Chủ Nhật, 19 tháng 2, 2012

6 bài PB-TL của Đỗ Ngọc Thạch trên vannghechunhat

6 bài Phê bình, Tiểu Luận của Đỗ Ngọc Thạch trên vannghechunhat

trích:
Tản Đà - Thi sĩ của 2 thế kỷ
http://vannghequandoi.com.vn/Portals/1000000/Images/tanda.jpeg

Tản Đà - thi sĩ của hai thế kỷ

Trong bài Cung chiêu anh hồn Tản Đà in ở đầu cuốn Thi Nhân Việt Nam của Hoài Thanh - Hoài Chân, có đoạn:
“…Tiên sinh đã dạo những bản đàn mở đầu cho một cuộc hòa nhạc tân kỳ đương sắp sửa... với chúng tôi, tiên sinh vẫn là một bậc đàn anh... Tiên sinh còn giữ được của thời trước cái phong thái vững vàng, cái cốt cách ung dung... Tiên sinh đã đi qua giữa cái hỗn độn của xã hội Việt Nam đầu thế kỷ 20 với tấm lòng bình thản một người thời trước... những cảnh éo le thường phô bày ra trước mặt không làm bợn được linh hồn cao khiết của tiên sinh. Cái dáng điệu ngang tàng chúng tôi thường thấy ở các nhà thơ xưa, ở tiên sinh không có vẻ vay mượn. Cái buồn chán của tiên sinh cũng là cái buồn chán của một người trượng phu…”.

Trong bài Cung chiêu anh hồn Tản Đà in ở đầu cuốn Thi Nhân Việt Nam của Hoài Thanh - Hoài Chân, có đoạn: “…Tiên sinh đã dạo những bản đàn mở đầu cho một cuộc hòa nhạc tân kỳ đương sắp sửa... với chúng tôi, tiên sinh vẫn là một bậc đàn anh... Tiên sinh còn giữ được của thời trước cái phong thái vững vàng, cái cốt cách ung dung... Tiên sinh đã đi qua giữa cái hỗn độn của xã hội Việt Nam đầu thế kỷ 20 với tấm lòng bình thản một người thời trước... những cảnh éo le thường phô bày ra trước mặt không làm bợn được linh hồn cao khiết của tiên sinh. Cái dáng điệu ngang tàng chúng tôi thường thấy ở các nhà thơ xưa, ở tiên sinh không có vẻ vay mượn. Cái buồn chán của tiên sinh cũng là cái buồn chán của một người trượng phu…”. Cho dù cái không khí khai hội Tao Đàn có náo nhiệt đến đâu thì cũng không vì thế mà Hoài Thanh quá cao hứng để giành cho Tản Đà những lời khen tặng danh giá nhất, gọi ông là con người của hai thế kỷ và trích đăng tới hai bài thơ của Tản Đà để mở màn cho Hội Tao Đàn Thơ Mới, đó là bài Thề non nước và bài Tống biệt! Quả là Hoài Thanh có “Con mắt xanh” khi đánh giá Thơ Mới và thơ Tản Đà.

*

Ngô Tất Tố (1894 - 1954), một nhà văn, nhà báo, nhà Nho học và nhà nghiên cứu văn hóa lớn,- hơn Tản Đà những 5 tuổi nhưng đã khởi nghiệp bằng việc “phò tá” Tản Đà ở tờ An Nam Tạp chí từ ngày đầu (1926). Sau khi An Nam Tạp chí đình bản (lần thứ nhất, vì thiếu tiền), Ông Đầu Xứ Tố lại “tháp tùng” Tản Đà vào Sài Gòn, cùng “lăn lộn” với Tản Đà gần ba năm trời mà không làm nên “cơm cháo” gì nên ông lại trở ra Hà Nội, tiếp tục sinh sống bằng cách viết bài cho các báo: An Nam tạp chí, Thần chung, Phổ thông, Đông Dương, Hải Phòng tuần báo, Thực nghiệp, Con ong, Việt nữ, Tiểu thuyết thứ ba, Tương lai, Công dân, Đông Pháp thời báo, Thời vụ, Hà Nội tân văn... với 29 bút danh khác nhau như : Thục Điểu, Lộc Hà, Lộc Đình, Thôn Dân, Phó Chi, Tuệ Nhơn, Thuyết Hải, Xuân Trào, Hy Cừ... Ông Tố chuyên tâm vào văn xuôi và đã thành công lớn với tiểu thuyết Tắt đèn - khai mở dòng văn học hiện thực phê phán thời kỳ 1930-1945. Tôi phải vời cụ Đầu xứ Tố ra khi đang nói về Tản Đà bởi cụ là nhân chứng đáng tin cậy nhất về Tản Đà không chỉ vì cụ là người bạn viết thân thiết của Tản Đà mà còn vì kiến văn sâu rộng. Hãy đọc lại nhận định của cụ Tố về Tản Đà, sau khi Tản Đà “về trời”: “Tôi đã nghĩ đi nghĩ lại. Trong cái trang Thi sĩ của cuốn Việt Nam văn học sử này, dẫu sao mặc lòng, ông Tản Đà vẫn là  một người đứng đầu của thời đại này”(Ngô Tất Tố: Tản Đà ở Nam Kỳ - Tao Đàn, 1939).

*

Qua nhận định của Hoài Thanh và Ngô Tất Tố về Tản Đà, ta có thể nói Thơ là cái làm nên tên tuổi Tản Đà. Vì thế trong bài viết này, chúng tôi xin tập trung sự chú ý vào Thơ Tản Đà.

Tản Đà (1889 - 1939) tên thật Nguyễn Khắc Hiếu, là một nhà thơ, nhà văn, nhà viết kịch, nhà báo “có một không hai”.Trong văn đàn Việt Nam đầu thế kỷ 20, Tản Đà nổi lên như một ngôi sao sáng, vừa độc đáo, vừa dồi dào năng lực sáng tác:

“Vùng đất Sơn Tây nảy một ông / Tuổi chửa bao nhiêu, văn rất hung

Sông Đà núi Tản ai hun đúc? / Bút thánh câu thần sớm vãi vung!...

(Tự trào)

Và với bài thơ Thề non nước, ta có được một hình ảnh đẹp về một nhà thơ của Non Tản sông Đà: tình quê hương xứ sở chính là nguồn mạch vô tận của cảm hứng sáng tạo:

    -Nước non nặng một lời thề,
    Nước đi đi mãi không về cùng non.
    Nhớ lời “nguyện nước thề non”,
    Nước đi chưa lại, non còn đứng không.
    -Non cao những ngóng cùng trông,
    Suối khô dòng lệ chờ mong tháng ngày.
    Xương mai một nắm hao gầy,
    Tóc mây một mái đã dầy tuyết sương.
    Trời tây ngả bóng tà dương,
    Càng phơi vẻ ngọc nét vàng phôi pha.
    Non cao tuổi vẫn chưa già
    Non thời nhớ nước, nước mà quên non.
    Dù cho sông cạn đá mòn,
    Còn non, còn nước, hãy còn thề xưa.
    -Non xanh đã biết hay chưa?
    Nước đi ra bể lại mưa về nguồn.
    Nước non hội ngộ còn luôn
    Bảo cho non chớ có buồn làm chi.
    Nước kia dù hãy còn đi
    Ngàn dâu xanh tốt non thì cứ vui.
    -Nghìn năm giao ước kết đôi,
    Non non nước nước không nguôi lời thề!
    (1920)

*

Tản Đà sinh ra trong gia đình có truyền thống khoa bảng. Cha Tản Đà là Nguyễn Danh Kế, thi đỗ cử nhân, làm quan cho triều Nguyễn đến chức Ngự sử trong Kinh. Ông Kế là người phong lưu tài tử, thường lui tới chốn bình khang và quen với bà Lưu Thị Hiền ở phố. Bà Lưu Thị Hiền có nghệ danh Nhữ Thị Nghiêm, là một đào hát tài sắc ở Hàng Thao, Nam Định, bà lấy lẽ ông Kế khi ông làm tri phủ Xuân Trường. Bà là người hát hay, có tài làm thơ Nôm. Tản Đà là con trai út của mối lương duyên tài tử và giai nhân này.

Năm Tản Đà lên 3 tuổi, bố mất, cuộc sống gia đình trở nên nghèo túng. Năm sau, vì bất hòa với nhà chồng, bà Nghiêm bỏ đi, trở lại nghề ca xướng. Tám năm sau, xảy ra chuyện chị ruột ông cũng theo mẹ làm nghề đó (năm Tản Đà 13 tuổi). Những sự kiện đã để lại nhiều dấu ấn khó phai trong tâm hồn. Tản Đà hấp thụ nền Nho giáo từ nhỏ. Năm 14 tuổi, Tản Đà đã thạo các lối từ, chương, thi, phú. Năm 15 tuổi, ông đã nổi tiếng là thần đồng của tỉnh Sơn Tây. Nhưng ba lần đi thi đều trượt: năm 1908, thi vào trường Hậu Bổ (trường dành cho con em quan lại để ra làm quan), năm 1909 và 1912 thi Hương. Tản Đà đã giải thích cái sự trượt hoài của mình :

Bởi ông hay quá, ông không đỗ / Không đỗ ông càng tốt bộ ngông”.

(Tự trào)

Chính vì thế, người ta còn gọi Tản Đà là Nhà Thơ Ngông!

Năm 1913, người anh cả đã nuôi Tản Đà từ ba tuổi là Nguyễn Tài Tích mất, Tản Đà về Vĩnh Phú làm nghề báo, tờ báo ông cộng tác đầu tiên là Đông Dương tạp chí của Nguyễn Văn Vĩnh (1), phụ trách mục "Một lối văn nôm". Đến năm 1915, ông lấy vợ là bà Nguyễn Thị Tùng, con gái một tri huyện ở Hà Đông. Cũng năm này ông có tác phẩm hay, đăng trên Đông dương tạp chí, nhanh chóng có được tiếng vang trên văn đàn. Năm 1916, ông lấy bút danh Tản Đà là tên ghép núi Tản, sông Đà,và chính thức chọn con đường của một người viết văn, làm báo chuyên nghiệp suốt đời bay nhảy:

Nước rợn sông Đà con cá nhảy / Mây trùm non Tản cánh diều bay!

*

Từ 1916 đến 1926 là những năm tháng đắc ý nhất của Tản Đà. Năm 1916, cuốn sách đầu tiên của Tản Đà được xuất bản, gây tiếng vang lớn, đó là tập thơ Khối tình con I. Sau thành công đó, ông viết liền cuốn Giấc mộng con (in năm 1917) và một số vở tuồng: Người cá, Tây Thi, Dương Quý Phi, Thiên Thai (diễn lần đầu năm 1917 tại Hải Phòng).

Năm 1917, Phạm Quỳnh (2) sáng lập ra Nam Phong tạp chí, và bài của Tản Đà có trên tạp chí này từ số đầu tiên. Năm 1918, Phạm Quỳnh ca ngợi cuốn Khối tình con I và phê phán cuốn Giấc mộng con I, cả khen lẫn chê đều dùng những lời lẽ sâu cay, biến Tản Đà trở thành một hiện tượng trên văn đàn. Từ 1919 tới 1921, Tản Đà viết một loạt sách, truyện thì có Thần tiền, Đàn bà Tàu (1919); sách giáo khoa, luân lý thì có Đài gương, Lên sáu (1919), Lên tám (1920), thơ thì có tập Còn chơi (1921). Thời kỳ này ông quen với một nhà tư sản nữa là ông Bùi Huy Tín (3), cùng nhau du lịch khắp Bắc, Trung kỳ và làm chủ bút Hữu thanh tạp chí một thời gian.Năm 1922, Tản Đà thành lập Tản Đà thư điếm (sau đổi thành Tản Đà thư cục), đây là nhà xuất bản riêng đầu tiên của ông.Tại đây đã in hết những sách quan trọng trong sự nghiệp của Tản Đà: Tản Đà tùng văn (tuyển cả thơ và văn xuôi, trong đó có truyện Thề Non Nước, 1922); Truyện thế gian tập I và II (1922), Trần ai tri kỷ (1924), Quốc sử huấn nông (1924), và tập Thơ Tản Đà (1925). Ngoài ra thư cục này còn cho xuất bản sách của Ngô Tất Tố, Đoàn Tư Thuật.

Năm 1926, Hữu Thanh tạp chí đình bản, Tản Đà cho ra đời An Nam tạp chí số đầu tiên với tòa soạn ở phố Hàng Lọng. Sự ra đời của An Nam tạp chí, tờ báo mà Tản Đà dành hết tâm huyết, đã bắt đầu quãng đời lận đận của ông.

*

Thời kỳ đầu làm chủ An Nam tạp chí, Tản Đà chưa thiếu thốn nhiều, ông thường đi thăm thú khắp ba Kỳ.Ông vừa làm báo vừa đi chơi do đó tạp chí An Nam cũng ra thất thường. Dần dần, ông túng quẫn, những cuộc đi là để trốn nợ hoặc giải sầu, hoặc là tìm người tài trợ cho báo. Thời kỳ này ông viết cũng nhiều, các tập Nhàn tưởng (bút ký triết học, 1929), Giấc mộng lớn (tự truyện, 1929), Khối tình con III (in lại thơ cũ), Thề non nước (truyện),Giấc mộng con II (truyện), lần lượt ra đời.

Năm 1933, khi phong trào Thơ Mới đang nổi lên, thì An Nam tạp chí của Tản Đà chính thức đình bản sau 3 lần đình bản và 3 lần tái bản. Cuộc sống của Tản Đà vốn nghèo túng lại càng trở nên thiếu thốn hơn, phải chạy ngược chạy xuôi kiếm sống. Lúc ông ở khu Bạch Mai dạy chữ Nho. Có lúc ở Hà Đông, lại thấy mấy tờ báo đăng quảng cáo: "Nhận làm thuê các thứ văn vui, buồn, thường dùng trong xã hội - Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu". Năm 1938, ông còn mở cả một phòng đoán số Hà Lạc để xem bói.

Những năm cuối đời bi thảm như thế, nhưng Tản Đà còn được an ủi là ông bỗng được mọi người quan tâm trở lại. Phe "Thơ Mới" sau chiến thắng, đã không còn đả kích Tản Đà. Họ bắt đầu lật lại những gì Tản Đà đã viết xưa nay, họ ca ngợi Tản Đà, xem ông như một ông Thánh của làng thơ... Tờ Ngày nay của Tự Lực văn đoàn, trước kia chê ông thậm tệ, thì nay lại mời ông cộng tác, hết lời ca ngợi những bài thơ Đường do ông dịch. Những bài thơ lục bát dịch từ thơ Đường của Tản Đà thường được cho là hay hơn các bản dịch khác, vì sự tự nhiên, vượt thoát khỏi câu chữ mà chuyển tải được cảm xúc người dịch vào đó. Đáng chú ý là Tản Đà còn dịch những bài thơ dài như Trường Hận ca (4) của Bạch Cư Dị (5) dịch ra thể Song thất lục bát, được đánh giá rất cao. Bùi Giáng (6) trong cuốn Đi vào cõi thơ đã gọi bản dịch này là "vô tiền khoáng hậu": Nếu tiên sinh còn sống, ắt tại hạ xin được phép cùng tiên sinh nhậu nhẹt một trận lu bù. Thơ của tiên sinh làm, chẳng có chi xuất sắc. Nhưng bản dịch Trường hận ca của tiên sinh quả thật là vô tiền khoáng hậu.. .Tản Đà đã góp phần sáng tạo, đúng hơn là ông đã tái tạo thi phẩm của Bạch Cư Dị cho hồn nhạc Việt lên tiếng dậy dàng. Tôi tin rằng « Trường Hận Ca » của Tản Đà là đỉnh cao nhất của nền thi ca Việt Nam tiền bán thế kỷ XX.

Tản Đà là người đầu tiên dịch bài Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu (7) và bản dịch của Tản Đà được nhiều người yêu thích nhất trong những bài thơ Lục bát dịch từ thơ Đường:

Người xưa cưỡi hạc đi đâu
Mà đây Hoàng Hạc riêng lầu còn trơ
Hạc vàng bay mất từ xưa
Nghìn năm mây trắng lững lờ còn bay
Hán Dương sông tạnh cây bày
Bãi xa Anh Vũ xanh dầy cỏ non
Quê hương khuất bóng hoàng hôn
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai!...


Những năm cuối đời, sức khỏe của Tản Đà suy yếu nhiều, ông giành hết tâm sức cho việc dịch thuật và biên soạn: Liêu Trai chí dị của Bồ Tùng Linh (Tân Dân xuất bản, 1937), Vương Thúy Kiều chú giải tân truyện (in năm 1940, sau khi ông mất), Thời hiền thi tập, Khổng Tử lược truyện (đã thất lạc)...Ngày 7 tháng 6 năm 1939, Tản Đà đã “về trời” sau một thời gian chống chọi với bệnh gan, trên cái giường nát tại nhà riêng số 71 Ngã Tư Sở, Hà Nội, để lại vợ và tám đứa con. Di thể của ông được an táng tại nghĩa trang Quảng Thiện, Hà Nội.

Làng văn nghệ trong nước vừa tạm lắng dịu sau những tranh luận sôi sục giữa “Thơ cũ” và “Thơ Mới” lại xôn xao khi Tản Đà ra đi. Một loạt các bài báo tưởng niệm Tản Đà được ra mắt ngay sau đó: Cái duyên của Tản Đà của Khái Hưng, Công của thi sĩ Tản Đà của Xuân Diệu, Tôi với Tản Đà thi sỹ của Phan Khôi, Tản Đà, một kiếm khách của Nguyễn Tuân, v.v… Những bài viết này thể hiện sự kính trọng, quý mến đối với cả văn thơ và con người Tản Đà, người mà cách đây vài năm còn bị họ đả kích không tiếc lời!...Quả là “Nghĩa tử là nghĩa tận”.
*
Trong cuộc đời của Tản Đà, người ta thấy có nhiều mối tình đã mang lại cho ông “Thi hứng” dạt dào. Đó là mối tình tuyệt vọng với cô gái họ Đỗ ở phố hàng Bồ Hà Nội. Đây là mối tình trong trắng, đắm say, nhưng kết thúc “không có hậu”. Mối tình này đã làm ông đau khổ và tạo nên nhiều thi hứng, để làm nên những câu thơ đặc sắc:

Vì ai cho tớ phải lênh đênh / Nặng lắm ai ơi, một gánh tình!

Theo các nhà nghiên cứu văn học thì đây là chuyện tình đã ảnh hưởng nhiều nhất tới Tản Đà. Đau khổ, buồn chán, ông đi ngao du sơn thủy ở Việt Trì, Hòa Bình... Những câu thơ làm trong giai đoạn “thất tình” này của Tản Đà như là đã khơi mào cho một trào lưu về văn học lãng mạn ở Việt Nam : thơ viết về Tình yêu - “Thơ Tình”, chủ yếu là “Thơ Thất tình”. Trước đó ít ai phô ra những nỗi buồn sâu kín, những nỗi chán đời vì “thất tình” chất chứa trong lòng, nay thì những từ “anh anh, em em” tràn ngập Thi đàn và Thi đàn lúc nào cũng sụt sùi lệ rơi!

Cô gái hàng Bồ, và ít nhất ba mối tình thực nữa đã đi vào và ở lại trong Giấc mộng con. Đó là mối tình với cô con gái út ông tri phủ Vĩnh Tường, cô nữ sinh 13 tuổi ở Nam Định, và cả cô đào Liên, người sắm vai Tây Thi trong vở kịch Cô Tô tàn phá do ông là soạn giả kiêm đạo diễn. Ngoài những mối tình có thực đó, thi sĩ đa tình Tản Đà có rất nhiều “tình mộng”: với Tây Thi, với Chiêu Quân, với Ngọc Nữ... mà người ta thường thấy trong Khối tình con…:

    1. Ôi hồng nhan, hỡi hồng nhan!
    2. Khôn thiêng cũng chẳng ai van ai mời.
    3. Trời Nam thằng kiết là tôi,
    4. Chùa Tiên, đất khách, khóc người bên Ngô.
    5. Cô với tôi, tôi với cô
    6. Trước sân lễ bạc có mồ nào đây.
    7. Hồn cô ví có ở đây

    8. Đưa nhau đi với, lên mây cũng đành.

(Tế Chiêu Quân - Tản Đà văn tập).

*

Tác phẩm đầu tiên của Tản Đà được công bố trước công chúng là những bài tản văn đăng ở Đông Dương tạp chí, năm 1915. Văn của Tản Đà ngay từ khi ra mắt bạn đọc đã nổi tiếng, đến mức Đông Dương tạp chí phải mở riêng một mục là Tản Đà văn tập chuyên đăng tải văn của ông.Tuy nhiên, Thơ mới là lĩnh vực chính yếu trong sự nghiệp đa dạng, phong phú của Tản Đà. Tản Đà trước hết là một thi sĩ, rồi mới là nhà văn, nhà báo. Thơ Tản Đà tuôn chảy như suối nguồn. Thơ Tản Đà đa dạng về đề tài, phong phú về cảm xúc song thường diễn tả cảm giác say sưa, chán ngán đời thực, đắm chìm trong cõi mộng, những mối tình với người tri kỷ xa xôi, song cũng có những bài mang tính ẩn dụ, ẩn chứa sự phê phán hiện thực.Thơ Tản Đà thường làm theo thể cổ phong, Đường luật, Đường luật phá thể, lục bát, song thất lục bát. Ông còn có tài sáng tác thơ dựa trên từ khúc, một hình thức âm nhạc của Trung Hoa, những bài Tống biệt, Cảm thu tiễn thu nhờ sự phá cách, phối hợp nhiều thể loại thơ, có thể coi là cách tân về hình thức khá táo bạo. Một kiểu văn vần đặc biệt là hát nói mà ở đó, Tản Đà có thể sánh ngang với Nguyễn Công Trứ, Dương Khuê, Cao Bá Quát…Khi Tản Đà đến với Hát nói, dường như Tản Đà trở về cái nôi của cảm hứng sáng tạo của mình, bởi ông đã sống trong thế giới Hát nói “từ trong bụng mẹ” – người mẹ là Ca Nương của Tản Đà chính là sự hiện thân sinh động của mối tình “Giai nhân-Tài tử”. Bởi vậy, những bài Hát nói của Tản Đà thể hiện một triết lý sống phóng khoáng, một tâm hồn hay mơ mộng, hoài cổ nhưng man mác nỗi sầu nhân thế…

Trong lĩnh vực thi ca, thơ Tản Đà là thứ thơ có bản lĩnh, bản sắc riêng, không lẫn vào đâu được. Song giá trị lớn lao và đặc sắc hơn cả cũng vẫn là ở vị trí khai sơn phá thạch của ông trên thi đàn đầu thế kỷ. Đương nhiên, Tản Đà chưa phải là một nhà thơ mới như các nhà thơ mới lớp sau ông. Thơ Tản Đà vừa có phong vị cổ thi vừa có cảm xúc hiện đại. Ông là nhà thơ đã có tư tưởng cách tân, có nhiều tìm tòi, sáng tạo và mạnh dạn vượt ra ngoài khuôn sáo cũ mà bài Tống biệt là một ví dụ rất rõ:

Lá đào rơi rắc lối Thiên Thai,
Suối tiễn, oanh đưa, luống ngậm ngùi.
Nửa năm tiên cảnh,
Một bước trần ai.
Ước cũ, duyên thừa, có thế thôi!
Đá mòn, rêu nhạt,
Nước chảy, huê trôi.
Cái hạc bay lên vút tận trời!
Trời đất từ nay xa cách mãi.
Cửa động,
Đầu non,
Đường lối cũ,
Nghìn năm thơ thẩn bóng trăng soi.


Bài Tống biệt nằm trong vở tuồng Thiên Thai, từng được diễn ở rạp Nguyễn Đình Cao (Hải Phòng) và rạp Thắng Ý (Hà Nội) năm 1917, sau được in lại trong tập Khối tình con II năm 1918. Thiên Thai là động Tiên, chỗ Tiên ở, là nguồn cảm hứng mạnh của nhiều thi sĩ, nhạc sĩ như Văn Cao với nhạc phẩm Thiên Thai, nhà văn như Nguyễn Dữ với Từ Thức lấy vợ Tiên trong Truyền kỳ mạn lục, v.v…

Trong thời buổi mà lối thơ niêm luật gò bó đang còn phổ biến, thì lối thơ như bài Tống biệt này của Tản Đà quả thật là rất mới! Chính cái sự mạnh dạn vượt ra ngoài khuôn sáo cũ ấy đã tạo nên một giọng điệu phóng túng riêng trong phong cách thơ Tản Đà:

    Trời sinh ra bác Tản Đà,
    Quê hương thời có cửa nhà thì không
    Nửa đời nam, bắc, tây, đông
    Bạn bè sum họp vợ chồng biệt ly
    Túi thơ đeo khắp ba kỳ,

    Lạ chi rừng biển, thiếu gì gió trăng...

(Thú ăn chơi)


Nói về tính cách tân, đổi mới của thơ Tản Đà, hay nói về một giọng điệu phóng túng riêng tạo nên phong cách thơ Tản Đà thì Tống biệt chỉ là một ví dụ nhỏ, mà phải kể đến Cảm Thu, tiễn Thu (đăng trên báo Hữu thanh, 1921, rồi đưa vào tập Thơ Tản Đà, 1925):

1.       Từ vào thu đến nay:
2.       Gió thu hiu hắt,
3.       Sương thu lạnh
4.       Trăng thu bạch,
5.       Khói thu xây thành
6.       …
7.       Nào những ai:
8.       Bảy thước thân nam tử,
9.       Bốn bể chí tang bồng
10.   Đường mây (*) chưa bổng cánh hồng,
11.   Tiêu ma tuế nguyệt, ngại ngùng tu mi.
12.   …
13.   Nào những ai:
14.   Kê vàng tỉnh mộng (**)
15.   Tóc bạc thương thân
16.   Vèo trông lá rụng đầy sân,
17.   Công danh phù thế có ngần ấy thôi.


Chú thích: (*) Dường mây: đường tiến thân, dường làm quan.(**) Giấc mộng kê vàng: Chuyện kể có một thư sinh thi hỏng, thư sinh này kể nỗi bất hạnh của mình cho một đạo sĩ gặp trên đường đi, vị đạo sĩ liền đưa cho anh ta một chiếc gối. Anh ta gối đầu lên chiếc gối, liền nằm mộng thấy mình lấy vợ, sinh con, rồi làm đến chức tể tướng, sống tới tám mươi tuổi. Tỉnh dậy mới hay chỉ là giấc mộng và nồi kê vàng nấu trước khi ngủ vẫn còn chưa chín.

Bài Đời đáng chán (in ở Tản Đà Tùng văn, 1922) cũng chung tâm trạng “ngẫm sự đời” đó:

    1.       Đời đáng chán hay không đáng chán?
    2.       Cất chén quỳnh riêng hỏi bạn tri âm
    3.       Giá khuynh thành nhất tiếu thiên kim
    4.       Mắt xanh trắng (1) đổi nhầm bao khách tục
    5.       
    6.       Giang hà nhật hạ nhân giai trọc
    7.       Thiên địa lô trung thực hữu tình (2)
    8.       
    9.       Đón đưa ai gió lá chim cành (3)
    10.   Ấy nhân thế (4) phù sinh là thế thế.
    11.   Khách phù thế chửa dứt câu phù thế (5)
    12.   Người phong lưu càng đượm vẻ phong lưu
    13.   Bức khăn hồng nâng đỡ hạt châu
    14.   Chuyện kim cổ một vài câu phải trái.
    15.   Châu Nam Hải (6) thuyền chìm sông Thúy Ái (7)
    16.   Sóng Tiền Đường cỏ áy bến Ô Giang (8)
    17.   Ngẫm nghìn xưa: ai tài hoa, ai tiết liệt, ai đài trang.
    18.   Cùng một giấc mơ màng trong vũ trụ
    19.   Đời đáng chán biết thôi là đủ,

    20.   Sự chán đời xin nhủ lại tri âm.


Chú thích: 1.Nguyễn Tịch có đôi mắt đổi màu: khi ưng ý thì tròng mắt có màu xanh, còn khi không ưng ý thì màu trăng. 2. Sông nước mỗi ngày một xuống kém cho nên người đời đều đục. Trong lò đúc của Trời đất ai là kẻ thực có tình? 3. Dựa theo câu thơ cổ TQ:  Chi nghinh nam bắc điểu, diệp tống vãng lai phong (Cành thì đón chim từ bắc từ nam đến đậu. Lá thì đưa tiễn những cơn gió qua lại. 4. Nhân thế: đời người. 5. Phù thế: Cuộc đời trôi nổi. 6. Nàng Mỵ Châu bị vua cha chém chết ở bể Nam Hải, máu của Nàng chảy ra bể, con trai ăn vào hóa thành châu ngọc. 7.Chuyện có người đàn bà chồng chết trận ở sông Thúy Ái, bèn tự tử ở sông đó để theo chồng. 8. Tiền Đường và Ô Giang là những nơi có nhiều bi kịch của các Mỹ nhân.

Khi các Thi nhân “ngẫm sự đời” thì thường là đi đến cái kết cục bất lực, thúc thủ trước thời cuộc. Tản Đà dù có “ngông” cỡ nào thì cũng không thoát khỏi cảnh ngộ chung đó:

Khi làm chủ báo, lúc viết mướn,
Hai chục năm dư cảnh khốn cùng...
Trần gian thước đất vẫn không có,
Bút sắt chẳng hơn gì bút lông
Ngày xuân như ngựa, đầu xanh bạc,
Chán cả giang hồ, hết cả ngông !

(Tiễn ông Công lên trời).


Đi liền với cái ngông là cái say, nhưng đó không phải là cái say ẩm thực tầm thường, mà là cái say của tao nhân mặc khách, cái say vì nhân thế, vì cảnh đời:

    Cảnh đời gió gió, mưa mưa,
    Buồn trông ta phải say sưa đỡ buồn
    Rượu say ta lại khơi nguồn
    Nên thơ rượu cũng thêm ngon giọng tình
    Rượu thơ mình lại với mình,
    Khi say quên cả cái đỉnh phù du
    Trăm năm thi sĩ tửu đồ là ai?

(Thơ rượu).



Và đã say không phải vì rượu mà vì đời, vì thế sự thì thật khó dứt cơn say bởi cái sự say đã “thăng hoa” thành “nghệ thuật say” - Thơ say:

    Say sưa nghĩ cũng hư đời,
    Hư thời hư vậy, say thời cứ say
    Đất say đất cũng lăn quay,
    Trời say mặt cũng đỏ gay ai cười.

(Lại say).

Nói đến “nghệ thuật say” không thể không nói đến nhân vật Lưu Linh: Tự Bá Luân, người đời Tấn (Trung Quốc), trong nhóm “Trúc lâm thất hiền” (7 người hiền trong rừng Trúc).Tính phóng khoáng, thích uống rượu và uống không biết say, có làm bài thơ Tửu đức tụng ca ngợi việc uống rượu, được truyền tụng đời sau. Một hôm, ông bảo vợ đi lấy rượu. Vợ ông đổ rượu đi và đập bể vò rượu, khóc mà can rằng: “Ông uống rượu nhiều quá, không phải là cái đạo nhiếp sinh, ông phải bỏ bớt rượu đi”.Lưu Linh nói: “Phải, ta không thể tự cấm được, phải cầu quỷ thần lên để thề nguyện mới được.Vậy phải đủ rượu thịt làm lễ chứ!”.Vợ liền nghe lời, lo sắm sửa đủ các thứ. Xong, Lưu Linh bèn quỳ mà khấn rằng:

"Thiên sanh Lưu Linh,  / Dĩ tửu vi danh,

Nhất ẩm nhất hộc, /  Ngũ đẩu giải tỉnh,

Phụ nhân chi ngôn,  / Thận bất khả thính.”

Dịch nghĩa:

Trời sanh Lưu Linh, / Lấy rượu làm danh,

Mới uống một vò, / Năm đấu giải tỉnh,

Lời nói đàn bà,  / Cẩn thận đừng nghe.


Khấn xong thì ngồi uống hết năm đấu rượu rồi nói “Quỷ thần không cho ta bỏ rượu!”.

Tản Đà cũng có câu “Trời sinh ra bác Tản Đà”, hẳn là ngưỡng mộ Lưu Linh! Nhưng Tản Đà không thể “say tuyệt đối” như Lưu Linh mà là “nửa tỉnh nửa say”! Vì thế, bao trùm và sâu lắng trong hồn thơ Tản Đà vẫn là cái điệu buồn vô cớ, cái nỗi sầu đằng đẵng và cái tình vô hình, vô ảnh, những yếu tố muôn đời của chủ nghĩa lãng mạn… đó là sự cô đơn vĩnh hằng:

    Suối tuôn róc rách ngang đèo,
    Gió thu bay lá bóng chiều về tây
    Chung quanh những lá cùng cây,
    Biết người tri kỷ đâu đây mà tìm...
    (Vô đề)


Làn cây khuất bóng trăng tà,
Đêm thu một khắc quan hà mấy mươi
Nhớ ai đất khách quê người,
Nhớ ai góc bể bên trời bơ vơ.
(Nhớ ai)


*

Trong cuốn 40 năm nói láo, nhà văn, nhà báo Vũ Bằng có “ký họa” chân dung Tản Đà thật sinh động, thật sắc nét. Vì thế, tôi xin mượn bức “ký họa” chân dung Tản Đà đó của Vũ Bằng để tạm ngưng bài viết này: “…Tản Đà, thấy tôi vào, cứ ngồi ỳ ra không thèm đứng dậy; một lúc lâu mới nhìn tôi một hồi như thể nhìn thằng ăn cắp, rồi “à” một tiếng và bảo tôi ngồi xuống ghế. Thì ra ông ta đang say. Bên cạnh ông là một cái hỏa lò than cháy râm râm, trước mặt là một cái mâm nhỏ trên bày thức ăn bừa bãi. Ông ta uống một tợp, gắp một miếng, khà một cái, hơ tay vào lò than rồi… ngồi rung rung đùi ngâm, với một giọng khê nằng nặc:

Vèo trông lá rụng đầy sân / Tóc tơ ngắn ngủi có ngần ấy thôi.

Rồi ông day cái mặt tròn, đỏ như trái bồ quân, trên cắm một  cái mũi tròn xoe có hàng ngàn vạn đường gân máu chạy ngang chạy dọc như các con kênh đào vẽ trên bức bản đồ quân sự, ông nhe răng ra (tôi không biết ông cười hay mếu) nói một cách dõng dạc: “À, ông Bằng, ông có thấy không? Chữ “vèo” ấy có cho mấy khuyên son cũng chưa đủ! “Vèo trông lá rụng”, hay lắm”. Theo lời ông Vũ Hùng Toán nói với tôi sau  này, ông Hiếu suốt ngày cứ tự khen mình như thế, một tý phản đối cũng làm cho ông không bằng lòng…Vừa ngã vào làng báo, tôi gặp hai nhân vật điển hình: một ông công tử bột đánh phấn bôi môi làm cách mạng văn chương với một giọng văn cụt lủn, có khi không “suy dê”, không “vec bờ” và nổi tiếng làm tiền của gái, và một ông hủ “mớ đời”, làm báo mà chỉ lo chau chuốt một chữ trong thơ, cả ngày say rượu, không thèm biết một tý gì về tình hình quốc nội và quốc tế! Nghĩ vậy, nhưng trong thâm tâm, tôi phục sát đất cả hai ông, bởi vì thơ của một ông rung động, còn văn của một ông có tính cách mạng, trẻ trung, chứ không già khụ như Hoàng Tăng Bí (*) hay Dương bá Trạc. Tôi phục Tản Đà đã đem một cái đẹp cao siêu vào mục thi ca cho làng báo, còn Hoàng Tích Chu thì đã làm “cách mạng thực sự” trong nghề báo, dám đưa ra những cải cách mà lúc đó ai cũng cho là quá ngố. Cả hai đặc điểm đó, tôi tự xét không thể nào theo nổi, nhưng sau khi gặp…, tôi rút ra được đặc điểm thứ ba, mà đặc điểm này chung cho cả hai người: đó là tính tự phụ, coi thiên hạ như cỏ rác!...” (**).

Sài Gòn, tháng 8-2010

Đỗ Ngọc Thạch

Chú thích:

(*) Hoàng Tăng Bí (1883-1939): tự Nguyên Phu; bút hiệu: Tiểu Mai; là một sĩ phu yêu nước và nhà soạn tuồng nổi tiếng. Sinh tại làng Đông Ngạc, quận Tây Hồ, Hà Nội. Đỗ cử nhân năm 1906 và tham gia Đông Kinh nghĩa thục do Dương Bá Trạc khởi xướng năm 1907. Ông dạy học, diễn thuyết, soạn sách giáo khoa, lập thương nghiệp lấy tiền trợ cấp Phong trào Đông du. Ông bị Pháp bắt sau vụ đầu độc lính Pháp ở Hà Nội, giam lỏng tại Huế. Năm 1910, ông đỗ phó bảng, nhưng không ra làm quan, mở trường tư dạy học, viết báo Trung Bắc tân văn và soạn một số vở tuồng kêu gọi lòng yêu nước.

(**)Vũ Bằng: Bốn mươi năm nói láo, NXB Văn học 1993, tr.42-43.

 (1) Nguyễn Văn Vĩnh (1882-1936), hiệu Tân Nam Tử; là nhà tân học, nhà báo, nhà văn Việt Nam đầu thế kỷ 20; quê ở xã Phượng Dực, phủ Thường Tín, tỉnh Hà Đông, nay thuộc Hà Nội. Là người tích cực vận động truyền bá quốc ngữ, mở nhà in, làm chủ bút nhiều tờ báo: Đại Nam đăng cổ tùng báo, Lục tỉnh tân văn, Đông Dương tạp chí, Trung Bắc tân văn và một số tờ báo tiếng Pháp Notre Journal (Tờ báo của chúng ta), Notre Revue (Tạp chí của chúng ta), l’Annam nouveau (An Nam mới). Ông đã đóng góp rất nhiều trong việc phổ quát tiếng Việt qua tờ Đăng Cổ Tùng Báo (1907), tờ báo đầu tiên viết bằng chữ Quốc Ngữ tại miền Bắc. Đáng kể nhất là việc khuyến khích dùng chữ Quốc Ngữ qua tờ Đông dương Tạp chí (1913). Là người đầu tiên dịch thơ ngụ ngôn La Fontaine, truyện cổ tích Perrault, kịch Molière từ tiếng Pháp sang tiếng Việt. Bản dịch truyện Kiều sang Pháp văn của ông rất đặc sắc.

(2) Phạm Quỳnh (1892 - 1945), tên hiệu là Thượng Chi: là một nhà văn hóa, nhà báo, nhà văn và quan đại thần triều Nguyễn . Ông là người đi tiên phong trong việc quảng bá chữ Quốc ngữ và dùng tiếng Việt - thay vì chữ Nho hay tiếng Pháp - để viết lý luận, nghiên cứu. Ông được xem là người chiến đấu bất bạo động nhưng không khoan nhượng cho chủ quyền độc lập, tự trị của Việt Nam, cho việc khôi phục quyền hành của Triều đình Huế trên cả ba kỳ (Bắc, Trung, Nam).

(3) Bùi Huy Tín: (1875 - ?), người Hà Nội, là một điền chủ, nhà kinh doanh và hoạt động xã hội thời Pháp thuộc. Chủ thầu một số đoạn đường sắt ở Việt Nam . Có nhiều đồn điền ở Phú Thọ, Hà Tĩnh, Thanh Hoá, Quảng Ninh, đồng thời là chủ một số khu mỏ, nhà in, các báo Thực Nghiệp Dân báo, Tràng An báo, v.v…

(4) Trường hận ca: Hoàng đế Đường Huyền Tông, họ tên thật là Lý Long Cơ, còn gọi là Đường Minh Hoàng, vua thứ chín đời nhà Đường (618-907)…Trường hận ca là bài thơ dài nói về mối tình của Đường Minh Hoàng và Dương Quý Phi. Dương Quý Phi (719 - 756), tên là Dương Ngọc Hoàn, là một cung phi của Đường Minh Hoàng, là  một trong “Tứ đại mĩ nhân” của lịch sử Trung Quốc. Ngọc Hoàn có sắc đẹp được ví là Tu hoa, nghĩa là khiến hoa phải xấu hổ.

Lý Bạch có ba bài Thanh bình điệu ca tụng sắc đẹp của Dương Ngọc Hoàn. Bạch Cư Dị có bài Trường hận ca nổi tiếng kể về chuyện tình giữa Dương Quý Phi và Đường Huyền Tông.Bản dịch bài Trường hận ca của Tản Đà được coi là một bản dịch hay.

(5) Bạch Cư Dị (772-846) tự là Lạc Thiên, hiệu là Hương Sơn cư sĩ, là nhà thơ nổi tiếng thời nhà Đường. Tác phẩm nổi tiếng của Bạch Cư Dị ở Việt Nam là hai bài Tỳ bà hành, Trường Hận Ca.

Bạch Cư Dị chủ trương đổi mới thơ ca, thơ phải gắn bó với đời sống, phản ánh được hiện thực xã hội, chống lại thứ văn chương hình thức. Thơ ông mang đậm tính hiện thực, lại hàm ý châm biếm nhẹ nhàng kín đáo. Trường hận ca để nói mối tình đẹp của Đường Minh Hoàng và Dương Quý Phi, nhưng đọc kỹ thì những ý châm biếm, mỉa mai kín đáo đều có. Ông cùng Nguyên Chẩn đề xướng phong trào Tân Nhạc Phủ (5*). Thơ ông thấm nhuần tư tưởng nhân đạo, nhân văn. Ông hòa đồng cùng dân chúng, không coi việc làm quan của mình là gì, mà thấy mình cũng bị cuộc đời làm cho bảy nổi ba chìm chẳng khác gì người đời (Tỳ bà hành). Riêng hai bài Tỳ Bà Hành và Trường Hận Ca đã đủ tỏ tài thơ của Bạch Cư Dị. Bằng lối kể chuyện miêu tả, với chủ đề khác nhau, hai bài thơ dài của ông, bài thì bay bướm, hình ảnh đẹp, lời bình trầm lắng, ý ngoài lời, ca tụng, mỉa mai đều kín đáo; bài thì hòa đồng vào cảnh ngộ cùng nhân vật, viết lên những tâm trạng gửi gắm của cả hai, người gẩy - người nghe,vào tiếng đàn trên bến Tầm Dương, bài thơ da diết, buồn thấm thía mà nỗi đời thì vời vợi mênh mang.

(5*) Nhạc phủ nguyên là tên gọi cơ quan âm nhạc do Hán Vũ Đế (156 tr. CN - 87) lập nên, có nhiệm vụ thu thập ca dao và thơ để phổ nhạc. Bài nào được lựa chọn thì gọi là nhạc phủ khúc, sau gọi vắn tắt là nhạc phủ. Danh từ nhạc phủ dùng để chỉ nhiều thể văn có vần, phổ vào nhạc được. Trong số này, bộ phận được chọn nhiều nhất, có giá trị nhất là dân ca, bởi vậy từ nhạc phủ còn dùng để chỉ dân ca đời Hán (206 tr.CN - 220) và Lục triều (220 - 581) ở Trung Quốc. Hán Vũ Đế phong Lý Diên Niên (5*1) làm Hiệp luật đô úy, thu thập các bài ca dao, ca khúc trong dân gian, lãnh đạo việc ca xướng, phổ nhạc mới để hòa hợp với tiếng đàn sáo; lại sai Tư Mã Tương Như (5*2) và các bầy tôi giỏi văn học tuyển chế tân ca...

(5*1) Lý Diên Niên:  chuyên lo về biên soạn những điệu múa, bản nhạc cho các cung tần mỹ nữ. Lần ấy, Lý Diên Niên sáng tác ra bài thơ  Giai Nhân Ca  và dạy cho các cung nữ biểu diễn. Sau khi Hán Vũ Đế nghe được bài ca này thì nói : “Trên đời này làm sao có người nào đẹp đến thế!”. Có vị hoạn quan tâu rằng :  “Bẩm hoàng thượng! Có người con gái đẹp như thế đấy. Đó chính là em gái của Lý Diên Niên”. Hán Vũ Đế sau khi nghe nói thế liền cho truyền em gái của Lý Diên Niên vào cung. Khi tận mắt chiêm ngưỡng dung nhan của em gái Lý Diên Niên, Hán Vũ Đế đã lập tức phong nàng làm Cung phi, năm đó Lý thị vừa tròn đôi tám.Vì Lý thị rất được Hán Vũ Đế sủng ái cho nên được phong tước vị Phu nhân và người đời sau khi nhắc về em gái Lý Diên Niên thường gọi bằng “Lý Phu nhân”, người có sắc đẹp “khuynh nước khuynh thành”.

Nội dung bài thơ  Giai nhân ca như sau :

Phiên âm Hán - Việt:

Bắc phương hữu giai nhân,
Tuyệt thế nhi độc lập.
Nhất cố khuynh nhân thành,
Tái cố khuynh nhân quốc.
Ninh bất tri, khuynh thành dữ khuynh quốc,
Giai nhân nan tái đắc!

Dịch nghĩa :

    Phương Bắc có người đẹp
    Dung nhan tuyệt thế một mình nàng
    Liếc một lần làm thành người ta xiêu
    Liếc hai lần làm nước người ta đổ
    Quan tâm gì thành đổ nước xiêu
    Người đẹp khó gặp lại.


(5*2) Tư Mã Tương Như tự Tràng Khanh (179 TCN-117 TCN), người ở Thành Đô, đời nhà Hán. Là người đa tài, văn hay, đàn giỏi. Khi lìa quê lên Tràng An để lập công danh, đến con sông đầu làng, Tương Như viết trên cầu một câu: "Bất thừa cao xa tứ mã, bất phục quá thử kiều" (Không ngồi xe cao bốn ngựa, không qua lại cầu này nữa).

Khi đến đất Lâm Cùng, Tương Như vốn sẵn quen với Vương Cát là quan lệnh ở huyện, nên đến chơi. Cát lại mời Tương Như cùng đi dự tiệc ở nhà Trác Vương Tôn, vốn viên ngoại trong huyện. Nghe tiếng Tương Như đàn hay nên quan huyện cùng Trác Vương Tôn yêu cầu chơi cho một bài. Họ Trác vốn có một người con gái rất đẹp tên Văn Quân, còn nhỏ tuổi mà sớm góa chồng, lại thích nghe đàn. Tương Như được biết, muốn ghẹo nàng, nên vừa gảy đàn vừa hát khúc Phượng cầu hoàng (Chim phượng trống tìm chim phượng mái):

Chim phượng, chim phượng về cố hương,
Ngao du bốn bể tìm chim hoàng
Thời chưa gặp chừ, luống lỡ làng.
Hôm nay bước đến chốn thênh thang.
Có cô gái đẹp ở đài trang,
Nhà gần người xa não tâm tràng.
Ước gì giao kết đôi uyên ương,
Bay liệng cùng nhau thỏa mọi đường.

Nguyên văn:

    Phượng hề, phượng hề quy cố hương,
    Ngao du tứ hải cầu kỳ hoàng,
    Thời vị ngộ hề vô sở tương,
    Hà ngộ kim tịch đăng tư đường.
    Hữu diệm thục nữ tại khuê phường,
    Thất nhĩ nhân hà sầu ngã trường.
    Hà duyên giao cảnh vi uyên ương

    Tương hiệt cương hề cộng cao tường.

Sau khi Trác Văn Quân nghe khúc Phượng cầu hoàng của Tư Mã Tương Như, hai người yêu nhau thắm thiết, nhưng lại bị ông Trác Vương Tôn phản đối kịch liệt, không còn cách nào khác, hai người liền cùng nhau bỏ trốn đến Thành đô quê hương Tư Mã Tương Như. Sau Hán Vũ Đế đọc bài Tử hư phú của Tương Như, khen tài mới vời vào triều, ban chức tước. Lại sai chàng cầm cờ tiết, thay nhà vua về Ba Thục chiêu an bọn phụ lão tùng phục nhà Hán. Lần này thỏa chí bình sinh, Tương Như áo gấm vinh quy được người đón rước long trọng.Nhưng làm quan ít lâu, lại chán, cáo bệnh lui về quê.

Trong Truyện Kiều của Nguyễn Du có câu: Khúc đâu Tư Mã phượng cầu, / Nghe ra như oán, như sầu phải chăng!

(6) Bùi Giáng (1926- 1998) là một nhà thơ, dịch giả và nghiên cứu văn học.Ông nổi tiếng từ thập niên 1960 với tập Mưa nguồn. Ông còn có các bút danh khác: Bán Dùi, Bùi Giàng Dúi. Quê làng Thanh Châu thuộc xã Vĩnh Trinh, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam .

Từ năm 1957, ông lần lượt cho ra đời một loạt sách giới thiệu về văn học Việt Nam như Truyện Kiều, Lục Vân Tiên, Chinh phụ ngâm...Ông nổi tiếng bởi tốc độ sáng tác nhanh: tập thơ Mười hai con mắt được ông sáng tác chỉ trong một đêm Noel năm 1992. Từ năm 1962, Bùi Giáng liên tục cho ra đời nhiều đầu sách. Mỗi năm đều đều vài ba cuốn. Ông là một tác giả có tác phẩm in ra đứng vào hàng kỷ lục ở miền Nam Việt Nam trước 1975. Năm 1969, tất cả sách vở cùng với nhà cửa bị một cháy hết trong một cơn hỏa hoạn. Ông bị sốc nặng, từ đó trở đi ông là bệnh nhân quen thuộc của viện dưỡng trí Biên Hòa...
Thơ: Mưa nguồn (1962); Lá hoa cồn (1963); Màu hoa trên ngàn (1963); Mười hai con mắt (1964); Ngàn thu rớt hột(1967); Rong rêu (1972); Thơ vô tận vui (1987); Mùa màng tháng tư (1987); Mùi Hương Xuân Sắc (1987); Đêm ngắm trăng (1997); Dịch thuật: Trăng châu thổ; Hoàng Tử Bé; Khung cửa hẹp; Hòa âm điền dã; Ngộ nhận; Cõi người ta; Nhà sư vướng luỵ.; Khảo cứu: Tư tưởng hiện đại (1962); Martin Heidegger và tư tưởng hiện đại (1963); Đi vào cõi thơ; Thi ca tư tưởng; Một vài nhận xét về bà huyện Thanh Quan; Một vài nhận xét về Lục Vân Tiên, Chinh Phụ Ngâm, quan Âm Thị Kính; Vài nhận xét về truyện Kiều và truyện Phan Trần; Sa mạc phát tiết (1965); Sa mạc trường ca (1965); Bài ca quần đảo (1969); Mùa thu trong thi ca; Ngày tháng ngao du.

(7) Hoàng Hạc Lâu là bài thơ nổi tiếng của Thôi Hiệu . Tương truyền, Lý Bạch khi đến Hoàng Hạc Lâu định đề thơ, đã thấy thơ Thôi Hiệu trên vách, đọc xong, vứt bút, ngửa mặt than rằng:

 Nhãn tiền hữu cảnh đạo bất đắc

Thôi Hiệu đề thi tại thượng đầu..

Dịch nghĩa:

Trước mắt thấy cảnh không tả được

Vì Thôi Hiệu đã đề thơ trên đầu…

Hán-Việt

Hoàng Hạc Lâu

Tích nhân dĩ thừa hoàng hạc khứ,
Thử địa không dư Hoàng Hạc Lâu.
Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản,
Bạch vân thiên tải không du du.
Tình xuyên lịch lịch Hán Dương thụ,
Phương thảo thê thê Anh Vũ châu.
Nhật mộ hương quan hà xứ thị,
Yên ba giang thượng sử nhân sầu.


Dịch nghĩa

Lầu Hoàng Hạc

    Người xưa đã cưỡi hạc vàng bay đi,
    Nơi đây chỉ còn lại lầu Hoàng Hạc (7*)
    Hạc vàng một khi bay đi đã không trở lại
    Mây trắng ngàn năm vẫn phiêu diêu trên không
    Mặt sông lúc trời tạnh, phản chiếu cây cối Hán Dương rõ mồn một
    Cỏ thơm trên bãi Anh Vũ (7**) mơn mởn xanh tươi
    Trời về chiều tối, tự hỏi quê nhà nơi đâu?
    Trên sông khói tỏa, sóng gợn, khiến buồn lòng người!


Bản dịch của Tản Đà (dị bản):

Hạc vàng ai cưỡi đi đâu?
Mà đây Hoàng Hạc riêng lầu còn trơ
Hạc vàng đi mất từ xưa
Nghìn năm mây trắng bây giờ còn bay
Hán Dương sông tạnh cây bày
Bãi xa Anh Vũ xanh dầy cỏ non
Quê hương khuất bóng hoàng hôn
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai!

Thôi Hiệu (khoảng 704-754) là thi nhân thời nhà Đường, Trung Quốc. Đương thời, Thôi Hiệu rất nổi tiếng, nay thơ của ông chỉ còn lại hơn 40 bài, trong đó, Hoàng Hạc Lâu được coi là một trong những bài thơ hay nhất thời Đường. Cùng với Vương Duy (8), ông được coi là một trong những người tinh thông cận thể thi.

(7*) Tục truyền Phí Văn Vi thành tiên, thường cưỡi hạc về nghỉ ở Hoàng Hạc lâu.

(7**) Khu bãi bến khúc sông thuộc Vũ Xương tỉnh Hồ Bắc.

(8)Vương Duy (701-761), tự Ma Cật. Ông là một nhà thơ, một họa sĩ, một nhà viết thư pháp và một chính khách nổi tiếng đời Đường. Ông còn được người đời gọi là Thi Phật. Cùng với Lý Bạch (Thi Tiên) và Đỗ Phủ (Thi Thánh) là ba người nổi tiếng về tài thơ ca thời Đường. Tô Đông Pha (9) đời Tống khi viết về Vương Duy có câu: Vị Ma Cật chi thi, thi trung hữu họa; quan Ma Cật chi họa, họa trung hữu thi, dịch nghĩa: Thưởng thức thơ của Ma Cật, trong thơ có hoạ đồ; ngắm họa đồ của Ma Cật, trong họa đồ có thơ.

(9) Tô Thức (1037-1101), tự Tử Chiêm, một tự khác là Hòa Trọng, hiệu Đông Pha cư sĩ nên còn gọi là Tô Đông Pha, là nhà văn, nhà thơ nổi tiếng Trung Quốc thời Tống. Ông được mệnh danh là một trong Bát đại gia Đường Tống.

(Hết)

Đời sống văn nghệ

Tiêu đề của danh mụcSố truy cập
1 Tản Đà - thi sĩ của hai thế kỷ 12
2 Thơ tặng vợ của Nhà thơ Nguyễn Duy 74

6 Phê bình văn học - một cơ chế đặc thù của văn hoá 37
7 Ca trù - nơi gặp gỡ giai nhân, tài tử 55

10 Lưu Quang Vũ "Sống mãi tuổi 17" 85
20 Vũ Đình Liên - Ông đồ vẫn ngồi đấy 122

Thứ Sáu, 17 tháng 2, 2012

Hai lần bác sĩ - Đỗ Ngọc Thạch (vannghechunhat.net)

Trang chủ - Văn Nghệ Chủ Nhật

Thứ sáu, 17 Tháng 2 2012 18:42 TRUYỆN - Truyện ngắn Đỗ Ngọc Thạch
Email In PDF.

Ký ức làm báo 3

1. “Dũng sĩ diệt Giám đốc” 
Bây giờ, báo chí đều được in trên giấy tốt với màu sắc rực rỡ. Nhưng mới đây thôi, khoảng hai chục năm trước, tức là vào những năm 1980, cho đến đầu những năm 1990, phần lớn báo chí còn phải in trên những tờ giấy đen thui!
Thứ sáu, 17 Tháng 2 2012 18:36 TRUYỆN - Truyện ngắn Đỗ Ngọc Thạch
Email In PDF.

Ký ức làm báo

Ký ức làm báoTrong cuộc đời làm báo của mình, tôi đã qua nhiều chủng loại, đẳng cấp: Tạp chí Nghiên cứu Nghệ thuật (hai tháng một kỳ, trực thuộc Bộ Văn hóa), Tạp chí Văn nghệ (một tháng một kỳ, trực thuộc Sở Văn hóa tỉnh Gia Lai-Kon Tum), Báo Lao động & Xã hội (mỗi tuần một kỳ, trực thuộc Bộ Lao động – Thương binh & Xã hội…
Thứ sáu, 17 Tháng 2 2012 18:40 TRUYỆN - Truyện ngắn Đỗ Ngọc Thạch
Email In PDF.

ký ức làm báo 2

ký ức làm báo 2Tôi bắt đầu viết báo từ thời còn là sinh viên nhưng chỉ là nổi hứng thì viết và chỉ mới biết báo chí ở sản phẩm “giấy trắng mực đen” chứ chưa biết gì về nghề báo, tức để có tờ báo “giấy trắng mực đen” đó, người ta đã phải làm những gì, tức qui trình làm báo từ A tới Z.
Thứ sáu, 17 Tháng 2 2012 18:34 TRUYỆN - Truyện ngắn Đỗ Ngọc Thạch
Email In PDF.

Hai lần bác sĩ

Hai lần bác sĩThân là năm sinh và cũng là tên, hơn tôi bốn tuổi, tức sinh năm  1944. Sang năm đói Ất  Dậu  1945, lúc đó  Thân  mới một  tuổi, một lần bà nội tôi đi chợ, thấy Thân đói lả, chỉ còn thoi thóp bên xác người mẹ đã chết ở góc chợ.

Tản Đà - thi sĩ của hai thế kỷ

Trong bài Cung chiêu anh hồn Tản Đà in ở đầu cuốn Thi Nhân Việt Nam của Hoài Thanh - Hoài Chân, có đoạn:
Đọc thêm... Thêm bình luận mới

Hai lần bác sĩ

Thứ sáu, 17 Tháng 2 2012 18:34 TRUYỆN - Truyện ngắn Đỗ Ngọc Thạch
Hai lần bác sĩThân là năm sinh và cũng là tên, hơn tôi bốn tuổi, tức sinh năm  1944. Sang năm đói Ất  Dậu  1945, lúc đó  Thân  mới một  tuổi, một lần bà nội tôi đi chợ, thấy Thân đói lả, chỉ còn thoi thóp bên xác người mẹ đã chết ở góc chợ.
Bà tôi đem Thân về nuôi. Không hiểu do bà tôi mát  tay hay Thân  là một đứa bé hay ăn mau lớn mà chỉ hai, ba năm sau nó đã lớn nhanh  như thổi, chạy nhảy tung tăng khắp nơi. Khi tôi được ba tuổi,  mẹ  tôi gửi  tôi cho  bà  nội và Thân trở thành  “vệ sĩ” của tôi, cõng tôi đi chơi rong khắp làng. Lúc đó, ông nội tôi đang hành nghề chữa bệnh, lấy hiệu là  Đại  Đạo, tức cứu người  là chính, ai có tiền thì trả, ai nghèo quá thì ông tôi chữa bệnh miễn phí ! Còn bà nội tôi, vốn là con gái một ông chủ hiệu ở phố Thuốc Bắc Hà Nội, theo ông tôi lên miền đất Trung du này thì sản xuất trà và giấy gió. Hai mặt hàng này lúc đó bán khá chạy nên phải nói là mức sống ở nhà ông bà nội tôi khá cao. Ngoài một vệ sĩ ra, tôi còn có riêng một nhũ mẫu (ở quê tôi gọi là “U”, còn xã hội gọi là “vú em”, “vú em” của tôi gọi là “U Tiến”, Tiến là tên gọi của tôi lúc nhỏ, do có phong trào “Nam tiến” lúc đó. Bố tôi tham gia “Nam tiến”, mẹ tôi tham gia “Phụ nữ cứu quốc” rồi đi học một khóa sư phạm ở chiến khu, cho nên tôi sống với ông bà nội và người gần gũi tôi nhất chính là U Tiến rồi đến vệ sĩ Thân. U Tiến coi tôi như con đẻ, tôi cũng coi U như mẹ đẻ. Đối với vệ sĩ Thân, tôi rất thích, tuy Thân là người ở nhưng tôi luôn gọi Thân là anh xưng em, còn Thân thì cứ một cậu chủ hai cậu chủ. Tôi phải cảm ơn Thân rất nhiều vì anh ta đã cõng tôi đi khắp nơi và thường cõng tôi ra tắm sông. Đó là con sông tên Thao gắn liền với câu ca :”Sông Thao nước đục người đen/ Ai lên Vũ Ẻn thì quên đường về”. Nhờ vậy mà tôi biết bơi rất sớm. Tuy thế, việc Thân hay cõng tôi đi tắm sông đã khiến anh ta bị tai nạn khá nghiêm trọng: một lần, Thân nhảy từ trên một cành cây chìa ra sông xuống sông đã  bị một cái cọc ngầm dưới nước đâm trúng  “hạ bộ”, nếu không nhờ ông tôi cứu chữa kịp thời, chắc anh ta đã chết lần thứ hai!
Sau lần bị thương, Thân xin với ông tôi học nghề thuốc, nhưng chỉ được vài tháng thì cuộc kháng chiến chín năm kết thúc, cả ông bà đều về Hà Nội ở với bố tôi và ông  chú,  đó là vào cuối năm 1954 đầu năm 1955. Lúc đó Thân mười một tuổi, còn tôi mới bảy tuổi. Tôi không hiểu sao lúc đó Thân không đi với ông bà tôi về Hà Nội.Tôi hỏi bà thì bà bảo:”Ông chủ tịch xã xin nó làm con nuôi rồi!”, thế là  tôi  mất  vệ  sĩ  từ  đó !
Thời gian như bóng câu qua cửa sổ  ai  đó nói chẳng sai . Thoắt cái đã mười năm trôi qua, tôi  tốt  nghiệp phổ thông trung  học và có giấy gọi vào Khoa Toán  trường  Đại học Tổng hợp Hà  Nội. Lúc tôi chuẩn bị nhập trường thì bất ngờ gặp lại Thân. Gặp lại Thân, tôi mừng quá, cứ nắm chặt tay Thân mà nói không ngừng :
- Trời ơi  ! Nhớ anh quá ! Hồi mới về Hà Nội, cứ đi ra đường phố là bị bọn trẻ con xúm vào bắt nạt, đá đít véo tai,  rồi lại  lục cặp sách lấy hết bút, tẩy và cả mấy hòn bi ve nữa, tức quá mà không làm gì được chúng ! Giá như có anh đi cùng  thì chúng  đâu có dám ngang ngược như vậy ! Rồi hồi mới về  Hải Phòng này cũng bị bắt nạt như thế, mỗi lần gặp mấy thằng học sinh trường  Miền Nam số 21 là lại bị trấn lột sạch sành sanh ! Những lúc ấy em chỉ ao ước có anh ở bên cạnh, vậy mà anh đã ở đâu ?
Thân cười cười rồi nói :
- Thôi, chuyện đã qua cho qua,  nhắc đến làm gì nữa ! Gặp lại cậu thế này là tốt rồi ! Tôi được biết cậu học rất giỏi, nay lại sắp trở thành nhà Toán học, mừng cho cậu !
- Làm sao anh biết ? – Tôi ngạc nhiên hỏi .
- À, rất đơn giản, tôi làm việc ở ban tuyển sinh thành phố. Khi thấy tên cậu, tôi cũng muốn tìm gặp cậu ngay để hàn huyên sau bao năm xa cách nhưng ngặt nỗi công việc quá bận rộn. Hôm nay tôi và cậu phải làm một chầu túy lúy !
Đây là lần đầu tiên tôi uống  rượu nên chỉ sau hai li  đã say mèm, nhưng sau khi Thân cho tôi uống một li  nước chanh giã  rượu, tôi lại có thể cụng li ba lần nữa ! Sau một hồi nói rất dài về nghệ thuật uống rượu,  Thân nói với tôi :
- Cậu đã được vào đại học rồi, chẳng cần đến cái bằng tốt nghiệp phổ thông trung học kia nữa, cậu cho tôi, mai  tôi làm vệ sĩ  đưa cậu tới trường  nhập học !
Nghĩ  tới việc được đi với  Thân, tôi thích quá, đồng ý ngay, chẳng hề nghĩ xem Thân xin cái bằng của tôi  để làm gì ?
*
Sau lần làm vệ sĩ đưa tôi tới trường đại học, phải đến mười lăm năm sau tôi mới gặp lại Thân, cũng rất bất ngờ. Lúc đó tôi  đang làm việc ở Viện  Văn học. Ngày ngày làm con mọt sách, tối  đến thì nằm ngủ ngay trên bàn viết ! Việc ăn uống  lúc đó quả  là rất kham khổ, nộp hết  tem  phiếu và mười  tám ngàn đồng  cho một cửa hàng ăn uống nào đó, bạn sẽ có sáu mươi cái phiếu cơm cho cả tháng (tất nhiên tháng nào có 31 ngày thì bạn phải tự giải quyết). Mỗi suất cơm chỉ  là một đĩa cơm nhẹ như bấc và một chén thức ăn mặn (thường là  đậu phụ kho thịt bạc nhạc) và một chén canh lõng bõng. Ăn xong có cảm giác như đói  hơn ! Trên đường chúng tôi đi ăn cơm tháng, phải qua phố  Tạ Hiền – một con phố của người Hoa, chuyên bán đồ ăn đặc sản, lúc nào cũng  sào nấu thơm lừng, thật quá tra tấn. Một hôm, tôi vừa tới phố Tạ Hiền thì gặp Thân đứng chắn lù lù trước mặt. Tôi chưa kịp hết ngạc nhiên thì Thân đã lôi tôi vào trong quán ăn từ lúc nào !  Sau vài phút hàn huyên bên những món ăn thơm nức, Thân mới từ tốn nói :
- Đúng là anh em mình có duyên nợ với nhau từ kiếp trước !  Cứ nghĩ lại cái thời thơ ấu,  ngày ngày cõng cậu đi tắm sông tớ thật mãn nguyện, giá như ta  có thể đi ngược thời gian !...Tớ biết cậu về Viện Văn học đã lâu,  nhưng ngặt  nỗi công việc  bù đầu, không dứt ra được ! Cậu như vậy là tốt rồi, ráng chờ một suất đi nghiên cứu sinh nước ngoài  sẽ đổi đời ngay thôi ! Còn tớ, đang làm cán bộ tổ chức ở Bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp, cũng đủ ăn nhưng lắm chuyện lôi thôi, không phải là kế lâu dài. Vì thế, tớ phải  đoạt được cái bằng đại học !
- Thì anh xin dự thi đi, ở chỗ anh, muốn thi vào trường nào mà chả được ! – Tôi nói.
- Nói thì dễ nhưng làm thì khó ! Tớ đã gần bốn mươi rồi, lại vợ con đùm đề, không có đầu óc đâu mà ôn thi nữa, mà thi chưa  chắc đã đỗ ! Vì thế, tớ nói thật với cậu, cái bằng tốt  nghiệp đại học của cậu chẳng cần với cậu  nữa, nhưng lại rất cần với tớ! Cậu đừng có ngạc nhiên như thế! Cậu hãy cho tớ cái bằng của cậu, tớ chỉ việc tẩy tên cậu đi, viết tên tớ vào là xong!
- Làm thế sao được? – Tôi thật sự ngạc nhiên.
- Cậu yên tâm. Việc gì cũng có thể làm được, cậu không nghe người ta thường nói:”chuyện gì cũng có thể xảy ra” à? Tớ làm  xong chuyện cái bằng, sẽ làm lại hồ sơ rồi chuyển vào miền Nam , trong đó ở đâu cũng thiếu cán bộ. Với cái bằng đại học, tớ có thể làm phó thậm chí giám đốc cấp Sở ở các tỉnh, rồi dần dần chuyển về trung tâm của miền Nam là Sài Gòn hòn ngọc Viễn Đông! Tớ đã xem tử vi tướng số rồi, cái số tớ sẽ phất mạnh ở Phương Nam ngập nắng !...
Tại tôi là người dễ mềm lòng, hay là tại những năm tháng tuổi thơ Thân ngày ngày cõng tôi đi khắp xóm làng cứ hiện về rõ mồn một, khiến tôi không thể từ chối yêu cầu của anh ta? Có lẽ tại cả hai! Khi tôi đưa cái bằng tốt nghiệp đại học của tôi cho Thân, anh ta đưa lại cho tôi mười cái bản sao và vừa cười vừa nói:
-    Rồi cậu sẽ có được cái bằng cao hơn là phó Tiến sĩ!...
Thân còn nói gì nữa nhưng  tôi như chỉ nghe thấy tiếng gió ù ù thổi và tôi bỗng thấy lạnh run…
*
Chỉ vài tháng sau khi tôi cho Thân cái bằng đại học, anh ta chuyển đi miền Nam thật. Tôi nghĩ có lẽ sẽ chẳng bao giờ gặp lại nhau nữa vì đã kẻ Bắc người Nam đường xa diệu vợi ,mà  làm cái nghề “ngâm cứu” như tôi có lẽ chẳng bao giờ đi đâu xa! Song, cuộc đời lại không yên ả như vậy. Một thời gian sau, tôi bỏ Viện văn học mà sang làm biên tập ở một tờ tạp chí về văn hóa nghệ thuật, những tưởng  có nhiều cơ hội cho việc “viết lách”, sẽ có nhiều “nhuận bút”, sẽ tăng thêm thu nhập. Nhưng thật ra, khoản thu nhập có tăng thêm nhưng không đáng kể, bởi nói chung “nhuận bút” rất thấp, đúng như câu nói “văn chương rẻ như bèo”! Tôi phải nhận bản thảo ở các nhà xuất bản, vừa đánh máy vừa biên tập để tăng thu nhập! Song,  công bỏ ra mười nhưng thu về chỉ được năm, tức lỗ vốn!...Thế rồi một loạt sự kiện lớn ập tới: lấy vợ, vợ thất nghiệp mà lại đẻ con, hết tuổi đi thi nghiên cứu sinh, mẹ mất…khiến cho tôi có ý định đi đâu đó để thoát khỏi cuộc sống khó khăn lúc đó! Vừa hay có ông giám đốc một Sở Văn hóa ở Tây Nguyên lấy vợ là  nhà sưu tầm folklore ở Viện Văn hóa nghệ thuật, cùng khuôn viên với cơ quan Tạp chí Nghiên cứu của tôi, muốn tôi vào Sở Văn hóa của ông giúp ông làm công tác xuất bản và ra Tạp chí Văn nghệ cho Sở, vậy là tôi đi liền, dù chưa hề biết cái tỉnh ở Tây Nguyên đó nó mặt ngang mũi dọc như thế nào, đúng như câu “cũng đành nhắm mắt đưa chân / thử xem con tạo xoay vần tới đâu?”. Rồi hai năm sau đó, cuộc đời xô đẩy tôi tới Sài Gòn, cứ như là một trò chơi của số phận! Và ở đây, tôi đã gặp lại Thân, trong một hoàn cảnh  đặc biệt…
Lúc đó, ban ngày tôi làm thuê cho một lò bánh ngọt ở quận 5, tối đến thì làm bảo vệ cho một ki-ốt bán đồ chơi điện tử ở quận một, ngay trên đường Nguyễn Huệ - nơi là chợ hoa của Sài Gòn rất nhiều năm. Gọi là bảo vệ nhưng thực ra là chỉ việc đến ngủ trong ki-ốt đó, kẻ trộm thấy có người ở trong ki-ốt sẽ không cạy cửa vào ăn trộm!...Tuy nhiên, xung quanh ki-ốt về đêm lại rất phức tạp: xì ke, ma túy và mua-bán dâm là hoạt động thường xuyên, không ngưng nghỉ, bất kể mưa gió…Tôi vào ki-ốt là ngủ liền, vì  làm thợ bánh cả ngày đã thấm mệt. Đêm hôm đó, tôi đang mơ màng thì nghe có tiếng rên rỉ bên ngoài ki-ốt. Ra xem thì thấy một ông khoảng gần sáu mươi đang nằm bệt, đầu bị đánh bằng vật cứng, máu còn đang nhểu ra, đầm đìa. Nhìn thấy tôi, ông ta năn nỉ:
-    Cậu cứu tôi với! Tôi bị nó lừa vào đây “đi dù”, chưa làm được gì thì bị một  đứa khác đập vào đầu, rồi chúng lấy hết tiền và đồng hồ, lại tháo cả cái nhẫn cưới đính hạt xoàn của tôi nữa !... Trời ơi!...
Tôi chạy đi kêu xích lô, nói chở tới bệnh viện, nhưng ông ta nói:
-    Đừng tới bệnh viện, vợ tôi mà biết thì nó cắt dái ! Cho tôi tới một phòng mạch tư nào đó!...
-    Phòng mạch tư thường chỉ làm việc tới tám giờ tối, làm gì có ai làm việc tới nửa đêm? – Tôi bực mình la lên.
-    Có đấy, cái gì cũng có! – ông xích lô hỏi tôi – cậu có tiền trả giùm ông ấy không, tôi chở đi?
“Cứu người như cứu hỏa”, tôi bảo ông xích lô khiêng ông kia lên xe, và như là một quán tính, tôi ngồi lên xe đi theo nạn nhân tới phòng mạch tư. Lòng vòng một lúc, chiếc xích lô đưa chúng tôi tới một con hẻm lớn và dừng lại trước một căn nhà hai lầu, có cái cổng sắt lớn, trên cổng là tấm biển  với những chữ lớn: “Bác sĩ BÁC SĨ – chuyên trị Nhi khoa, Phụ khoa”. Có vẻ như là  một bác sĩ và một y tá đang trực, họ giải quyết thành thục và mau lẹ. Khi băng bó xong xuôi thì từ trên lầu có một người đi xuống, có vẻ như là chủ nhà. Mà đúng là chủ nhà thật, và tôi trố mắt kinh ngạc khi nhận ra người đó chính là Thân !...
*
Suốt đêm hôm đó, tôi ngồi nhâm nhi với Thân tại phòng mạch và nghe Thân kể đủ chuyện về sự đời của Thân và của rất nhiều người khác. Lúc đó là năm 1987, tức chúng tôi chia tay nhau đã sáu năm. Sáu năm qua đó, Thân đã kinh qua khá nhiều  chức vụ quan trọng ở các tỉnh miền Nam, thấp nhất là phó giám đốc Sở, cao nhất là phó chủ tịch tỉnh. Trong thời điểm  có bước chuyển biến mới của đất nước mà sau này người ta thường gọi là thời kỳ  Mở  cửa, Cởi  trói, Thân chuyển về Sài Gòn và làm  việc ở một cơ quan đặc biệt thuộc Trung ương. Căn nhà phòng mạch này là “Cơ sở hai” của Thân do bà “quý  phi”  tên Nụ cai quản. Khi nghe tôi hỏi tại sao phòng mạch có tên như vậy, Thân cười cười rồi nói :
-  À, quên chưa nói với cậu chuyện này : tớ đã đổi tên là Bác Sĩ và đã lấy được thêm hai cái bằng đại học tại chức : một là Y dược và một là quản trị kinh doanh. Lấy bằng tại chức dễ ợt, không như bằng chính qui của cậu ! Cái phòng mạch của tớ người ta thường gọi  là  “Hai lần Bác Sĩ”, tiền vô như nước !
-  Chữa bệnh không phải chuyện đùa đâu, không khéo giết người như bỡn ! – Tôi ngập ngừng nói.
Thân lại cười, lần này cười to,  nghe rất sảng khoái :
-  Cậu lại lo bò trắng răng rồi! Tớ đã thuê hai bác sĩ và hai y tá, thay nhau làm việc 24/24. Bà “Quý phi” của tớ cai quản phòng mạch rất giỏi, bà ấy vốn là cán bộ tổ chức của Sở Y  tế mà ! Xem ra, ai đã kinh qua công tác tổ chức cán bộ thì chuyển sang làm kinh doanh đều rất hiệu quả! Nhất lại là kinh doanh nhân mạng !...
Chắc là Thân còn nói nhiều về chuyện kinh doanh nữa nhưng  tôi như người mộng du và cái thuở thơ bé sống bên ông nội tôi  bỗng như trở về từng ngày, từng ngày…Tôi thấy nhớ ông nội da diết và bỗng có ý nghĩ :  Tại sao tôi là cháu đích tôn của ông mà lại không nối nghiệp ông? Đúng lúc đó thì Thân vỗ vai tôi nói nhỏ :
-  Hình như là cậu đang nghĩ về ông Đại Đạo phải không ? Nếu tôi đoán không nhầm thì cậu đang tự trách mình là tại sao lại không nối được cái nghề cao quý của cha ông, đúng không ?
Không đợi cho tôi trả lời, Thân đưa ra kế hoạch sẽ đầu tư cho tôi mở một phòng mạch Đông Y ở phía đối diện với phòng mạch “Hai lần Bác Sĩ”  của Thân. Nhà đối diện đó mang ơn  cứu mạng đối với Thân nên sẽ cho thuê nguyên tầng trệt với giá  rất hữu nghị, chi phí ban đầu (như đồ nghề, tiền thuê hai lương y…)  sẽ do Thân ứng cho hết !  Tôi còn biết nói gì hơn ngoài nghe theo !...
Tôi lấy tên hiệu phòng mạch Đông Y là  Đại Đạo và đi kiếm đủ loại sách báo nói về Đông Y, ngày thì quan sát hai lương y làm việc, đêm thì ngồi đọc sách . Tôi dự tính trong vòng  một năm sẽ nắm được những điều cơ bản, sau đó sẽ đi  tu  nghiệp về châm cứu ở chỗ giáo sư Nguyễn Tài Thu,  chắc hẳn ông sẽ đồng  ý thu nhận tôi làm đệ tử vì ông vốn là bạn thân  của bố mẹ tôi từ hồi ở quân Y viện.
Thời gian trôi thật nhanh khi người ta muốn làm được nhiều việc. Khi giáo sư Tài Thu đồng ý nhận học trò, tôi ra Hà Nội. Nhưng chỉ ba bảy hai mươi mốt ngày, chưa kịp học được gì thì nhận được tin Thân bị tai nạn giao thông :  Chiếc xe du lịch chở gia đình Thân đi từ Đà Lạt về đã lăn xuống vực, không ai chết nhưng đều bị thương nặng, riêng Thân, khi tỉnh lại thì đã trở thành người mất trí !
Khi tôi về đến phòng mạch  “Hai lần Bác Sĩ”  thì thấy Thân đang ngồi một mình trong phòng khách, ghế sa-lon Thân đang ngồi ngổn ngang cứt đái, nhưng trên bàn thì được viên tròn và xếp thành hàng lối. Thân không  biết có tôi tới, vẫn mải mê với việc vo viên những cục phân của mình, mồm thì luôn nói : “Thập hoàn đại bổ! Mại vô, mại vô!...”./.

TP.HCM, 2005 - 2009
Đỗ Ngọc Thạch

Thứ Hai, 13 tháng 2, 2012

Thơ tặng vợ của nhà thơ Nguyễn Duy - Đỗ Ngọc Thạch

Ảnh riêng

Trang chủ - Văn Nghệ Chủ Nhật

Chủ nhật, 12 Tháng 2 2012 19:33 TRUYỆN - Truyện ngắn Đỗ Ngọc Thạch

Bảo vệ danh tiết (chùm truyện mini)

Bảo vệ danh tiết (chùm truyện mini)1. Họa phúc không lường
Hai vợ chồng ông Đinh May đều đã về hưu, tài hèn sức mọn nên chỉ sống nhờ vào quán trà nhỏ lúc tuổi già.
Chủ nhật, 12 Tháng 2 2012 19:28 TRUYỆN - Truyện ngắn Đỗ Ngọc Thạch

Đề tài nghiên cứu khoa học (chùm truyện  mini)

1- Thay đổi số phận
Sa Phi là người phụ nữ có tướng sát phu nổi tiếng cả một vùng : người đàn ông nào cưới cô xong cũng chết bất đắc kỳ tử ngay sau đêm tân hôn. Có ông vào hàng quan chức họ Trần, sau vụ làm ăn thua lỗ, mất cả chì lẫn chài tức mất cả chức quyền lẫn tiền bạc chỉ còn hai bàn tay trắng !

Thơ tặng vợ của Nhà thơ Nguyễn Duy

Thơ tặng vợ của Nhà thơ Nguyễn DuyTrong tập thơ VỀ (tập hợp những bài viết từ 1990 đến 1994) xuất bản cuối năm 1994, nhà thơ Nguyễn Duy đã thể hiện rất rõ quan điểm mỹ học "Về với cội nguồn" của thơ Nguyễn Duy:

http://xunghe.vn/uploads/images/2008/06/2591.jpg

Thơ tặng vợ của Nhà thơ Nguyễn Duy

Thơ tặng vợ của Nhà thơ Nguyễn DuyTrong tập thơ VỀ (tập hợp những bài viết từ 1990 đến 1994) xuất bản cuối năm 1994, nhà thơ Nguyễn Duy đã thể hiện rất rõ quan điểm mỹ học "Về với cội nguồn" của thơ Nguyễn Duy:
Rơm rạ ơi ta trở về đây
xin cúi lạy vong linh làng mạc
bà và mẹ hóa cánh cò cánh vạc
ông và cha man mác kiếp trâu cày

Rơm rạ ơi ta trở về đây
ngôi chùa cũ mái đình xưa khuất bóng
cỏ áy vàng bãi tha ma vắng
lòng ngổn ngang gò đống tổ tiên nhà...
 
(Về đồng)
 
Những câu thơ nặng trĩu hồn quê, lay động tận trong sâu thẳm tâm linh và như từ lúc nào đưa người đọc trở về với bản ngã, với những gì con người nhất. Một lần tôi hỏi Nguyễn Duy, tại sao một con người có máu lang bạt kỳ hồ rất mạnh như anh lại ra hẳn một tập thơ VỀ, anh nói rất rõ:”Đường về trên đồ thị thời gian của thơ tôi như một vòng luân hồi. Tôi đã thử theo nhiều nẻo đường thơ mong đi tìm cho mình một giọng điệu lạ, lòng vòng mãi, lại lần mò về chính cái điểm khởi đầu cuộc hành trình của mình, đó là thơ sáu tám. Kế đó là đường về trên đồ thị không gian thơ tôi, lang bạt hết miền đất này sang vùng trời nọ, rồi lại trở về với vũ trụ chính mình nơi có tất cả những gì gần gũi, thân thuộc, máu thịt nhất của mình. Thêm nữa là sự trở về trong tâm linh, làm thức dậy ký ức cùng những giá trị tinh thần đang rũ rượi ngủ mê hoặc đang chết dần trong lòng mình. Thêm nữa là… về già, về vườn, về nhà với vợ…”.
 
 
Và thế là chúng ta có tập thơ VỢ ƠI…Tập thơ VỢ ƠI…(tập hợp 18 bài viết từ 1971 đến 1994 do NXB Phụ nữ xuất bản cuối năm 1995) là sự về với vợ trăm phần trăm của thơ Nguyễn Duy. Những bài thơ này đã in rải rác trong các tập thơ trước đó của Nguyễn Duy, lúc đó, đặt bên cạnh những bài thơ có tinh thời cuộc bức xúc, nóng bỏng khác, những bài thơ về với vợ có vị trí khiêm nhường, tĩnh lặng, giản dị… Nhưng khi được tập hợp lại thành một chủ đề về với vợ thì tập thơ “VỢ ƠI…” khiến người đọc giật mình về độ lớn cũng như chiều sâu của hình tượng văn học NGƯỜI VỢ trong thơ Nguyễn Duy. Xin dẫn lại nguyên văn bài thơ “Vợ ơi…” và tôi tin rằng bất kỳ bậc mày râu nào cũng sẽ thấy mình bé nhỏ trước người vợ bình dị mà vô cùng lớn lao khi trở về với vợ :
Khi trong túi có mấy đồng ngọ nguậy
ta chạy rông như gì nhỉ - quên đời
lúc xơ xác bờm xơm từng sợi tóc
đói lả mò về
                  cơm đâu
                            vợ ơi…

*

Và tao tác bạn bè cơn hoạn nạn
đòn du côn tóe máu tâm hồn

 
Và tung tóe cả bướm vàng bướm trắng
này giọt cay giọt đắng giọt buồn nôn
 
móc họng mửa ra cầu vồng bảy sắc
vợ dìu ta
            từng bậc
                     thang mòn

*

Đêm huyền ảo một kinh kỳ se lạnh
một mình ta cô quạnh giữa muôn người
mặt sông lạ gợn nếp nhăn đuôi mắt
bủn rủn buồn
              ta thầm kêu
                             vợ ơi…
(Praha,7-1990 – Hà Nội,12-1990)
 
 
“Về với vợ” là một nẻo về có vị trí đặc biệt quan trọng trong tâm linh thơ Nguyễn Duy được viết bằng những câu thơ ấn tượng mạnh. Nếu như ở tập thơ VỀ vừa nói ở trên con có gì đó trừu tượng, mông lung, huyền ảo thì ở đây vợ là Cõi về cụ thể:
Mải nưng nứng mộng siêu nhân
lên cơn giá vũ đằng vân giang hồ

 
Cuộc chơi hành hiệp lơ ngơ
vắt mình ra mấy giọt thơ nhạt nhèo

 
Dần mòn con chữ tong teo
liêu xiêu lều quán lèo tèo ven đê

 
Cánh buồm mây tướp chiều quê
Ruỗng
tênh hênh
        bịch
rơi
     về
          cõi em
( Cõi về )
 
Ta mơ màng ta uốn éo ta lả lơi
để mặc kệ mái nhà xưa dột nát
mặc kệ áo quần thằng cu nhếch nhác
mặc kệ bàn tay mẹ nó xanh xao

 
Ta rất gần bể rộng với trời cao
để xa cách những gì thân thuộc nhất
nồi gạo hết lúc nào ta chả biết
thăm thẳm nỗi lo trong mắt vợ u sầu

 
Viên thuốc nào dành để lúc con đau
vợ nằm đó xoay xở mần răng nhỉ
cơn hoạn nạn bỗng làm ta tĩnh trí
ngọn gió tha hương lạnh toát gia gà
( Bán vàng )
 
 
Trong cuộc đời Nguyễn Duy, cái nạn lớn nhất là vợ ốm và có lẽ qua cái đại hạn này, nhà thơ mới hiểu hết vị trí cũng như giá trị của người vợ trong cuộc đời thi nhân:

1
Vừa một xuân lại một xuân
vợ ơi đại hạn đã gần một năm
 
một nhà là sáu mồm ăn
một thi nhân hóa phăm phăm ngựa thồ
2
 
Cái lưng em sụm bất ngờ
tứ chi anh lõng thõng quơ rụng rời
thông thường thượng giới rong chơi
trần gian choang choác sự đời tùy em
3
 
Nghìn tay nghìn việc không tên
mình em làm cõi bình yên nhẹ nhàng
thình lình em ngã bệnh ngang
phang anh xát bát xang bang sao đành
4
 
Cha con chúa Chổm loanh quanh
anh như nguyên thủ tanh bành quốc gia
việc thiên việc địa việc nhà
một mình anh vãi cả ba linh hồn…
 
( Vợ ốm )
Nguyễn Duy thường có những câu thơ mạnh cả về ngữ nghĩa và âm thanh và thường là thiên về cách nói cay độc, nhiều khi thái quá. Nhưng khi về với vợ, nhũng câu thơ của anh như được chuốt ra từ bàn tay diệu kỳ của người vợ thành những vần thơ lung linh – đó là những vần thơ “thi trung hữu họa” về chân dung người vợ :
 
Mùa xuân trở dạ dịu dàng
hoa khe khẽ hé nhẹ nhàng hương bay

 
Nhẹ nhàng lộc cựa nách cây
dịu dàng vương dải tím mây ngang chiều

 
Nhẹ nhàng tiếng bóng xiêu xiêu
em ngồi chải tóc muối tiêu dịu dàng

 
 
Má hồng về xứ hồng hoang
tóc rơi mỗi sợi nghe ngàn lau rơi

 
Dịu dàng vang tiếng mắt cười
bỏ qua sấm chớp một thời xa xăm

 
Bỏ qua tội tháng nợ năm
tự nhiên giọt nước mắt lăn nhẹ nhàng…
 
( Dịu và nhẹ )
Mỗi độ xuân về Tết đến  Nguyễn Duy đều có thơ cho vợ và phải nói đó là những cảm hứng thi ca đẹp nhất của hồn thơ Nguyễn Duy và cũng là những bài thơ được đông đảo bạn đọc đồng cảm nhất, bởi khi nhà thơ về với vợ là về với tình yêu vợ chồng bình dị mà vô hạn – đó mới chính là THƠ TÌNH trọn vẹn nhất, cao đẹp nhất:
 
Ứa nước mắt mà yêu nhau trọn vẹn
khấp khểnh đường dài thập thễnh bon chen
lắm lúc chữ nghĩa vô nghĩa tuốt
bàn tay bé con phủi bụi ưu phiền

 
Trời cho sống ta cũng già em ạ
con thương cha không bằng bà thương ông
tình như rượu chôn lâu đằm lịm lại
cuối đời đem ra nhấm mới mềm lòng…

(Yêu)
Đỗ Ngọc Thạch
nguồn: vannghechunhat.net

xem thêm bài cùng chuyên mục của Đ.N. Thạch:

Đời sống văn nghệ

Tiêu đề của danh mụcSố truy cập
1 Thơ tặng vợ của Nhà thơ Nguyễn Duy 2



2 Phê bình văn học - một cơ chế đặc thù của văn hoá 33
3 Ca trù - nơi gặp gỡ giai nhân, tài tử 48


4 Lưu Quang Vũ "Sống mãi tuổi 17" 81






Đỗ Ngọc

Chủ Nhật, 12 tháng 2, 2012

Ký ức Hà Nội - Truyện ngắn Đỗ Ngọc Thạch

Đỗ Ngọc Thạch - Ký ức Hà Nội

Truyện Ngắn

Đỗ Ngọc Thạch - Ký ức Hà Nội
12.02.2012-13:53

@ Thư viện Đỗ Ngọc Thạch
Ký ức Hà Nội
TRUYỆN NGẮN CỦA ĐỖ NGỌC THẠCH
 
       Tuổi thơ đi rồi mãi mãi lìa xa
       Chẳng còn bao giờ mong trở lại
       Tim vẫn hát điệu vần  khôn cưỡng lại
       Tình yêu như sao trời mọc trên đầu ta!...

Ngay sau ngày giải phóng Thủ đô, gia đình tôi chuyển về Hà Nội, từ chiến khu. Bố tôi  làm việc ở Bệnh viện quân đội 108 (còn gọi là bệnh viện Đồn Thủy) nuôi cả nhà, gồm mẹ tôi và năm chị em. Lúc đó, tôi chưa tới mười tuổi nên không thể nhớ lại  được  bố mẹ tôi đã xoay trở ra sao để nuôi  một đàn con chúng tôi ăn học giữa chốn thị thành này. Tôi  cũng không có ý thức gì về sự giàu nghèo vì cho tới lúc này, tôi vẫn chưa biết mặt mũi đồng tiền nó như thế nào!
Gia đình tôi ở nhờ trong nhà một người bạn học cũ của bố tôi, ở phố Nguyễn Lai Thạch. Chủ nhà nhường toàn bộ phần lầu một , thoáng mát , rộng rãi. Tuy nhiên, chính vì ở trên lầu mà cái cầu thang  đã trở thành mối nguy hiểm thường trực đối với  tôi: vì không quen đi cầu thang mà mỗi ngày phải lên xuống cái cầu thang ấy hàng chục lần, nên tôi thường bị té ngã đủ kiểu! Ấy là chưa kể tôi còn thường bị bố tôi đánh lăn từ đầu cầu thang xuống tới chân cầu thang! (Sau này, tôi không còn oán bố tôi về chuyện này nữa vì tôi  biết rằng bố tôi  là người  tính nóng, mà tôi thì hay làm hỏng việc và thường là không thực hiện đúng những quy định do bố tôi  đặt ra, chẳng hạn như làm vỡ phích nước, khi bố tôi đi làm về mà vẫn chưa nấu cơm xong…).  Nhưng tôi lại phải cảm ơn cái chuyện ngã cầu thang này vì nhờ tôi bị ngã gãy tay mà tôi  đã có một người bạn đặc biệt.
Năm đó (1955), tôi đang học lớp Một. Vào năm học được một tháng thì tôi bị ngã cầu thang và phải nghỉ học gần mười ngày. Tới ngày nghỉ thứ ba thì Nhung – lớp trưởng, được cô giáo giao nhiệm vụ đến giúp tôi chép bài và hướng dẫn tôi học, để khỏi bị đứt đoạn. Nhưng cả Nhung và cô giáo đều không biết rằng hồi còn ở chiến khu, tôi đã học xong toàn bộ chương trình lớp Một, vì khi đó, mẹ tôi là cô giáo tiểu học và đã cho tôi học  “dự thính” !  Khi về Hà Nội tôi mới đủ tuổi vào lớp Một nên phải xin vào học lại từ lớp Một. Thật là sự trùng hợp ngẫu nhiên, Nhung cũng đã tự học xong chương trình lớp Một, nhưng là do chị Nhung dạy tại nhà. Thế là việc học bài chuyển thành những buổi đọc truyện thật là thú vị đối với tôi. Nhung nói nhà Nhung có một tủ sách rất lớn được truyền lại từ ông nội Nhung (đã đỗ tiến sĩ dưới triều Nguyễn), đến bố Nhung, một bác sĩ đã tốt nghiệp khóa đầu của trường đại học Y – Dược Hà Nội. Chính là nhờ Nhung tôi đã biết thế giới kỳ ảo của truyện Cổ tích, Thần thoại từ Việt Nam, Trung Quốc cho đến An-đec-xen, Grim…
Việc Nhung dắt tôi vào thế giới kỳ ảo của Cổ tích, Thần thoại thật là thú vị đối với tôi, nhưng còn thú vị, tuyệt vời hơn là việc Nhung đã tình nguyện là hướng đạo dẫn tôi đi khắp Hà Nội 36 phố phường!
Lần đầu tiên, Nhung dẫn tôi đến hồ Hoàn Kiếm và kể cho tôi  nghe chuyện vua Lê Thái Tổ trả gươm cho Thần Rùa. Trong khi tôi đang mải suy nghĩ xem Thần Rùa đã để thanh gươm ấy ở đâu thì Nhung nói:
- Giá như khi giặc Pháp sang xâm lược nước ta, Thần Rùa cũng cho mượn Gươm ấy thì nước ta đã không bị chúng đô hộ gần  một thế kỷ!...
Tôi nói ngay:
- Giặc Pháp có nhiều súng đạn, gươm thì làm sao đánh lại?
- Ừ nhỉ!... – Nhung nói khẽ và buông một hơi thở nhẹ.    
Tôi thấy mình như bị một lực vô hình nhấc bổng lên cao rồi ném mạnh xuống hồ. Tôi lặn hụp một hồi thì cảm thấy như là bị chuột rút. Tôi  vẫn còn tỉnh táo để nhận ra một bàn tay nhỏ đã túm tóc tôi kéo vào bờ!
Nhung hỏi, sau khi tôi đã trở lại bình thường:
- Sao bạn lại nhảy xuống hồ?
- Tôi định lặn xuống tìm thanh gươm của Thần Rùa! – Đúng là trong đầu tôi có ý nghĩ như vậy!
- Trời ơi! - Nhung tròn mắt nhìn tôi - bạn không biết bơi mà sao lại liều như vậy?
- Tôi bơi giỏi ấy chứ! - Tôi cười to và nói liền một mạch - Ở quê tôi có sông Thao, tôi đã bơi qua sông rồi bơi trở lại. Đó là chuyện bình thường. Bạn có biết câu “Sông Thao nước đục người đen - Ai lên Vũ Ẻn thì quên đường về” không? Quê tôi đẹp và nên thơ lắm. Nhưng khi được biết câu “Mịt mù khói tỏa ngàn sương - Nhịp chày Yên Thái mặt gương Tây Hồ” tôi lại thấy Hà Nội của bạn chắc là đẹp hơn?   
Không phải đợi lâu, Nhung dẫn tôi đến Hồ Tây. Đứng trước mặt hồ, một cảm giác kỳ lạ dâng trào trong tôi và tôi đã nhảy ào xuống hồ từ lúc nào. Sau khi lặn một hơi, tôi nổi lên và sải tay bơi ra giữa hồ. Được một lát, tôi ngoảnh lại thì thấy Nhung đang đứng yên lặng bên bờ hồ, mắt dõi theo tôi. Bơi được khoảng gần một trăm mét, tôi dừng lại và chợt nghĩ: “Thử lặn xuống xem có báu vật gì không?”. Thế là tôi lặn một hơi dài. Quả nhiên, không lâu la gì, tôi đã tìm thấy một cái đồng hồ bỏ túi và một miếng ngọc bội. Tôi tặng Nhung miếng ngọc bội và giữ lại cái đồng hồ (Nhưng ngay ngày hôm sau, cái đồng hồ đã bị bố tôi tịch thu!). Chúng tôi còn trở lại hồ Tây hai lần nữa, cũng có nhiều chuyện đáng nhớ mãi nhưng chưa thể kể hết ra đây được!
Tôi ở Hà Nội chưa được một năm, chưa kịp đi xem hết những kỳ quan của Hà Nội thì gia đình tôi chuyển về  Hà Đông (bố tôi được điều động về làm việc ở quân y viện 103). Ở Hà Đông được một năm thì bố tôi lại được điều động  về quân y viện 109 ở Vĩnh Yên. Ở Vĩnh Yên cũng chưa được một năm thì gia đình tôi lại chuyển về Hà Nội (bố tôi đã  chuyển ngành và đang chờ Bộ y tế sắp xếp công tác). Lần này, gia đình tôi ở nhờ một trại chăn nuôi bò sữa vùng ngoại ô, có cái tên rất hay: Lương Yên. Đây là khu lao động, hầu hết là dân nghèo. Vì thế, phòng mạch của bố tuy đông bệnh nhân nhưng thu nhập chỉ vừa đủ sống (đa phần chữa bệnh không lấy tiền). Công việc ở phòng mạch rất nhiều (có đủ các loại bệnh, riêng công việc giải phẫu – chỉ có tiểu phẫu – thì nhiều không ngờ: ngày nào cũng ngót nghét chục ca)  nhưng người làm chỉ có ba : bố tôi, mẹ tôi (đã là y tá) và tôi. Vì tôi bận làm việc như thế cho nên thời gian để gặp Nhung thật là hiếm hoi. Chỉ đến khi Nhung xin chuyển về trường Lương Yên học cùng lớp với tôi (lớp 4), thì chúng tôi mới được gặp nhau thường xuyên – dĩ nhiên! Những giờ kiểm tra một tiết hoặc cả buổi, chúng tôi chỉ làm bài trong mười phút là xong và nộp bài cho thầy giáo rồi dắt nhau tung tăng khắp phố phường! Những ngày tháng đó thật là đẹp và có thật nhiều kỷ niệm nhớ đời. Tôi chỉ xin kể ra đây một kỷ niệm “đòn đau nhớ đời”! 
Lần ấy, khi tôi và Nhung đang đứng xem giới thiệu chương trình kịch mục trước cửa Nhà hát Lớn thì thật bất ngờ, chiếc mô-bi-lét của bố tôi đỗ xịch ngay sát người tôi mới biết! Kết quả là tôi bi một trận đòn “thập tử nhất sinh” cùng với bao lời kết tội của bố tôi, trong những tội đó có một từ mà lần đầu tiên tôi được nghe: luyến ái bất chính! Khi nghe bố tôi nói như thế, tôi nghĩ: đúng là tôi và Nhung rất thân nhau, rất thích gần nhau, nhưng yêu thì chắc là từ đây tôi sẽ yêu Nhung!
Tôi chưa kịp nói với Nhung về những suy nghĩ của mình thì gia đình tôi chuyển lên Thái Nguyên – bố tôi được giao nhiệm vụ làm giám đốc bệnh viện Khu Gang thép Thái Nguyên. Tính lại, chúng tôi chỉ cùng được học bên nhau học kỳ 1 của lớp 4, nhưng bù vào đó, Nhung đã dẫn tôi đi khắp lượt Hà Nội 36 phố phường . Sau này, khi trở lại sống ở Hà Nội lần thứ ba, tôi đã bắt tay vào viết cuốn Hà Nội ký sự, nhưng rồi bỏ dở vì nghĩ có lẽ mình không qua nổi những văn tài đã viết rất hay về Hà Nội như Vũ Bằng, Thạch Lam, Tô Hoài…Lần ra đi này của gia đình tôi cũng thật là cập rập, dĩ nhiên là tôi không thể chia tay với Nhung. Tới Thái Nguyên, tôi đã viết thư ngay cho Nhung, gửi cả về nhà và địa chỉ lớp học, nhưng dù tôi có gửi thêm gần chục lần nữa, cũng không hề có thư hồi âm của Nhung ! 
Ở Thái Nguyên được một năm rưỡi, gia đình tôi lại chuyển chỗ ở : đi một mạch từ Thái Nguyên về thành phố biển Hải Phòng ! Bố tôi lại chuyển đổi công tác (chưa phải là lần cuối) : về làm giám đốc Viện điều dưỡng A ở Hải Phòng ! Lúc chiếc xe tải chở gia đình tôi từ Thái Nguyên về qua Hà Nội, chỉ nghỉ có một đêm, tôi muốn đi tìm gặp Nhung nhưng tôi không có một kẽ hở thời gian nào: mẹ tôi đã đẻ thêm ba cậu con trai, từ năm 1955 đến năm 1960, (lúc đó là đầu năm 1961) và việc trông coi ba đứa em nhỏ tôi phải làm gần hết, không khác gì một nhũ mẫu thực thụ ! Không thể diễn tả hết cảm giác của tôi lúc đó: thấy như là Nhung ở rất gần đâu đây mà không gọi được, không tới được!
Thế là lại phải qua đi năm năm nữa tôi mới được gặp lại Nhung. Ấy là lúc tôi học xong lớp mười Trung học Phổ thông và có giấy gọi vào khoa Toán trường Đại học Tổng hợp. Nhận được  giấy gọi, tôi đi Hà Nội ngay. Đoạn đường “tăng-bo” khá dài (thời gian này – 1966, máy bay Mỹ đã tăng cường đánh phá miền Bắc, cầu Phú Lương trên đường số 5 bị hỏng nên tàu hỏa không thể đi qua) nhưng tôi đi như bay, như là có cánh mọc dưới chân như nhân vật Hecmet trong thần thoại Hy Lạp! Gặp lại Nhung sau sáu năm xa cách, tôi đi từ bất ngờ này đến bất ngờ khác: Nhung đã là một thiếu nữ 18 tuổi cực kỳ xinh đẹp, không thua kém các hoa hậu thời nay bất kỳ điểm nào; Nhung cũng tốt nghiệp phổ thông trung học như tôi nhưng với điểm cao tuyệt đối mà bây giờ gọi là Thủ khoa, đặc biệt với môn Toán, suốt 10 năm học phổ thông, Nhung luôn đạt điểm cao nhất ; điều bất ngờ thứ ba gây sốc rất mạnh đối với tôi là Nhung không được gọi vào đại học vì lí lịch : Ông nội là quan lại thời phong kiến, bố là tư sản, có một ông chú đang làm việc trong chính quyền Sài Gòn và một ông chú đang sống ở Pháp! Tôi không nói được lời nào để an ủi Nhung hay đại loại như vậy, chỉ vò đầu bứt tai và cảm thấy như mình có lỗi ! Nhưng Nhung lại an ủi tôi và tỏ ra rất bình thản (hay đúng là Nhung chỉ tỏ ra bình thản ở bề ngoài ?). Nhung nói nhỏ nhẹ :
- Bạn nên tới trường ngay đi. Đường xa và bom đạn không biết đâu mà lường ! Tôi sẽ đưa bạn tới tận nơi học!  
Trời ơi ! Nghe Nhung nói mà tôi như sắp òa khóc ! Tôi muốn thời gian ngừng lại, trái đất ngừng quay và tốt nhất là quay ngược lại cái thời Nhung dắt tôi đi lang thang khắp 36 phố phường Hà Nội ! Trong đầu tôi vụt hiện lên nào là Hồ Gươm cổ tích, Hồ Tây bâng khuâng, hồ Thuyền Quang mơ mộng, Ô Quan Chưởng trầm mặc, Ô Đống Mác lầm bụi, Ô Chợ Dừa nhộn nhịp…, nào là những con đường ào ào lá đổ, những hàng cây đào Nhật Tân kiên nhẫn đứng đợi xuân về, nào là cây cầu Long Biên già nua nhưng vẫn cố gồng mình cho đoàn người, đoàn xe qua lại không ngớt…
Cuối cùng thì tôi cũng không thể không đối diện với thực tại : tôi đi học, còn Nhung, Nhung sẽ đi đâu ? làm gì ? Nhung không trả lời tôi mà giục tôi lên đường . Quả là con đường sẽ đi rất xa : Khoa Toán của trường ĐHTH  sơ tán ở tận huyện Đại Từ tỉnh Thái Nguyên (tôi có duyên nợ gì với Thái Nguyên đây ?). Đi tàu từ thị xã Thái Nguyên đến ga Quán Triều là hết đường sắt, phải đi bộ tiếp đến Đại Từ, và điểm cuối cùng là thôn Đầm Mây – chắc là chỗ chúng tôi học ở tít trên chín tầng mây !   
Suốt quãng đường đi bộ, con đường đồi núi dài hun hút và vắng teo, Nhung hết đọc thơ, bình thơ rồi lại kể chuyện cổ kim đông tây cho tôi nghe. Tôi không ngờ Nhung đọc thơ và bình thơ thật tuyệt vời, nhất là những bài thơ tình của  Aragon viết tặng Ensa  do  Nhung tự dịch từ nguyên bản tiếng Pháp . Cho đến tận bây giờ, tôi vẫn còn thuộc những câu thơ ấy và nó hiện ra trong đầu tôi cùng với hình ảnh Nhung đang đọc lên lúc ấy : “Tất cả những gì về anh nhờ em anh mới biết – Trời đã đứng trưa, ngày cũng sắp qua rồi – hạnh phúc không phải ngọn đèn nơi quán nhỏ - anh cầm tay em  trong cuộc đời đau khổ - mà con người chưa hiểu nghĩa chung đôi…”
Con đường dài hun hút và vắng teo ấy cuối cùng cũng ở sau lưng chúng tôi ! Tôi sợ phải chia tay với Nhung. Một nỗi sợ không có hình hài nhưng nó làm tim tôi như ngừng đập ! Và có lẽ Nhung biết rất rõ điều ấy nên Nhung đã đồng ý để tôi đưa Nhung trở lại thị xã Thái Nguyên. Và rồi cuối cùng, tôi đã đưa Nhung trở lại Hà Nội. Chúng tôi quyết định sẽ đi lang thang khắp Hà Nội một lần nữa, một ngày một đêm, rồi tôi sẽ đi Thái Nguyên, tới huyện Đại Từ và cuối cùng là cái làng Đầm Mây heo hút kia !  
Khắp Hà Nội là một không khí sẵn sàng chiến đấu đánh trả bọn “Thần Sấm”, “Con Ma” của  “Không lực Hoa Kỳ”. Trên đường Thanh Niên bên Hồ Tây, nơi có hàng ghế đá và những cây liễu rủ tóc thướt tha – nơi hẹn hò yêu đương của những đôi lứa – sừng sững những khẩu pháo phòng không đang sẵn sàng nhả đạn bất cứ lúc nào. Trên sân thượng ở các nhà cao tầng, những khẩu súng máy 14,5 li và 12,7 li và cả súng trường CKC cũng đang vươn nòng sẵn sàng chiến đấu !... Một ý nghĩ thoáng vụt đến: tôi muốn đi chiến đấu, tôi sẽ xông pha nơi bom lửa bão đạn, chứ không thể tìm đến một nơi an toàn tít tận cái làng Đầm Mây hẻo lánh trên miền núi rừng kia để mà ngồi học, nhất là Nhung lại không được đi học nữa ! (Ý nghĩ bất chợt ấy chỉ ba tháng sau đã trở thành sự thật !). 
Bấy giờ là tháng Chín – Mùa Thu. Tôi và Nhung cứ đi lòng vòng mà không định rõ rằng sẽ đi đến đâu ? Khi tôi thấy đôi chân mỏi rời thì cũng là lúc chúng tôi đang đứng trước Văn Miếu. Chúng tôi đã đến Văn Miếu nhiều lần vì ông nội Nhung có tên trong tấm bia đá tiến sĩ, mỗi khi nhớ ông nội Nhung lại đến đây…Tôi nói với Nhung :
- Giá như bây giờ là Mùa Xuân thì hay quá, mình muốn đến nhìn hoa đào đón Mùa Xuân như thế nào ?
- Mùa Thu Hà Nội có nhiều điều kỳ diệu lắm. Mình có cảm giác rằng chính Mùa Thu đã làm cho Hà Nội đẹp một cách huyền ảo. Vả lại riêng mình, trong bốn mùa ở Hà Nội, mình thích Mùa Thu nhất, bởi Mùa Thu dài nhất, bí ẩn nhất…-  Nhung nói nhỏ.
- Và buồn nhất – Tôi nói chen ngang – Tiếng Thu là âm thanh buồn vô hạn : “Con nai vàng ngơ ngác – đạp trên lá vàng khô”…   
Nhung  xác nhận :
- Đó cũng là một biểu hiện lãng mạn của Mùa Thu, nhưng người ta chìm đắm vào đó nhiều quá, thái quá bất cập. Mình thích Mùa Thu nhất không phải vì Mùa Thu buồn mà vì lẽ khác. Bạn cứ thử nghĩ xem, tại sao chỉ có Thiên Thu mà không có thiên Xuân, thiên hạ, thiên đông ? Thiên Thu (ngàn năm) là một khái niệm thời gian không có giới hạn…Mình cứ bị ám ảnh bởi một câu thơ nói về cái chết của một chú bé lính kèn : “Hỡi người lính kèn nhỏ tuổi – Hãy nằm đây yên giấc ngàn Thu…”  Đó là cái vĩ đại, cái kỳ diệu trong cái bé nhỏ. Loài người tồn tại được là nhờ điều đó!    
Tôi lờ mờ nhận ra điều gì đó trong suy nghĩ của Nhung, nó như đôi cánh của Thiên Thần đang bay trên thinh không kỳ ảo. Vì cứ mải đuổi theo đôi cánh Thiên Thần ấy mà tôi quên hết những gì định nói với Nhung trong ngày hôm nay. Cuối cùng, tôi lại nói một câu rất vu vơ :
- Thiên Thu? Đúng rồi! “Nhất nhật tại tù thiên thu tại ngoại”, hồi ở Hải Phòng, vì đánh nhau mà mình bị giam ở đồn công an một ngày, đúng là dài bằng cả ngàn năm!  
Nhung mỉm cười rồi chợt buông một hơi thở nhẹ và nói :
- Mình rất muốn được học ở Khoa Toán như bạn, nhưng cái số mình là nó vậy, biết làm sao. Điều mong ước duy nhất của mình lúc này là bạn sẽ học thật tốt, sẽ trở thành một nhà toán học như trước đây chúng mình đã hằng mơ ước. Bạn thắp hương cầu khấn ông nội mình đi, ông sẽ phù hộ độ trì cho bạn…
Chúng tôi cùng cầu khấn ông nội của Nhung. Tôi nhìn tấm bia Tiến sĩ mà như thấy cảnh tôi vinh quy bái tổ, Nhung e lệ đón tôi  trong tiếng pháo nổ vạn sắc hồng ! Nhưng, kỳ lạ thay, con Rùa dưới tấm bia như là đang bò đi, mới có vài bước chân mà đã mất hút ! Tôi giật mình nhìn sang Nhung, Nhung vẫn đang lầm rầm khấn điều gì đó ! Tôi không nghe rõ tiếng Nhung vì không hiểu sao tôi nghe thấy tiếng lá rơi rất kỳ lạ, rất to như là tiếng bom nổ ! Và điều đó không sai, máy bay Mỹ đang ném bom ở đâu đó, không xa lắm, tiếng còi báo động của Thành phố vang lên!


Đoạn kết :
Đoạn kết thật bi thương, nhưng không thể khác đi được ! Tháng Mười năm 1970 tôi được trở về tiếp tục học tại khoa Toán sau bốn năm là lính Ra-đa thuộc lực lượng Phòng không – Không quân. Lúc này, trường Đại học không phải đi sơ tán như hồi tôi mới nhập học nữa. Khoa Toán của tôi học ở khu Thượng Đình. Nói chung là tốt, không có gì phải phàn nàn!
Gặp lại Nhung, chúng tôi đều rất mừng . Tôi thầm cảm phục Nhung đã có bản lĩnh vững vàng để đi qua biến cố lớn của cuộc đời. Nếu là tôi, tôi đã gào thét, đã buông thả và có lẽ sẽ trở thành một kẻ chán đời, bất lực. Trong suốt bốn năm qua, Nhung đã tham gia rất tích cực trong đội cấp cứu cơ động của Thành phố. Với tư chất thông minh bẩm sinh, với sự say mê học hỏi qua tủ sách Y học và sự hướng dẫn nhiệt tình, chu đáo của người bố, kiến thức cũng như thực hành về Y học của Nhung không thua kém bất kỳ một bác sĩ chuyên khoa giỏi nào. Nhung đã cùng đội cấp cứu cơ động cứu sống rất nhiều người trong những đợt oanh tạc liên tục từ ngày này qua ngày khác của máy bay Mỹ trong cuộc chiến tranh phá hoại mang tính hủy diệt này…Với việc trở lại Khoa Toán của tôi, Nhung đã khiến tôi bất ngờ vô cùng : Nhung tặng tôi toàn bộ số sách giáo trình của bốn năm học của một sinh viên khoa Toán mà tôi sẽ phải dùng đến . Ngày tháng mua sách được ghi ở trang đầu từ năm 1967 đến 1970. Thì ra trong khi tôi đang mất hút ở chiến trường, Nhung đã mua sách theo chương trình và tự học xong toàn bộ. Lúc đưa sách cho tôi, Nhung chỉ nói ngắn gọn: “Trong thời gian bạn ở chiến trường , mình đã học thay bạn. Giờ bạn đã trở về, trả lại cho bạn đó !” . Tôi không biết nói sao, chỉ biết lao vào những Ma trận kỳ ảo, những Chuỗi số dài vô tận của toán học… Song, một điều bất ngờ đến kinh hoàng , đến nỗi cho đến tận bây giờ tôi vẫn chưa tin là nó đã xảy ra là : trong một lần cứu hai em bé bị nước cuốn trôi ngay sát cầu Long Biên, Nhung đã bị cuốn vào một cái hút nước. Phải mất nửa ngày, hai người thợ lặn mới tìm thấy Nhung !... Đó là ngày 10-10-1971!...
…Nhung nằm đó, bất động…Tay Nhung đang cầm miếng ngọc bội mà tôi đã tặng Nhung ở Hồ Tây năm xưa…Tôi vụt nhớ đến câu thơ có hai chữ “Thiên Thu” mà Nhung đã đọc cho tôi nghe rất nhiều lần: “ Hỡi người lính kèn nhỏ tuổi – Hãy nằm đây an giấc ngàn Thu “…Và tôi đã đọc lên cho Nhung nghe, một lần, hai lần, ba lần, đọc hoài !...

  Đỗ Ngọc Thạch
@ Thư viện Đỗ Ngọc Thạch

ĐỖ NGỌC THẠCH - NHÀ VĂN - Thư viện

NHÀ VĂN ĐỖ NGỌC THẠCH
Đỗ Ngọc Thạch sinh ngày 19 tháng 5 năm 1948, quê quán ở  Phú Thọ. Ông đã tham gia quân đội từ 1966 đến 1970. Tốt nghiệp Khoa Ngữ văn Trường đại học Tổng hợp Hà Nội năm 1976. Làm công tác giảng dạy, nghiên cứu văn học, biên tập viên báo chí tại các cơ quan: Trường Dự bị đại học Dân tộc Trung ương, Viện Nghiên cứu văn học, Tạp chí Nghiên cứu Nghệ thuật, Sở Văn hoá - thông tin tỉnh Gia Lai - Kon Tum (cũ), Báo Lao Động & Xã Hội,...
Hiện ông sống và làm việc tại Thành phố Hồ Chí Minh.
Tác phẩm đã xuất bản:
- Người tạc tượng nhà mồ (tập truyện ngắn, in chung - NXB Văn hóa - Dân tộc, 1986)
- Quà tặng tuổi hai mươi (tập truyện ngắn, NXB Công an Nhân dân, 1994 và 2005).
Quan niệm văn học:
- "Văn học là nhân học".

TÁC PHẨM TRÊN NVTPHCM:

ẢNH TƯ LIỆU CỦA ĐỖ NGỌC THẠCH:


  Hà Nội, 1996

nguồn: nhavantphcm.com