Thứ Tư, 23 tháng 4, 2014
Thứ Bảy, 19 tháng 4, 2014
mỹ nhân xứ Hàn G. Na
Thứ Bẩy, 19/04/2014 - 11:20
Ngắm thân hình “bốc lửa” của mỹ nhân xứ Hàn G.Na
(Dân trí) - Là một trong những nữ ngôi sao sỡ hữu thân hình quyến rũ nhất Hàn Quốc, G.Na đang ngày càng gây ấn tượng mạnh trong làng giải trí xứ kim chi bằng những hình ảnh nóng bỏng của mình.
Bắt đầu bước chân vào showbiz từ cách đây 4 năm nhưng G.Na đã nhanh chóng gặt hái được những thành công trong sự nghiệp hoạt động giải trí của mình. Ban đầu, khi mới vào nghề, G.Na chỉ được công ty quản lý giao cho nhiệm vụ như một vũ công cho các ca sỹ ngôi sao khác. Nhưng sau đó, cô dần được chú ý và nhanh chóng tỏa sáng chỉ sau vài tháng.
Ngoài việc sỡ hữu giọng ca tương đối tốt, điều mà G.Na khiến người khác dễ ấn tượng về cô chính là thân hình quá bốc lửa của mình. Với cơ thể tràn đầy sức sống cùng thể hình chuẩn và nóng bỏng, G.Na còn được nhiều người gọi là “bản sao” của nữ hoàng sexy xứ kim chi Lee Hyori. Mặc dù kém đàn chị khá nhiều tuổi nhưng so về độ gợi cảm thì G.Na dường như không hề “lép vế”.
Là cô gái mang hai dòng máu Hàn Quốc - Canada, G.Na còn gây ấn tượng bởi phong cách giao tiếp và trình diễn tự tin. Khi còn là học sinh trung học, cô còn tham gia vào đội cổ vũ thể thao và luôn diện các bộ trang phục kiểu gợi cảm. Đây cũng là lý do mà G.Na chia sẻ với khán giả về việc chia tay mối tình đầu của mình. Bởi người yêu của G.Na luôn khó chịu khi trông thấy cô mặc những bộ đồng phục quá gợi cảm và can thiệp quá nhiều vào việc lựa chọn thời trang của cô.
Hiện nay, nữ ca sỹ 26 tuổi vẫn đang là một trong những ngôi sao gây chú ý trong làng giải trí Hàn Quốc. Cô luôn lọt vào top các mỹ nhân sỡ hữu thân hình bốc lửa và quyến rũ của xứ kim chi. Vì vậy, sexy, nóng bỏng và thậm chí là táo bạo là hình tượng mà công ty quản lý Cube Entertainment của G.Na đang định hướng để xây dựng cho cô trong thời gian tới.
Cùng ngắm thân hình “bốc lửa” của G.Na trong những bức ảnh quyến rũ của cô:
Trí Hòa (Tổng hợp)
Thứ Năm, 17 tháng 4, 2014
ngợi ca sự thất bại - Costica Bradatan
03:05-11/04/2014
Ngợi ca sự thất bại
Ngợi ca sự thất bại
Costica Bradatan |
Một cảnh trong phim "The Seventh Seal" của
Ingmar Bergman: Antonius Block chơi cờ với
Thần Chết. “Khỏi phải nói, chàng không thể
thắng được trong trò chơi – không ai có thể thắng cả
- nhưng chiến thắng không phải là mục đích."
Nếu đến một lúc nào đó, cần phải suy nghĩ nghiêm túc về sự thất bại, thì đó chính là lúc này.
Chúng ta chắc chắn đang sống trong một thời đại của những tiến bộ không ngừng. Chúng ta được chứng kiến những bước phát triển trong khoa học, nghệ thuật, kỹ thuật, y học... với một tốc độ chưa từng thấy. Chúng ta biết về hoạt động của não người và những thiên hà xa xôi hơn những gì mà cha ông chúng ta có thể tưởng tượng. Việc thiết kế một hình thái cao cấp của con người – khỏe khoắn hơn, mạnh mẽ hơn, thông minh hơn, đẹp đẽ hơn, dẻo dai hơn – có vẻ như đang nằm trong kế hoạch. Thậm chí, sự bất tử giờ đây dường như cũng sắp là điều khả thi, là một kết quả có thể đạt đến nhờ những bước tiến ngày càng vượt bậc của khoa sinh học ứng dụng.
Chắc chắn những hứa hẹn về sự phát triển, tiến bộ không ngừng của con người là điều có sức cám dỗ. Song điều đó cũng hàm ẩn mối nguy hiểm – trong một tương lai hoàn thiện hơn, sự thất bại sẽ là điều không còn mấy ý nghĩa.
Tại sao ta lại phải bận tâm? Cụ thể hơn, tại sao triết học lại nên quan tâm đến sự thất bại? Chẳng nhẽ không còn vấn đề nào hay hơn để suy tư hay sao? Câu trả lời thật đơn giản: Triết học là lĩnh vực tốt nhất để suy tư về sự thất bại vì triết học hiểu sự thất bại một cách sâu sắc. Ít nhất, lịch sử triết học phương Tây không gì khác hơn là sự nối dài liên tục của những thất bại, dẫu đó là những thất bại hữu ích và quyến rũ. Bất kỳ triết gia lớn nào cũng tìm cách khẳng định mình bằng việc phơi bày, phân tích những “thất bại”, “sai lầm”, “nhầm lẫn” hay “sự ngây thơ” của những triết gia khác, để rồi đến lượt mình, họ sẽ lại bị phủ định bởi những người khác như là những kẻ thất bại trước đó; cứ như thể, bất kể làm gì đi nữa, định mệnh của triết học là thất bại. Thế nhưng dẫu đi hết từ thất bại này sang thất bại khác, triết học vẫn lớn lên qua nhiều thế kỷ. Như Emmanuel Levinas từng diễn đạt một cách rất ấn tượng, “điều hay nhất ở triết học là nó thất bại.” Thất bại, dường như, chính là cái mà triết học ăn, là cái giúp nó duy trì sự sống. Nói chung, triết học chỉ có thể tiếp tục sinh lộ của nó chừng nào nó còn thất bại.
Vì thế, cho phép tôi bàn về tầm quan trọng của sự thất bại.
Sự thất bại có ý nghĩa vì một số lý do. Ở đây, tôi muốn nói đến ba lý do.
Thất bại cho phép chúng ta nhìn thấy sự tồn tại của mình trong hoàn cảnhtrần trụi của nó
Hễ khi nào xảy ra, sự thất bại lại phát lộ cho ta thấy sự tồn tại của ta gần với phía đối lập của nó như thế nào. Từ bản năng sinh tồn của mình, hay đơn giản do sự mù lòa trong nhận thức, chúng ta có xu hướng nhìn thế giới như một nơi kiên cố, đáng tin cậy, thậm chí không thể phá hủy. “Đối với một chủ thể biết suy nghĩ, hình dung về sự phi tồn tại của mình, về sự chấm dứt những nghĩ suy và đời sống của mình, hoàn toàn là điều bất khả,” Goethe đã nói như thế. Chúng ta, những kẻ luôn tự lừa dối bản thân, quên rằng chúng ta cận kề với trạng thái không -phải – như - chúng ta - vẫn luôn lànhư thế nào. Một vụ tai nạn máy bay, chẳng hạn, hoàn toàn có thể đặt dấu chấm hết cho mọi thứ; thậm chí một tảng đá rơi, hay bộ phận phanh của ô tô bị hỏng cũng có thể làm được việc này. Dẫu không phải bao giờ cũng là tai họa định mệnh, sự thất bại luôn mang theo nó mối đe dọa đối với sự hiện sinh ở một mức độ nào đó.
Thất bại là sự xâm nhập đột ngột của hư vô vào giữa sự sống. Trải nghiệm sự thất bại có nghĩa là bắt đầu nhìn thấy những nứt rạn trong cơ cấu của sự sống và chắc chắn, đến khi ta thực sự ngấm nó, sự thất bại hóa ra lại trở thành một thứ phúc lành được ngụy trang. Vì chính mối đe dọa thường trực, lơ lửng này sẽ khiến ta nhận ra được sự phi thường của chính sự tồn tại của mình: rằng bất chấp điều hiển hiện ấy, ta vẫn cứ hiện hữu, vẫn cứ tồn tại. Nhận thức ấy trao cho chúng ta một niềm kiêu hãnh nhất định.
Ở vai trò này, sự thất bại cũng có khả năng như một phép chữa bệnh đặc biệt. Hầu hết chúng ta (trừ những người tự ý thức hay may mắn đốn ngộ) thường điều chỉnh sự tồn tại của mình rất kém; chúng ta cứ muốn tưởng tượng bản thân mình quan trọng hơn nhiều so với thực chất của chúng ta, chúng ta cư xử cứ như thế thế giới này tồn tại chỉ cho chúng ta; ở những thời điểm tồi tệ nhất, chúng ta xem mình như những đứa trẻ, thấy mình là trung tâm của mọi thứ và đợi chờ phần còn lại của vũ trụ này lúc nào cũng sẵn sàng phục tòng ta. Chúng ta tham lam ngấu nghiến những giống loài khác, làm trơ trọi hành tinh sự sống này và lấp đầy nó bằng rác. Sự thất bại có thể là phương thuốc để chống lại sự kiêu ngạo và xấc xược này vì nó thường mang đến sự khiêm nhường.
Năng lực thất bại có ý nghĩa trọng yếu đối với bản thể của chúng ta
Chúng ta cần bảo vệ, nuôi dưỡng, thậm chí trân quý năng lực này. Nhận thức rằng chúng ta, về bản chất, sẽ vẫn cứ là những tạo vật bất toàn, không hoàn hảo, đầy sai lầm là một nhận thức quan trọng; nói cách khác, luôn có một khoảng cách giữa cái chúng ta là và cái chúng ta có thể là. Bất cứ những thành tựu nào mà con người từng đạt được trong lịch sử thì đó là do có sự tồn tại của không gian rỗng này. Chính ở trong khoảng không gian này mà con người, các cá nhân cũng như cộng đồng, mới có thể hoàn thành bất cứ cái gì. Không phải bỗng dưng chúng ta trở thành một cái gì đó tốt hơn; chúng ta vẫn thế, vẫn là những kẻ yếu đuối, đầy sai lầm. Nhưng hình ảnh con người với đầy lỗi lầm của mình có thể trở thành hình ảnh không thể chịu đựng nổi, khiến con người xấu hổ đến nỗi phải cố làm một cái gì tử tế hơn một chút. Mỉa mai thay, chính cuộc đấu tranh của con người với những thất bại của chính mình đã đem đến những điều tốt đẹp nhất ở con người.
Khoảng cách giữa cái chúng ta và cái chúng ta có thể là đồng thời cũng là không gian mà trong đó các diễn ngôn không tưởng được hình thành. Văn học không tưởng, ở những tác phẩm xuất sắc nhất, có thể ghi lại chi tiết cuộc đấu tranh của con người với những thất bại của xã hội và cá nhân. Mặc dù thường xây dựng những thế giới của sự thái quá và phong nhiêu nhưng các tác phẩm không tưởng lại là hình thức phản ứng đối với những thiếu hụt và nỗi bất định của đời sống; chúng là hình thức biểu hiện tốt nhất của cái mà chúng ta thiếu nhất. Tác phẩm Utopia của Thomas More thực ra là câu chuyện về chính nước Anh ở thời đại của ông hơn là câu chuyện về một hòn đảo tưởng tượng. Các tác phẩm không tưởng có vẻ giống như hình thức tôn vinh sự hoàn thiện của con người nhưng nếu đọc ngược lại, chúng chỉ là những hình thức thú nhận đặc biệt về sự thất bại, sự bất toàn và sự lúng túng.
Thế nhưng việc chúng ta cứ tiếp tục mơ và thêu dệt nên những tác phẩm không tưởng vẫn hết sức quan trọng. Nếu chúng ta không phải những kẻ mộng mơ, hẳn hôm nay chúng ta sẽ sống trong một thế giới xấu xí hơn nhiều. Nhưng trên hết, không có những giấc mơ, không có những sự không tưởng, loài người chúng ta có lẽ đã trở nên kiệt quệ. Giả sử đến một ngày, khoa học giải quyết hết mọi vấn đề của chúng ta. Chúng ta sẽ trở nên mạnh khỏe hơn, có thể trường sinh bất tử, trí não chúng ta, nhờ sự tiến bộ nào đó, sẽ có thể hoạt động như một chiếc máy tính. Đến ngày ấy, chúng ta có thể trở thành một cái gì đó rất thú vị nhưng tôi không chắc chúng ta sẽ có cái mà vì nó chúng ta sống. Chúng ta có thể trở nên hoàn thiện nhưng về bản chất, chúng ta đã chết.
Cuối cùng khả năng thất bại khiến chúng ta là chúng ta; sự sống của chúng ta, những tạo vật về bản chất là những kẻ thất bại, chính là cội rễ của mọi tham vọng. Sự thất bại, nỗi sợ thất bại và tìm cách tránh nó trong tương lai là, tất cả đều là một phần của quá trình mà qua đó, diện mạo và số phận của chúng ta được quyết định. Đó là lý do vì sao, như tôi đã ngầm nhắc đến trước đó, năng lực thất bại là cái mà chúng ta nhất thiết phải bảo vệ, bất kể những người theo thuyết lạc quan rao giảng gì đi nữa. Đó là một thứ đáng trân trọng, thậm chí còn hơn những kiệt tác nghệ thuật, những tượng đài hay những công trình hoàn thiện nào khác. Vì, theo một nghĩa nào đó, năng lực thất bại còn quan trọng hơn bất kỳ những thành tựu nào của cá nhân. Chính nó mới khiến cho những thành tựu khả hữu.
Chúng ta là những kẻ được chỉ định để thất bại
Dẫu cuộc đời của chúng ta có trở nên thành công như thế nào đi nữa, dẫu chúng ta có là những người thông minh, cần cù, mẫn cán thế nào đi nữa, thì cùng một kết cục ấy đang chờ đợi chúng ta: “sự thất bại về mặt sinh học”. Mối “đe dọa sự sống” của nỗi thất bại ấy đã luôn tồn tại bên cạnh con người trong suốt chiều dài lịch sử, mặc dù để sống với một cảm giác thỏa mãn tương đối, chúng ta đều phải giả vờ như không nhìn thấy nó. Tuy nhiên, sự giả vờ của chúng ta chưa bao giờ ngăn được việc chúng ta mỗi lúc tiến về đích đến của mình ngày một nhanh hơn, “tỉ lệ nghịch với bình phương khoảng cách từ cái chết”, như nhân vật Ivan Ilyich của Tolstoy đã miêu tả rất rành rọt về quá trình này. Song ở đây nhân vật của Tolstoy không làm rõ vấn đề nhiều. Câu hỏi khẩn thiết hơn là làm thế nào để tiếp cận sự thất bại lớn ấy, làm thế nào để đối mặt nó, ôm xiết lấy nó và sở hữu nó – điều mà Ivan tội nghiệp đã không làm được.
Một hình mẫu tốt hơn có lẽ là hình tượng nhân vật Antonius Block trong bộ phim The Seventh Sealcủa Ingmar Bergman. Một hiệp sĩ trở về sau cuộc Thập tự chinh, rơi vào trạng thái khủng hoảng niềm tin, Block bị đặt đối diện với thất bại vĩ đại – Cái Chết – trong hình hài con người. Chàng không do dự đối đầu với Thần Chết. Chàng không chạy trốn, không cầu xin sự khoan nhượng – chàng chỉ thách Thần Chết ngồi chơi một ván cờ với mình. Khỏi phải nói, chàng không thể thắng được trong trò chơi – không ai có thể thắng cả - nhưng chiến thắng không phải là mục đích. Ta chơi với sự thất bại vĩ đại, sự thất bại cuối cùng, không phải để thắng, mà để học sự thất bại.
Bergman, như một triết gia, đã dạy chúng ta một bài học lớn ở đây. Tất cả chúng ta đều kết thúc trong sự thất bại song đó không phải là điều quan trọng nhất. Điều thực sự quan trọng là chúng ta thất bại như thế nào và chúng ta đạt được gì trong quá trình ấy. Trong khoảng thời gian ngắn ngủi của cuộc chơi với Thần Chết, Antonius Block hẳn đã trải nghiệm được nhiều hơn tất cả những gì mình đã trải nghiệm trong đời; không có trò chơi ấy, chàng có đã sống chẳng vì một điều gì cả. Cuối cùng, dĩ nhiên, chàng đã thua nhưng chàng cũng đã thực hiện được một điều hiếm hoi. Chàng không chỉ biến thất bại thành một nghệ thuật mà còn có thể biết nghệ thuật thất bại trở thành một phần hết sức ý nghĩa trong nghệ thuật sống.
Hải Ngọc dịch
Chắc chắn những hứa hẹn về sự phát triển, tiến bộ không ngừng của con người là điều có sức cám dỗ. Song điều đó cũng hàm ẩn mối nguy hiểm – trong một tương lai hoàn thiện hơn, sự thất bại sẽ là điều không còn mấy ý nghĩa.
Tại sao ta lại phải bận tâm? Cụ thể hơn, tại sao triết học lại nên quan tâm đến sự thất bại? Chẳng nhẽ không còn vấn đề nào hay hơn để suy tư hay sao? Câu trả lời thật đơn giản: Triết học là lĩnh vực tốt nhất để suy tư về sự thất bại vì triết học hiểu sự thất bại một cách sâu sắc. Ít nhất, lịch sử triết học phương Tây không gì khác hơn là sự nối dài liên tục của những thất bại, dẫu đó là những thất bại hữu ích và quyến rũ. Bất kỳ triết gia lớn nào cũng tìm cách khẳng định mình bằng việc phơi bày, phân tích những “thất bại”, “sai lầm”, “nhầm lẫn” hay “sự ngây thơ” của những triết gia khác, để rồi đến lượt mình, họ sẽ lại bị phủ định bởi những người khác như là những kẻ thất bại trước đó; cứ như thể, bất kể làm gì đi nữa, định mệnh của triết học là thất bại. Thế nhưng dẫu đi hết từ thất bại này sang thất bại khác, triết học vẫn lớn lên qua nhiều thế kỷ. Như Emmanuel Levinas từng diễn đạt một cách rất ấn tượng, “điều hay nhất ở triết học là nó thất bại.” Thất bại, dường như, chính là cái mà triết học ăn, là cái giúp nó duy trì sự sống. Nói chung, triết học chỉ có thể tiếp tục sinh lộ của nó chừng nào nó còn thất bại.
Vì thế, cho phép tôi bàn về tầm quan trọng của sự thất bại.
Sự thất bại có ý nghĩa vì một số lý do. Ở đây, tôi muốn nói đến ba lý do.
Thất bại cho phép chúng ta nhìn thấy sự tồn tại của mình trong hoàn cảnhtrần trụi của nó
Hễ khi nào xảy ra, sự thất bại lại phát lộ cho ta thấy sự tồn tại của ta gần với phía đối lập của nó như thế nào. Từ bản năng sinh tồn của mình, hay đơn giản do sự mù lòa trong nhận thức, chúng ta có xu hướng nhìn thế giới như một nơi kiên cố, đáng tin cậy, thậm chí không thể phá hủy. “Đối với một chủ thể biết suy nghĩ, hình dung về sự phi tồn tại của mình, về sự chấm dứt những nghĩ suy và đời sống của mình, hoàn toàn là điều bất khả,” Goethe đã nói như thế. Chúng ta, những kẻ luôn tự lừa dối bản thân, quên rằng chúng ta cận kề với trạng thái không -phải – như - chúng ta - vẫn luôn lànhư thế nào. Một vụ tai nạn máy bay, chẳng hạn, hoàn toàn có thể đặt dấu chấm hết cho mọi thứ; thậm chí một tảng đá rơi, hay bộ phận phanh của ô tô bị hỏng cũng có thể làm được việc này. Dẫu không phải bao giờ cũng là tai họa định mệnh, sự thất bại luôn mang theo nó mối đe dọa đối với sự hiện sinh ở một mức độ nào đó.
Thất bại là sự xâm nhập đột ngột của hư vô vào giữa sự sống. Trải nghiệm sự thất bại có nghĩa là bắt đầu nhìn thấy những nứt rạn trong cơ cấu của sự sống và chắc chắn, đến khi ta thực sự ngấm nó, sự thất bại hóa ra lại trở thành một thứ phúc lành được ngụy trang. Vì chính mối đe dọa thường trực, lơ lửng này sẽ khiến ta nhận ra được sự phi thường của chính sự tồn tại của mình: rằng bất chấp điều hiển hiện ấy, ta vẫn cứ hiện hữu, vẫn cứ tồn tại. Nhận thức ấy trao cho chúng ta một niềm kiêu hãnh nhất định.
Ở vai trò này, sự thất bại cũng có khả năng như một phép chữa bệnh đặc biệt. Hầu hết chúng ta (trừ những người tự ý thức hay may mắn đốn ngộ) thường điều chỉnh sự tồn tại của mình rất kém; chúng ta cứ muốn tưởng tượng bản thân mình quan trọng hơn nhiều so với thực chất của chúng ta, chúng ta cư xử cứ như thế thế giới này tồn tại chỉ cho chúng ta; ở những thời điểm tồi tệ nhất, chúng ta xem mình như những đứa trẻ, thấy mình là trung tâm của mọi thứ và đợi chờ phần còn lại của vũ trụ này lúc nào cũng sẵn sàng phục tòng ta. Chúng ta tham lam ngấu nghiến những giống loài khác, làm trơ trọi hành tinh sự sống này và lấp đầy nó bằng rác. Sự thất bại có thể là phương thuốc để chống lại sự kiêu ngạo và xấc xược này vì nó thường mang đến sự khiêm nhường.
Năng lực thất bại có ý nghĩa trọng yếu đối với bản thể của chúng ta
Chúng ta cần bảo vệ, nuôi dưỡng, thậm chí trân quý năng lực này. Nhận thức rằng chúng ta, về bản chất, sẽ vẫn cứ là những tạo vật bất toàn, không hoàn hảo, đầy sai lầm là một nhận thức quan trọng; nói cách khác, luôn có một khoảng cách giữa cái chúng ta là và cái chúng ta có thể là. Bất cứ những thành tựu nào mà con người từng đạt được trong lịch sử thì đó là do có sự tồn tại của không gian rỗng này. Chính ở trong khoảng không gian này mà con người, các cá nhân cũng như cộng đồng, mới có thể hoàn thành bất cứ cái gì. Không phải bỗng dưng chúng ta trở thành một cái gì đó tốt hơn; chúng ta vẫn thế, vẫn là những kẻ yếu đuối, đầy sai lầm. Nhưng hình ảnh con người với đầy lỗi lầm của mình có thể trở thành hình ảnh không thể chịu đựng nổi, khiến con người xấu hổ đến nỗi phải cố làm một cái gì tử tế hơn một chút. Mỉa mai thay, chính cuộc đấu tranh của con người với những thất bại của chính mình đã đem đến những điều tốt đẹp nhất ở con người.
Khoảng cách giữa cái chúng ta và cái chúng ta có thể là đồng thời cũng là không gian mà trong đó các diễn ngôn không tưởng được hình thành. Văn học không tưởng, ở những tác phẩm xuất sắc nhất, có thể ghi lại chi tiết cuộc đấu tranh của con người với những thất bại của xã hội và cá nhân. Mặc dù thường xây dựng những thế giới của sự thái quá và phong nhiêu nhưng các tác phẩm không tưởng lại là hình thức phản ứng đối với những thiếu hụt và nỗi bất định của đời sống; chúng là hình thức biểu hiện tốt nhất của cái mà chúng ta thiếu nhất. Tác phẩm Utopia của Thomas More thực ra là câu chuyện về chính nước Anh ở thời đại của ông hơn là câu chuyện về một hòn đảo tưởng tượng. Các tác phẩm không tưởng có vẻ giống như hình thức tôn vinh sự hoàn thiện của con người nhưng nếu đọc ngược lại, chúng chỉ là những hình thức thú nhận đặc biệt về sự thất bại, sự bất toàn và sự lúng túng.
Thế nhưng việc chúng ta cứ tiếp tục mơ và thêu dệt nên những tác phẩm không tưởng vẫn hết sức quan trọng. Nếu chúng ta không phải những kẻ mộng mơ, hẳn hôm nay chúng ta sẽ sống trong một thế giới xấu xí hơn nhiều. Nhưng trên hết, không có những giấc mơ, không có những sự không tưởng, loài người chúng ta có lẽ đã trở nên kiệt quệ. Giả sử đến một ngày, khoa học giải quyết hết mọi vấn đề của chúng ta. Chúng ta sẽ trở nên mạnh khỏe hơn, có thể trường sinh bất tử, trí não chúng ta, nhờ sự tiến bộ nào đó, sẽ có thể hoạt động như một chiếc máy tính. Đến ngày ấy, chúng ta có thể trở thành một cái gì đó rất thú vị nhưng tôi không chắc chúng ta sẽ có cái mà vì nó chúng ta sống. Chúng ta có thể trở nên hoàn thiện nhưng về bản chất, chúng ta đã chết.
Cuối cùng khả năng thất bại khiến chúng ta là chúng ta; sự sống của chúng ta, những tạo vật về bản chất là những kẻ thất bại, chính là cội rễ của mọi tham vọng. Sự thất bại, nỗi sợ thất bại và tìm cách tránh nó trong tương lai là, tất cả đều là một phần của quá trình mà qua đó, diện mạo và số phận của chúng ta được quyết định. Đó là lý do vì sao, như tôi đã ngầm nhắc đến trước đó, năng lực thất bại là cái mà chúng ta nhất thiết phải bảo vệ, bất kể những người theo thuyết lạc quan rao giảng gì đi nữa. Đó là một thứ đáng trân trọng, thậm chí còn hơn những kiệt tác nghệ thuật, những tượng đài hay những công trình hoàn thiện nào khác. Vì, theo một nghĩa nào đó, năng lực thất bại còn quan trọng hơn bất kỳ những thành tựu nào của cá nhân. Chính nó mới khiến cho những thành tựu khả hữu.
Chúng ta là những kẻ được chỉ định để thất bại
Dẫu cuộc đời của chúng ta có trở nên thành công như thế nào đi nữa, dẫu chúng ta có là những người thông minh, cần cù, mẫn cán thế nào đi nữa, thì cùng một kết cục ấy đang chờ đợi chúng ta: “sự thất bại về mặt sinh học”. Mối “đe dọa sự sống” của nỗi thất bại ấy đã luôn tồn tại bên cạnh con người trong suốt chiều dài lịch sử, mặc dù để sống với một cảm giác thỏa mãn tương đối, chúng ta đều phải giả vờ như không nhìn thấy nó. Tuy nhiên, sự giả vờ của chúng ta chưa bao giờ ngăn được việc chúng ta mỗi lúc tiến về đích đến của mình ngày một nhanh hơn, “tỉ lệ nghịch với bình phương khoảng cách từ cái chết”, như nhân vật Ivan Ilyich của Tolstoy đã miêu tả rất rành rọt về quá trình này. Song ở đây nhân vật của Tolstoy không làm rõ vấn đề nhiều. Câu hỏi khẩn thiết hơn là làm thế nào để tiếp cận sự thất bại lớn ấy, làm thế nào để đối mặt nó, ôm xiết lấy nó và sở hữu nó – điều mà Ivan tội nghiệp đã không làm được.
Một hình mẫu tốt hơn có lẽ là hình tượng nhân vật Antonius Block trong bộ phim The Seventh Sealcủa Ingmar Bergman. Một hiệp sĩ trở về sau cuộc Thập tự chinh, rơi vào trạng thái khủng hoảng niềm tin, Block bị đặt đối diện với thất bại vĩ đại – Cái Chết – trong hình hài con người. Chàng không do dự đối đầu với Thần Chết. Chàng không chạy trốn, không cầu xin sự khoan nhượng – chàng chỉ thách Thần Chết ngồi chơi một ván cờ với mình. Khỏi phải nói, chàng không thể thắng được trong trò chơi – không ai có thể thắng cả - nhưng chiến thắng không phải là mục đích. Ta chơi với sự thất bại vĩ đại, sự thất bại cuối cùng, không phải để thắng, mà để học sự thất bại.
Bergman, như một triết gia, đã dạy chúng ta một bài học lớn ở đây. Tất cả chúng ta đều kết thúc trong sự thất bại song đó không phải là điều quan trọng nhất. Điều thực sự quan trọng là chúng ta thất bại như thế nào và chúng ta đạt được gì trong quá trình ấy. Trong khoảng thời gian ngắn ngủi của cuộc chơi với Thần Chết, Antonius Block hẳn đã trải nghiệm được nhiều hơn tất cả những gì mình đã trải nghiệm trong đời; không có trò chơi ấy, chàng có đã sống chẳng vì một điều gì cả. Cuối cùng, dĩ nhiên, chàng đã thua nhưng chàng cũng đã thực hiện được một điều hiếm hoi. Chàng không chỉ biến thất bại thành một nghệ thuật mà còn có thể biết nghệ thuật thất bại trở thành một phần hết sức ý nghĩa trong nghệ thuật sống.
Hải Ngọc dịch
Nguồn:
http://opinionator.blogs.nytimes.com/2013/ 12/15/in-praise-of-failure/?_php=true&_ type=blogs&_r=0
http://opinionator.blogs.nytimes.com/2013/ 12/15/in-praise-of-failure/?_php=true&_ type=blogs&_r=0
Thứ Hai, 14 tháng 4, 2014
các lý thuyết nghiên cứu văn học...- N.V.Dân
Các lý thuyết nghiên cứu văn học và tính khả dụng
Kate Upton sở hữu vòng 1 tự nhiên cỡ 34D
Từ những thập niên đầu thế kỷ XX, các nhà nghiên cứu ở nước ta đã bắt đầu vận dụng các lý thuyết và phương pháp của phương Tây để khảo cứu và thẩm định văn chương. Nhưng việc áp dụng các phương pháp khoa học đôi khi cũng bộc lộ sự lệ thuộc vào lý thuyết mà chưa căn cứ xác đáng vào thực tiễn sáng tác, từ đó ít nhiều đã để định kiến chi phối một số nhận định của mình, dẫn đến những kết quả thiếu chính xác, làm giảm chất lượng và hiệu quả của phê bình. Ở giai đoạn này, các khiếm khuyết nói trên có thể được biện minh bởi tình trạng non trẻ của khoa nghiên cứu văn học. Nhưng ngày nay, tình trạng phê bình lệ thuộc vào định kiến lý thuyết hình như vẫn đang chi phối một bộ phận trong giới nghiên cứu. Dù việc áp dụng lý thuyết là rất cần thiết, song không phải các lý thuyết đều có thể áp dụng như nhau. Khi áp dụng một lý thuyết, chúng ta nên xem xét thực tiễn văn học để thấy có phù hợp với lý thuyết đó không, nếu phù hợp thì phù hợp đến mức nào.
Chẳng hạn gần đây ở Việt Nam, người ta bắt đầu nói đến “triển vọng của nghiên cứu hậu thực dân trong văn học”. Song chúng tôi cũng thấy băn khoăn là không biết khi nghiên cứu văn học hậu thực dân ở Việt Nam thì chúng ta nghiên cứu vấn đề gì? Thực tế là vấn đề văn học hậu thực dân trên thế giới đã xuất hiện ở (và đối với) những nướcthuộc địa cũ của Pháp, Anh và Mỹ, đó là những nước vẫn còn giữ lại những thiết chế chính trị và văn hoá của mẫu quốc, họ có vấn đề về mâu thuẫn giữa thiết chế với bản sắc dân tộc, có vấn đề tìm lại bản sắc dân tộc sau chế độ thực dân, bởi lẽ phần lớn các nước đó sau khi độc lập vẫn nằm trong Liên hiệp Pháp hay Liên hiệp Anh.
Theo các nhà nghiên cứu, không phải tất cả những nước đã qua giai đoạn thuộc địa đều có vấn đề về hậu thực dân. Ví dụ, Hoa Kỳ đã từng là thuộc địa của Anh, nhưng nó lại không có vấn đề hậu thực dân (theo Jonathan Hart and Terry Goldie, “Post-colonial theory”, Encyclopedia of Contemporary Literary Theory, General Editor and Compiler: Irena R. Makaryk, University of Toronto Press, Toronto - Buffalo - London, 1997, tr. 156). Mặc dù vẫn lấy tiếng Anh làm ngôn ngữ chính, nhưng văn hoá Hoa Kỳ lại không hề có sự mâu thuẫn giữa thiết chế với bản sắc dân tộc, vì Koa Kỳ có một nền thiết chế chính trị và văn hoá hoàn toàn tự chủ, độc lập với thiết chế chính trị và văn hoá mẫu quốc. Trường hợp tương tự cũng xảy ra với một số nước thuộc địa cũ ở châu Âu, khi mà những nước này đã giành được độc lập tự chủ hoàn toàn. Ở các nước đó không có vấn đề hậu thực dân. Đây là một nhận xét rất quan trọng, nó sẽ giúp ta tránh được quan điểm giáo điều trong việc áp đặt nghiên cứu hậu thực dân cho bất cứ quốc gia thuộc địa cũ nào.
Tương tự, Việt Nam đã giành độc lập bằng cuộc cách mạng dân chủ, lật đổ chế độ thực dân, thiết lập một chế độ mới với những thiết chế chính trị và văn hoá mới. Vậy ở Việt Nam, trong hơn nửa thế kỷ qua, vấn đề cần giải quyết là vấn đề văn học hậu thực dân hay là vấn đề xây dựng nền văn học mới? Liên quan đến chủ đề hậu thực dân, Việt Nam sẽ được nhìn nhận giống với trường hợp của Hoa Kỳ và một số nước châu Âu, hay là giống với các nước thuộc địa cũ ở châu Phi, châu Mỹ và châu Á? Nghiên cứu văn học hậu thực dân ở Việt Nam hiện nay, nếu có thì nó xuất phát từ yêu cầu của thực tiễn hay là một sự áp đặt của lý thuyết bên ngoài? Việc xác định vấn đề như vậy là rất quan trọng.
Đó là chưa kể nhiều người còn hiểu sai những khái niệm chủ chốt nhất của lĩnh vực nghiên cứu này: hai thuật ngữ tiếng Anh “postcolonialism” và “Orientalism” đã được họ dịch là “chủ nghĩa hậu thực dân” và “chủ nghĩa phương Đông”. Trên thực tế không hề có “chủ nghĩa” hậu thực dân và “chủ nghĩa” phương Đông trong khoa học (nếu có các chủ nghĩa này thì chúng mang một nội hàm khác và ở trong lĩnh vực khác). Trong khoa học, “Postcolonialism” chỉ có nghĩa là “nghiên cứu hậu thực dân” [hay “nghiên cứu hậu thuộc địa”]; còn “Orientalism” có các nghĩa: “phong cáchphương Đông”, “phương Đông học” [hay “nghiên cứu phương Đông”]. Trong các ngôn ngữ phương Tây, hậu tố “ism” trong nhiều trường hợp không có nghĩa là “chủ nghĩa”.
Rồi lại rộ lên câu chuyện văn học nữ quyền. Ở phương Tây, phong trào nữ quyền thể hiện trong rất nhiều lĩnh vực, như việc đòi quyền tham gia chính trị của phụ nữ mà ở nhiều nước hiện nay vẫn chưa được quan tâm thoả đáng. Còn trong văn học, phong trào nữ quyền ở phương Tây hiện nay chủ yếu thể hiện ở việc phát hiện, phục hồi và quan tâm đến tác phẩm của các nhà văn nữ. Vậy ở Việt Nam thì sao? Chúng ta có vấn đề nữ quyền trong một số lĩnh vực xã hội, nhưng trong văn học thì như thế nào? Chúng ta sẽ giải quyết vấn đề gì? Người phụ nữ đã xuất hiện ngay từ buổi đầu của lịch sử văn học trên cả phương diện đối tượng lẫn chủ thể sáng tác, điều này trên thế giới và ở Việt Nam thì thời nào cũng có. Nhưng có phải cứ viết về phụ nữ thì là văn học nữ quyền không? Có phải cứ nghiên cứu về phụ nữ trong văn học thì là phê bình nữ quyền không? Thực tế là phải có vấn đề liên quan đến quyền của phụ nữ thì chúng ta mới có thể nói tới nữ quyền trong văn học. Hiện nay ở nước ta mới chỉ có giới thiệu các bài viết của nước ngoài về nữ quyền mà chưa thấy nói văn học nữ quyền ở Việt Nam là gì. Phải chăng vì nó không có vấn đề nên người ta không nói ra được. Mà không có vấn đề thì không thể nghiên cứu được. Nếu không xác định được vấn đề thì việc nghiên cứu nữ quyền trong văn học cũng chỉ là gắn một cái nhãn mới cho những công việc vẫn làm lâu nay, hoặc là du nhập vấn đề nữ quyền của phương Tây vào nước ta một cách gượng ép. Cái đó trong khoa học người ta gọi là “nguỵ vấn đề”. Từ nguỵ vấn đề đến nguỵ khoa học chỉ là một bước nhỏ. Đó là điều rất cần cân nhắc kỹ lưỡng.
Cũng trong xu hướng tiếp thu cái mới, có người đang nói tới khả năng cách tân của phê bình sinh thái. Với chủ trương đề cao mối quan hệ hài hoà giữa con người với tự nhiên, họ cho rằng “Trên cơ sở sinh thái chỉnh thể luận, chủ trương của mỹ học sinh thái là thống nhất hài hòa giữa con người và tự nhiên, con người và xã hội, con người và bản thân chứ không phải là con người chiếm hữu, chinh phục và cải tạo tự nhiên, không chủ trương quan điểm lao động sáng tạo ra cái đẹp (tôi nhấn mạnh – NVD)”[RTF bookmark start: }_ednref5[RTF bookmark end: }_ednref5. Đây là lời diễn giải của một nhà nghiên cứu người Trung Quốc được tác giả Đỗ Văn Hiểu trích lại trong bài viết “Phê bình sinh thái – Khuynh hướng nghiên cứu văn học mang tính cách tân” (Nhà văn, số 12-2012). Nếu đây đúng là quan điểm của phê bình sinh thái thì mọi quan niệm về triết học và văn học sẽ phải được xem xét lại. Tại sao con người lại không cải tạo tự nhiên? Tại sao con người lại không lao động để sáng tạo ra cái đẹp? Nếu chúng ta xem xét đến quan điểm của Liên Hợp Quốc (LHQ) về phát triển bền vững thì sẽ thấy rằng LHQ không chủ trương như vậy. LHQ chủ trương rằng con người không thể không phát triển, và đã phát triển thì không thể không cải tạo tự nhiên. Vấn đề là phải cải tạo tự nhiên một cách bền vững chứ không phải là phá huỷ tự nhiên. Và tư tưởng này cũng chỉ là phát triển trên cơ sở của tư tưởng bảo vệ thiên nhiên đã có từ bao đời nay. Nếu tuân theo ý kiến “không chủ trương quan điểm lao động sáng tạo ra cái đẹp” thì số phận của mọi tác phẩm nghệ thuật ca ngợi lao động chinh phục tự nhiên sẽ ra sao? Đây không phải là một sự cách tân của phê bình sinh thái, mà thực chất sẽ là một cuộc “cách mạng” xoá bỏ phần lớn các giá trị truyền thống của văn học. Vậy thì liệu lý thuyết này có thể áp dụng cho nghiên cứu văn học không? Hay nó chỉ là lý thuyết của những người hoạt động bảo vệ môi trường?
Trên thực tế, phê bình sinh thái là một phong trào xã hội bảo vệ môi trường. Nó xuất hiện chủ yếu ở Mỹ từ những thập niên cuối thế kỷ XX. Đặc biệt, năm 1992 ở nước này đã thành lập tổ chức Hiệp hội Nghiên cứu Văn học và Môi trường (tiếng Anh: Association for the Study of Literature and Environment [ASLE]). Một trong những nhiệm vụ của nó là nghiên cứu mối quan hệ giữa văn hoá, văn học với môi trường, với tự nhiên, nhưng “văn học” ở đây phải được hiểu theo nghĩa rộng, nó bao gồm cả các tác phẩm, công trình phi hư cấu (tức phi văn chương). Như thế, nếu xếp nó vào là một loại lý thuyết nghiên cứu văn học thì cũng là gượng ép. Có lẽ chính vì thế mà giáo sư người Mỹ M. P. Cohen (2004) đã nhận xét: “Nếu bạn muốn là một nhà phê bình sinh thái, thì bạn hãy chuẩn bị sẵn sàng để giải thích điều mình làm và sẵn sàng chịu bị phê phán, nếu không nói là bị chế giễu.” (Michael P. Cohen, “Blues in Green: Ecocriticism Under Critique”, http://www.asle.org/site/resources/ecocritical-library/intro/blues/). Cohen cũng nhận xét: “Theo định nghĩa, hay ít nhất là theo nguyên ngữ, lý thuyết phê bình sinh thái tổ chức các cuộc thảo luận về văn học môi trường, dựa trên khoa học, sử học và triết học, trong khi nó cũng phê bình các nguồn này. Nếu không, phê bình sinh thái sẽ có thể trở thành một địa hạt mà ở đó văn học sẽ gặp phải định kiến dân gian, và có thể nó sẽ không có gì nhiều ngoài lợi ích xã hội học như là những quan điểm chưa được kiểm tra của các giáo sư văn học mà đồng thời cũng là các nhà hoạt động môi trường nghiệp dư.” Ông nói rõ thêm: “Như vậy, phê bình sinh thái khẳng định gần như chính bản thân phạm vi chữ nghĩa là môi trường chú giải của nó, cái môi trường có hạn mà người đọc hay người viết quan tâm đó có được là nhờ không chỉ các yếu tố quyết định đã được mã hoá về mặt văn hoá, mà còn nhờ các yếu tố quyết định của tự nhiên đã tồn tại trước các yếu tố văn hoá và chúng sẽ tồn tại lâu hơn các yếu tố đó.”
Về tương lai của phê bình sinh thái, Cohen viết: “Phê bình sinh thái cần phải chất vấn sát sao hơn nữa bản chất của văn bản tự sự về môi trường chứ không chỉ đơn thuần ca tụng văn bản đó như nó thường làm.” Trong tinh thần này, Cohen đã gọi một phiên bản của phê bình sinh thái là “trường phái tụng ca”. Nó ca ngợi thiên nhiên và kêu gọi quay về với thiên nhiên, như ASLE đã lấy ý tưởng của John Elder làm khẩu hiệu: “Tôi thà đi bộ còn hơn!” [“I’d rather be hiking!”].
Vì thế Cohen cũng cho rằng: “Rõ ràng, phê bình sinh thái có thể trở thành một chủ đề nóng và đang được tranh cãi trong giới nghiên cứu văn học.” Quả thực, một số người cũng nghi ngờ việc sử dụng ngôn ngữ “sinh thái” trong phê bình sinh thái. Trên thực tế, nhiều bài viết về phê bình sinh thái là của các nhà nhân học và văn hoá học, in thành sách hoặc đăng trên các tạp chí văn học và văn hoá, thậm chí cả tạp chí môi trường (như bài viết nói trên của Cohen đã được đăng trên tạp chí Environmental History [Lịch sử môi trường], No. 9. 1 (January 2004), p. 9-36).
Như vậy, phê bình sinh thái trước hết là một phong trào văn hoá - xã hội bảo vệ môi trường, một phong trào xã hội bảo vệ và phát triển con người. Song nếu nói phê bình sinh thái là một sự “cách tân” trong nghiên cứu văn học thì là một tuyên bố vội vàng và phi thực tế. Vấn đề môi trường chỉ là một trong nhiều vấn đề của văn học và nó cũng không phải là một vấn đề mới. Thực tế văn học chưa bao giờ ca ngợi sự phá huỷ thiên nhiên. Nó cũng không cần phải có những nguyên tắc thẩm mỹ đến mức thiếu chúng thì người ta không biết thế nào là tác phẩm văn học bảo vệ môi trường. Mặt khác, với tư cách là một phong trào văn hoá - xã hội bảo vệ môi trường, phê bình sinh thái đòi hỏi phải có trình độ chuyên gia về khoa học môi trường, về văn hoá học và về khoa học phát triển bền vững. (Thực tế đang có các chuyên gia hoạt động trong lĩnh vực này như chúng tôi đã nói.) Nó hoàn toàn không thể là công việc ngẫu hứng của các nhà phê bình.
Nếu cứ lấy một vấn đề xã hội bất kỳ để gắn một cách gượng ép với văn học và gọi nó là mỹ học, thì chúng ta sẽ có vô vàn lý thuyết mỹ học nhưng không áp dụng được.
(Nguồn: Văn nghệ số 15/2014)
Thứ Năm, 10 tháng 4, 2014
siêu mẫu Nam Phi Candice Swanepoel
Thứ Năm, 10/04/2014 - 15:55
Siêu mẫu Nam Phi gợi cảm từng centimet
(Dân trí) - Candice Swanepoel - chân dài đình đám của Victoria’s Secret là một trong những siêu mẫu Nam Phi thành danh nhất thế giới. Vẻ đẹp ngọt ngào và nét quyến rũ tự nhiên của người đẹp tóc vàng đã giúp cô kiếm được hàng triệu đô la mỗi năm.
Thứ Tư, 9 tháng 4, 2014
Thứ Ba, 8 tháng 4, 2014
tìm đỗ ngọc thạch với Google
Web Results
thƠ tỨ tuyỆt - rƯỢu cẦn - và sÁu bÀi lỤc bÁt - tỨ tuyỆt mÙa thu - ngƯỜi hÀ nỘi - Ở sÀi gÒn xem tranh bÙi xuÂn phÁi -
http://www.newvietart.com/DONGOCTHACH_saigon.html
Đỗ Ngọc Thạch . Sinh ngày l9-5-1948, tại Phú Thọ. Tốt nghiệp Khoa Ngữ Văn Đại họcTổng hợp Hà Nội năm l976; đã tham gia quân đội ...
http://www.trieuxuan.info/?pg=tgdetail&id=495
1. Hóa thạch. Có nhà khảo cổ học nọ sau khi làm xong luận án Tiến sĩ thì phát hiện ra rằng ngành khảo cổ học không còn vấn đề ...
http://www.vannghechunhat.net/truyen/do-ngoc-thach.html
Đỗ Ngọc Thạch . Sinh ngày l9-5-1948, tại Phú Thọ. Tốt nghiệp ĐH Tổng hợp (Khoa Ngữ Văn) năm l976; Làm việc tại các cơ quan: ...
http://vanchuongviet.org/index.php?comp=tacgia&action=detail&id=1831
tìm đỗ ngọc thạch trên Google - trích: 2 truyện ngắn về Bác sĩ
http://dothach.blogspot.com/2013/06/tim-o-ngoc-thach-tren-google-trich.html
Qua sông bằng đò - Truyện ngắn Đỗ Ngọc Thạch Qua sông bằng đò Chuyên mục: Truyện ngắn Đỗ Ngọc ThạchLượt xem: 316
https://plus.google.com/114919060793471437834
Tìm Đỗ Ngọc Thạch trên Google - Trích: người đánh đành Klong Put. truyện ngắn đỗ ngọc thạch; Kết quả tìm kiếm.
http://vnthvymailcom.blogspot.com/2013/06/tim-o-ngoc-thach-tren-google-trich.html
Phê bình và Tiểu Luận của Đỗ Ngọc Thạch- Trích: Sân khấu Tuồng - nguôn gốc và... PB&TL của Đỗ Ngọc Thạch- trích: Sân ...
http://dothach.blogspot.com/2013/08/san-khau-tuong-nguon-goc-va-o-ngoc-thach.html
THAY ĐỔI SỐ PHẬN . Sa Phi là người phụ nữ có tướng sát phu nổi tiếng cả một vùng : người đàn ông nào cưới cô xong cũng ...
http://newvietart.com/index3.1632.html
Ngọc Thạch Đỗ - University of transport in Ho Chi Minh City
https://plus.google.com/101005100793535386742
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)