 

[8] Nhất Chi Mai: Ý kiến một người đọc: Dâm hay không dâm? // Ngày Nay, Hà Nội, s. 51 (14 Mars 1937), tr. 137 [báo đánh số trang theo thứ tự trong bộ báo cả năm] 

 [9] Tội trạng báo “Phong Hóa” // Hà Nội Báo, Hà Nội, s. 15 (15 April 1936), tr. 21.