Thứ Sáu, 30 tháng 9, 2011

82 truyện ngắn Đỗ Ngọc Thạch trên vietvanmoi (trích; Xóm vắng; Quanh Hồ Gươm; Ô Chợ Dừa)


Đỗ Ngọc Thạch (Năm 2010)
82 truyện ngắn trên vietvanmoi(kể cả một số chùm cực ngắn): 1- CHỊ EM SINH BA CÔ GÁI SƠN TÂY VÀ ANH LÍNH BINH NHÌ 3- SỰ NGHIỆT NGÃ CỦA SỐ PHẬN ĐỊA LINH NHÂN KIỆT 5- CHUYỆN NGƯỜI BÁN THUỐC 3 TRUYỆN CỰC NGẮN 7- SINH NGÀY 30 THÁNG 4 CÁI HÚT NƯỚC 9- CÂU LẠC BỘ VIP ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC 11- ĐI LÃNH THƯỞNG TRANH CÃI BẤT TẬN 13- NGƯỜI CUỐI CÙNG CỦA MỘT DÒNG HỌ VÕ TƯỚNG ÂM MƯU VÀ TÌNH YÊU 15- 9 TRUYỆN CỰC NGẮN 8 TRUYỆN CỰC NGẮN 17- 6 TRUYỆN CỰC NGẮN TƯỢNG NHÀ MỒ 19- CHUYỆN NGƯỜI HỎNG THI 5 TRUYỆN CỰC NGẮN 21- 4 TRUYỆN CỰC NGẮN TÔI ĐI LÀM GIA SƯ 23-  7 TRUYỆN CỰC NGẮN NHÀ SƯU TẦM VĂN HỌC DÂN GIAN VÀ NHÀ ĐỊA CHẤT 25- BẠN HỌC LỚP BỐN BẠN HỌC LỚP BẢY 27- THẾ LÀ MỢ NÓ ĐI TÂY !... XÓM VẮNG 29- THỜI GIAN NHẬT KÝ CỦA MỘT CÔ GIÁO (Trích) 31- QUANH HỒ GƯƠM LÀNG KHÔNG CÓ ĐÀN ÔNG 33- ANH NUÔI VÀ CHỊ NUÔI NGŨ HỔ TƯỚNG QUÂN 35- LỜI THỀ THỨ HAI CHUYẾN VI HÀNH CUỐI NĂM 37- SỰ LỰA CHỌN NGHIỆT NGÃ KỲ NHÂN DỊ TƯỚNG 39- VỢ CHỒNG NGHĨA NẶNG TÌNH SÂU MẸ ĐỐP 41- “HUYỀN THOẠI” LÝ TOÉT KIẾM TIỀN TIÊU TẾT 43- CÂU CHUYỆN TẤT NIÊN MẸ TÔI LÀ Y TÁ 45- LÁ THƯ TUYỆT MỆNH CHUYỆN VỢ CHỒNG 47- BĂNG NHÂN CHỜ 49- BẠN HỌC ĐẠI HỌC KÉN RỂ 51- VỤ ÁN CHIẾC NÚT ÁO CASMIA Ở TRỌ 53- Ô CHỢ DỪAMẶC CẢM Ê-ĐÍP 55- NGÀY BA MƯƠI MỐT VỤ  ÁN  XÁC  CHẾT  TRONG  BAO  TẢI 57- KÝ  ỨC  LÀM  BÁO TRỘM   LONG   TRÁO   PHỤNG 59- BA   CHÌM   BẢY   NỔI  ĐÁM   CƯỚI   VÀNG  61- BÁC  SĨ   PHÁP  Y BÁC  SĨ   THÚ  Y 63- KIM   NGÂN   ĐIỀN KÝ ỨC  MÙA  THI 65- GIAI  ĐIỆU  MÙA  HÈ BẠN  VONG  NIÊN 67- LẤY  VỢ  XẤU QUÂN  SƯ 69- ĐỊA  SỨ NGƯỜI  CÓ CON  MẮT  XANH 71- CÁ CHUỐI  ĐẮM  ĐUỐI  VÌ CON BÁT  TIÊN 73- QUẬN  HE XÁN  ĐI  SỨ 75- TAM  THẬP  LỤC  KẾ CHÚA  TRỊNH  -  NGÀY  TÀN… 77- CÔ BẠN  NGÀY  XƯA  HỌC CHUNG  MỘT  LỚP CẮM  SỪNG 79- BÁT  TIÊN (2) Ô  ĐỐNG  MÁC 81- CON  TẠO  XOAY  VẦN ĐUA CHÓ
trích giới thiệu 3 truyện ngắn về Hà Nội: Xóm vắng, Quanh Hồ Gươm; Ô Chợ Dừa
  con gái Hà Nội xưa...

XÓM VẮNG

Truyện ngắn của ĐỖ NGỌC THẠCH
XÓM VẮNG là tên một vở kịch của nhà viết kịch đã quá cố Xuân Trình. Ở đây, tôi không bàn về vở kịch ấy như thế nào mà chỉ muốn nói rằng nếu không có vở kịch Xóm vắng của nhà viết kịch thì chúng tôi không biết gọi tên khu “dân cư” của chúng tôi là gì ? Cho đến nay, đã hơn hai chục năm trôi qua, tôi đã bỏ khu “dân cư” ấy đi giang hồ tới mười lăm năm, vậy mà nay trở lại, nhìn “toàn cảnh” mảnh đất đã chôn sâu một phần hồn mình ở đấy, tôi càng nhận thấy rằng lấy tên Xóm vắng để đặt cho nó thật là thích hợp. Thích hợp tới mức không thể tìm một cái tên khác thích hợp hơn !...Đã hơn hai mươi năm trôi qua, xóm vắng của chúng tôi vẫn thủy chung với cái tên Xóm vắng và ngày càng khẳng định là xóm vắng !...
Những chuyện về xóm vắng của chúng tôi thật là nhiều, thật đa dạng muôn màu muôn vẻ và có thể kể ngàn lẻ một đêm cũng không hết. Tôi dự tính, nếu trời thương tôi, cho tôi một bàn tay ảo thuật thì từ nay, tôi chẳng phải đi “cày thuê cuốc mướn” ở đâu nữa, cứ ngồi viết truyện về xóm vắng gửi đi các báo cũng dư sống ! Cái truyện ngắn này viết nhân dịp trở lại xóm vắng sau mười lăm năm tha phương cầu thực và cũng là để “thử thời vận” nên chưa đánh số thứ tự vì nếu đánh số thì nó sẽ là “Xóm vắng I” !
Trước hết cần nói đôi dòng về địa thế của xóm vắng . Bắc giáp với khu ruộng lầy (xa xưa chắc phải là lau sậy um tùm, sau đó được dân quanh vùng cải tạo và trồng rau cần nước, còn bây giờ thì nhà cửa mọc lên chi chít, có cả nhà lầu với đủ kiểu dáng mô-đéc), đông và nam giáp với sông đen (nước cống thải của thành phố), còn phía tây là sân sau của một xí nghiệp loại nhỏ (không biết họ sản xuất gì mà quanh năm im hơi lặng tiếng, bây giờ cũng đã biến thành khu nhà cửa chi chít như ruộng rau cần phía bắc). Nhìn tổng thể, khu xóm vắng của chúng tôi có địa thế biệt lập rất lý tưởng đối với giới lục lâm thảo khấu thời xưa ! Không hiểu sao, người ta lại chọn khu đất này – vốn là một bãi tha ma hoang vắng – để xây dựng “đại bản doanh” của một cơ quan nghiên cứu cỡ quốc gia ! Xin được miễn nêu tên cái cơ quan nghiên cứu kiểu “ngâm cứu” này vì bạn đọc lại phải mất công tra từ điển danh mục các cơ quan “ngâm cứu” và chưa chắc đã thấy vì cũng như tên gọi “Xóm vắng”, chỉ được lưu hành dưới dạng dân gian truyền khẩu chứ làm gì có tên trong các loại tài liệu sổ sách địa chí hoặc hành chính, cho dù là ở cấp phường !...
Điều tôi muốn kể trước nhất là vì sao tôi lại có mặt ở xóm vắng và vì sao chưa đầy năm năm, tôi lại bỏ xóm vắng đi tha phương cầu thực ? Điều này chỉ có Li – nàng tiên của tôi nhưng đã thành cát bụi – và Mi – người tình khốn khổ của tôi nhưng nàng đã bỏ sang Úc – là biết rõ mà thôi !
Li là một cô gái đẹp tuyệt trần, đẹp tới mức không thể nói về vẻ đẹp của nàng ! Tôi gặp Li vào một buổi tối, khi tôi đến chơi với một người bạn đang làm việc ở cơ quan “xóm vắng”. Lần đầu tiên tới đây, cảm giác đầu tiên của tôi là vắng vẻ, hiu quạnh. Toàn bộ khu xóm vắng được bao bọc bằng tường gạch cao tới 2 mét. Bên trong chỉ dăm ba cái nhà loại xây tạm và những khoảng trống còn lại đều được trồng cây như công viên. “Âm thanh chủ đạo” là tiếng côn trùng và tiếng muỗi bay vo ve. Muỗi ở đây mật độ khá dày, quơ tay là bốc được một nắm ! Dân cư ở đây chưa tới chục người, gồm những người độc thân, sống rải rác trong toàn bộ khu vực “xóm vắng”. Người bạn của tôi mới về đây được vài tháng, đêm nằm ngủ cứ sợ ma vì đã nhiều lần ngủ mơ bị “ma đè” nên đã năn nỉ nhiều lần tôi tới ngủ cùng, nhưng tối nay tôi mới có dự định đáp lại yêu cầu của bạn. Ngồi uống trà tán chuyện gẫu chán, hai chúng tôi định đi ngủ thì bỗng nghe thấy tiếng khóc thổn thức thoang thoảng trong gió đâu đây. Bạn tôi chui vội vào màn, chùm chăn kín mít và nói :
- Ma khóc đấy !...Chắc là một cô gái nào đó chết oan nên thi thoảng linh hồn lại hiện về khóc lóc ! Tớ đã nghe thấy tiếng khóc này nhiều lần rồi ! Nghe tiếng khóc này tớ đoán rằng phải là một người con gái còn trẻ và rất đẹp!...
Mặc cho người bạn nói con cò con cuốc, tôi đi ra ngoài sân và định hướng xem tiếng khóc phát ra từ đâu. Chỉ sau một phút tôi đã xác định dứt khoát đó là tiếng khóc của người sống chứ chẳng có ma quỷ gì cả ! Lần theo hướng tiếng khóc, tôi lò dò đi tới đầu hồi một cái nhà dài và nhận ra dáng một người phụ nữ đang ngồi khóc nức nở bên một gốc cây nhỏ. Tiếng khóc tuy nhỏ nhưng dễ nhận ra là của một người trẻ tuổi. Tôi chỉ còn cách người con gái đó khoảng hơn chục mét thì tiếng khóc biến mất và tiếng nói cất lên :
- Đứng yên !...Chỉ bước thêm một bước ngươi sẽ chết !... - Tôi thoáng giật mình, sởn gai ốc. Nhưng khi đã nhận rõ đó là dáng người thon thả của một người con gái thì tôi yên tâm và hỏi :
- Cô là ai ? Tại sao lại đến đây ngồi khóc ?
- Nhà ngươi ở đây nhưng làm sao mà biết được đây chính là nấm mồ chôn người tình yêu dấu nhất đời của ta? Làm sao mà biết được nỗi bất hạnh tột cùng của ta?
- Chưa biết thì tôi mới phải hỏi! Cô gái bất hạnh ơi, cô hãy nói cho tôi biết đi, tôi sẽ giúp cô được điều gì chăng?
- Ngươi làm sao mà giúp được ta điều gì? Nhưng thôi, ta đã định là sẽ kể cho ai nhìn thấy ta ngồi khóc… Ngươi có hình dung ra được không, lúc người yêu ta đang đứng trên dàn dáo xây dựng ngôi nhà này thì ta đến thăm chàng. Nhìn thấy chàng đang đứng chênh vênh nguy hiểm, ta lo sợ chạy lại để gọi chàng xuống thì ta vấp phải một sô vữa và ngã nhào vào một đống vữa. Bất chợt nhận ra ta, chàng quên phắt đang đứng trên dàn dáo cao, và đã bước vào khoảng không để chạy tới cứu ta!...
Cô gái kể đến đây thì khóc thét lên như đúng cái lúc nhìn thấy người yêu mình rơi từ trên dàn dáo cao xuống ! Tôi chưa hết bàng hoàng bởi câu chuyện của cô gái thì có tiếng chân chạy thình thịch và có tiếng quát :
- Kẻ trộm !...Bắt lấy nó !...
Chỉ trong chốc lát, ba bốn bóng người lố nhố ào tới phía tôi và cô gái. Cô gái bỗng bật dậy rất nhanh và lướt tới sát tôi như một làn gió và nói nhỏ :
- Ngươi hãy đi theo ta và không cần bận tâm tới xung quanh !...
Tôi như người bị thôi miên, chạy theo cô gái trong bóng đêm. Tuy nhiên, tôi vẫn đủ tỉnh táo để nhận thấy cô gái đã dùng những miếng võ điêu luyện để “dọn sạch” những người hô bắt trộm ban nãy trên con đường mà chúng tôi chạy qua. Và tôi còn đủ tỉnh táo để nhận ra đó là những thế võ của quyền chiến Tây Sơn ở vùng đất võ mà khi còn tại ngũ tôi đã được biết đến. Tôi vừa chạy vừa nói với cô gái :
- Cô có phải là người An Vinh ?
- Ủa !...Tại sao anh lại biết quyền An Vinh ?
- Tôi đã từng đóng quân ở đấy và biết cả câu “Roi Thuận Truyền – Quyền An Vinh”
- Thế thì tốt ! Tôi đã gặp được quý nhơn rồi ! Hãy cứ đi theo tôi rồi chúng ta sẽ nói chuyện sau !...
Sau khoảng một giờ đồng hồ, Li – tên cô gái là Li – đưa tôi tới một căn nhà nhỏ ở một khu vực còn hoang vắng hơn cả cái khu “xóm vắng”. Đó là căn nhà đơn sơ nhưng gọn gàng, sạch sẽ. Trong đầu tôi nảy ra hàng trăm câu hỏi định hỏi Li nhưng cô đã kéo tôi nằm lên giường và nói :
- Anh đừng hỏi điều gì và hãy làm theo yêu cầu của em…- Và Li đã nhanh chóng đưa tôi đến một “miền đất lạ” mà từ thuở cha sinh mẹ đẻ tới giờ tôi mới biết !...Sau khi mệt lả vì cuộc ân ái nồng nhiệt với Li, tôi vừa thiếp đi được hai ba phút thì Li đánh thức tôi dậy và nói :
- Bây giờ đã đến giờ em phải ra đi !...
- Em đi đâu? – Tôi giật mình bật dậy.
- Anh cứ ngủ tiếp đi và nhớ làm giùm em việc này : Trong hai năm nữa, cứ đúng ngày ấy, anh lại ra chỗ đó thắp nhang và cầu cho linh hồn anh ấy được siêu thoát !...Hết hai năm thì anh thôi…
- Nhưng em đi đâu? Sao không ở lại đây với tôi ? Chúng ta đã thành vợ chồng rồi cơ mà ?
- Em đi đâu anh không cần biết. Còn chuyện vợ chồng, anh đừng có nghĩ tới làm gì sẽ khổ lụy, bởi em có tướng sát phu !...
Tôi bàng hoàng thảng thốt…Khi tôi định thần trở lại thì đã không thấy Li đâu nữa !...
Để thực hiện lời ủy thác của Li, tôi đã tìm cách xin về làm việc ở khu “xóm vắng” và không những thế, người ta còn cho tôi nhập hộ khẩu vào xóm vắng. Trong suốt hai năm đầu, tôi đã làm đầy đủ điều Li ủy thác. Chính việc âm thầm thực hiện lời ủy thác của Li mà có một cô gái - cũng là thần dân của khu “xóm vắng” đã để ý theo dõi tôi. Và, trong khi mọi người của xóm vắng đều nhìn việc làm của tôi như nhìn một người tâm thần thì Mi – tên cô gái ấy – lại buộc vào tôi sợi dây oan nghiệt của ái tình…Một buổi tối, sau khi tôi vừa thắp nhang cho nấm mộ vô hình kia xong, trở vào phòng ngồi uống trà hút thuốc và cho ý nghĩ bay theo hình ảnh mờ ảo của Li thì Mi đột ngột xuất hiện !
- Anh biết người thanh niên đã chết hay là biết cô gái người yêu của anh ta ?
- Trời đất !...Sao Mi cũng biết mối tình bi thương ấy?
- Em là bạn của Li đây !...
- Là bạn của cô Li ? Chuyện thật là kỳ lạ !...
- Chưa hết đâu, lúc trước anh chàng ấy còn là người yêu của em !
- Lại thế nữa ? Đúng là tiểu thuyết !...Nhưng sau đó vì sao mà Mi lại thôi ?
- Em đâu có thôi !...Vì bố mẹ em bắt em lấy chồng …
- Ông chồng bây giờ đang đi nghiên cứu sinh chứ gì ?
- Đúng !...Cái Li nó có tướng sát phu dữ lắm ! Nó yêu ai người đó cũng chết bất đắc kỳ tử ! Ba chàng trai chết vì nó rồi đấy !...
- Trời ơi ! Thật vậy sao ? Nếu thế thì tôi …
- Anh định nói nó cũng yêu anh chứ gì ? Không đâu, chắc là anh đã ăn nằm với nó, nhưng đừng nghĩ là nó yêu anh ! Nó đã biến mất như nàng tiên bay về trời sau lần gặp anh chứ gì ?
- Sao Mi lại biết chuyện ấy ?
- Nhìn cái việc anh làm là biết liền à !...Thôi, anh hãy quên cái Li đi và hãy biết rằng vì câu chuyện tình ấy mà anh đã gặp em ! Anh hãy yêu em đi !...
- Nhưng em có chồng rồi cơ mà !...
- Anh hãy yêu em nhưng đừng có nghĩ đến chuyện chúng mình lấy nhau. Em có tướng “vượng phu ích tử”, ai yêu em đã trở nên sung sướng , khá giả. Chồng em ngày xưa cũng khổ sở , cô đơn, cơm niêu nước lọ như anh đó !...Em thương anh…
Nói rồi Mi kéo tôi vào vòng tay vừa nóng bỏng vừa mát lạnh của em…Từ hôm đó, tôi lao vào mối tình vụng trộm với Mi như con thiêu thân. Dù kín đáo đến mấy, cuối cùng chuyện của tôi và Mi cũng lộ ra. Người đầu tiên phát hiện chính là ông Sếp của tôi. Sau này, Mi đã nói cho tôi biết rằng ông Sếp đã nhiều lần nhìn thấy tôi và Mi ân ái với nhau, và mỗi lần nhìn thấy như vậy, ông ta đều đứng ngây ra và “soóc-ti” ra đầy quần ! Không kìm được, ông ta đã buộc ép Mi phải chấp nhận mối tình của ông với Mi nếu không sẽ “đì” tôi không ngóc đầu lên được!...Ở vào tình thế nan giải như thế, nhân dịp hết hạn làm cái việc mà Li ủy thác trước đây, tôi xin chuyển công tác vào Tây Nguyên (thay vì cho việc tôi sẽ được đi “Tây” làm nghiên cứu sinh như Mi đã dàn xếp với ông Sếp) với hi vọng sẽ tìm thấy Li ở vùng đất quê hương của Li. Nhưng khi về đến quê Li, tôi được biết Li đã chết trong một trận đánh không cân sức với một bọn cướp có trang bị cả súng đạn. Đau khổ, tôi quay trở về tìm Mi, nhưng Mi đã đi theo chồng sang định cư ở Úc !...Buồn bã, tuyệt vọng , tôi cư trú tạm thời ở xóm vắng được nửa năm thì bất ngờ ông Tơ bà Nguyệt bắt tôi lấy vợ thực sự ! Lấy vợ, có con, tưởng chừng sẽ định cư vĩnh viễn tại xóm vắng, ấy vậy mà tôi lại phải “khăn gói quả mướp” ra đi với lời khuyên của một ông bạn già : “Xóm vắng là vùng đất dữ, cậu không trụ được đâu!”. Tại sao xóm vắng là vùng đất dữ, cho đến bây giờ, sau 15 năm giang hồ tôi mới hiểu ra. Và muốn kể nhiều về điều này, phải chờ một dịp khác !...
Sài Gòn, 1997-2009
Đỗ Ngọc Thạch



QUANH HỒ GƯƠM

Truyện ngắn của ĐỖ NGỌC THẠCH

1.
“Quanh Hồ Gươm không ai bàn chuyện Vua Lê…” , biết là như thế, vậy mà khi đi dạo quanh Hồ Gươm, thấy có ai đang nói chuyện với nhau, tôi cũng đi sát họ và dỏng tai nghe xem họ có bàn chuyện Vua Lê hay không? Đó là thói quen thứ nhất và không hề mất đi của tôi.
Thói quen thứ hai là đã đến Hồ Gươm thì động tác đầu tiên là ngó nhìn xuống mặt hồ xem Rùa có nổi lên hay không? Nếu có thì reo lên rồi chỉ chỏ kêu người đứng gần tới xem, còn nếu không có thì chốc chốc lại ngó xuống mặt hồ tìm kiếm. Thói quen này cũng không hề mất đi.
Thói quen thứ ba là đã đến Hồ Gươm thì thế nào cũng phải ăn kem Bờ Hồ, bất kể mùa hè hay mùa Đông. Cụm từ “Kem Bờ Hồ” để nói về hai vị trí: Kem que bán ở cái Ki-ốt nằm trên bãi đất trống ở góc có hai đường cắt nhau là đường Lý Thái Tổ và đường Tràng Tiền và Kem Cốc (Ly) bán ở trong Nhà Thủy Tạ. Tôi xin đưa ra nhận xét về Kem Bờ Hồ rằng: Tính từ năm 1954 (năm tôi về sống ở Hà Nội) trở lại đây, chất lượng ngày càng kém đi. Mỗi lần từ phương xa trở về Hà Nội, tôi đều đến Bờ Hồ ăn Kem và đều phải nuối tiếc cái cảm giác tuyệt vời khi “ăn Mùa Đông” đã bị mất dần độ khoái cảm!...

Lúc còn nhỏ, việc đi chơi Hồ Gươm là một việc quan trọng, phải được bố trí, sắp xếp trước bởi nhà tôi ở khá xa Hồ Gươm, và lúc đó, đi dạo công viên hoặc đi dạo Hồ Gươm là hình thức giải trí “Cao cấp” của tầng lớp “Quý tộc” hoặc giới ăn trắng mặc trơn nhàn hạ. Tuy nhiên, ngày Chủ Nhật, ngày Lễ, Tết thế nào anh chị em chúng tôi cũng làm một chuyến đi chơi Bờ Hồ. Đối với trẻ con lúc ấy (cuối những năm 1950), Bờ Hồ còn có món đặc sản rất hấp dẫn nữa là “Thịt Bò khô”, bán trên cái tủ cơ động của mấy người Việt gốc Hoa, thường tụ tập ở gần bến Xe Điện Bờ Hồ…

Không hiểu tôi có cơ duyên gì với Hồ Gươm mà có tới ba lần sống gần Hồ Gươm và Hồ Gươm trở thành một phần quan trọng trong Ký ức của tôi về Hà Nội…

Lần thứ nhất là vào tháng 8 năm 1966, tôi có giấy gọi vào Khoa Toán trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, (lúc đó đã sơ tán về tận huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên) nhưng vì bố tôi muốn tôi vào Trường Đại học Y Dược Hà Nội, tôi lại không nghe theo nên ông đã giận mà xé giấy gọi của tôi đi, đồng thời không cấp “Lộ phí” cho tôi đi Thái Nguyên! Không còn cách nào khác, tôi phải đi làm thuê kiếm tiền và rất may cho tôi, sau khi làm một giấc ngủ ngon lành trên băng ghế đá ở góc Bờ Hồ , đối diện nhà hàng Phú Gia ở bên kia đường Lý Thái Tổ, tôi tính vào nhà hàng này làm một bữa no cho biết mùi “Nhà giàu” (Phú Gia) thì thấy một bà già đi bộ bị một người đi xe mô-by-lét (xe máy tay ga loại nhẹ khá phổ biến ở Hà Nội lúc đó) quệt phải người, ngã lăn quay giữa đường, tôi liền đỡ bà cụ dậy và đi về phía nhà hàng Phú Gia. Vừa tới trước cửa nhà hàng Phú Gia thì có một người đàn ông trung niên đi từ trong nhà hàng ra, nhìn thấy tôi dìu bà cụ tới thì giật mình ào tới, hỏi han rối rít…Thì ra ông ta là đầu bếp trong nhà hàng Phú Gia, sau khi biết rõ tình cảnh và nguyện vọng của tôi, đã cho tôi vào làm phụ bếp và tôi cũng xin được ngủ đêm tại Nhà hàng.
Lần thứ hai là khi tôi còn đang học tại Khoa Toán ĐHTH (lần thứ hai, sau khi đi lính về), tôi thường về nhà người bạn ăn ngủ, ở ngay đầu phố Cầu Gỗ, đối diện bến xe Điện Bờ Hồ.
Lần thứ ba là khi tôi làm việc (và ăn ngủ tại phòng làm việc) tại Viện Văn học, ở phố Lê Thái Tổ, không sát Hồ Gươm nhưng cũng chỉ bước vài bước qua phố Hàng Dầu là tới Hồ Gươm.
Truyện ngắn Quanh Hồ Gươm này chủ yếu nói về ba lần sống bên Hồ Gươm đó!...
2.
Từ lúc được sinh ra đời, tôi chưa bao giờ nghĩ đến cái Chết (mặc dù đã phải đối mặt với không ít hiểm nguy), cho nên tôi thực sự ngạc nhiên khi thấy có người tự tìm đến cái Chết (tự tử) và không hiểu tại sao họ lại muốn chết? Một buổi chiều bình lặng, khoảng bốn, năm giờ, tôi vừa đi dạo một vòng quanh Hồ Gươm, tính vào cầu Thê Húc ngắm cảnh hoàng hôn quanh hồ, vừa đặt chân lên cầu thì thấy ở giữa cầu, có một người vừa nhảy xuống hồ. Tôi chạy lại, ngó xuống thì thấy đó là một người đàn bà, đầu còn ló trên mặt nước, hai tay đập nước loạn xạ! Tôi liền nhảy xuống, tóm tóc người đàn bà lôi vào bờ!...Thì ra chị ta chính là phục vụ bàn của nhà hàng Phú Gia, nơi tôi đang làm phụ bếp! Khi nhận ra tôi, chị ta nói: “Chú cứu tôi làm gì! Tôi đã bị lừa, bị cướp đi cái quý giá nhất của người con gái, còn sống làm gì nữa?” Tôi bảo: “Chị bị lây bệnh thất tình của các tiểu thư đài các trong tiểu thuyết ái tình rồi! Không có cái gì quý giá bằng sinh mạng! Chị hãy quên “chuyện lừa đảo” ấy đi, nó cũng chỉ như người ta bị mất trộm mà thôi! Nếu có bản lĩnh thì nghĩ cách báo thù, cho kẻ Sở Khanh kia một bài học là xong! Đó là cách nghĩ của người lao động chúng ta!”. Chị ta suy nghĩ một lúc thì thở dài rồi nói: “Cậu còn trẻ tuổi mà sao nghĩ sự đời rành mạch quá, tôi sẽ nghe theo cậu! Nhưng tôi phải nhờ cậu bày cho một mưu kế để trả thù thằng cha Sở Khanh kia, hắn thường đến ăn ở nhà hàng Phú Gia đó!”…Tôi liền bày cho chị ta một mẹo nhỏ trong “Tam thập lục kế”. Ba ngày sau, chị phục vụ bàn gặp tôi nói: “Mẹo của anh hay quá, nhưng liều thuốc mê tôi cho vào ly rượu của hắn lại lấy nhầm gói thuốc độc, nên hắn đã chết luôn rồi! Bây giờ phải làm sao?” Tôi nói ngay: “Thì kéo hắn ra khỏi cái buồng Thuyền trưởng rồi thả xuống sông nhờ Long Vương phán xử!” (gã Sở Khanh Kia là Thuyền trưởng một con tàu vận tải đường sông). Thời gian cứ bình thản trôi đi mà không thấy chị phục vụ bàn nói gì, chắc không ai điều tra về cái chết của gã Thuyền trưởng vì điều tra làm sao khi trong phòng Thuyền trưởng của gã có rất nhiều dấu vết và hiện vật của rất nhiều cô gái khác nhau và điều đặc biệt là người ta còn tìm thấy trong một cái thùng giấy các-tông có tới ba chục bộ đồ lót của ba chục cô gái khác nhau!...Thì ra gã Thuyền trưởng là một “Yêu râu Xanh” đã làm hại đời biết bao cô gái dại dột! Lão ta chết cũng đáng đời!...

Một tuần sau nữa, chị phục vụ bàn cưới chồng, chồng là cửa hàng trưởng một cửa hàng ăn uống khác, thường qua lại Phú Gia. Sau khi giới thiệu tôi là ân nhân cứu mạng trong vụ nhảy cầu Thê Húc, người chồng liền đưa tôi một món tiền lớn gọi là ủng hộ “Sinh viên nghèo” làm lộ phí lên Đại Từ, Thái Nguyên nhập học!...”. Tôi cảm tạ vô cùng vì tính ra cho đến lúc đó, tôi làm phụ bếp ở nhà hàng Phú Gia đã gần một tháng mà vẫn chưa để dành được đồng nào vì cứ mỗi tuần lĩnh tiền xong, tôi lại vào Nhà Sách Tràng Tiền và mê mẩn thế nào mà mua sách hết số tiền công mới được nhận!...
3.
Trong thời gian ở nhà anh bạn ở phố Cầu Gỗ (gọi là phố Cầu Gỗ nhưng tôi chẳng thấy có cái cầu bằng gỗ nào?), tôi cũng thường xuyên đi dạo quanh Hồ Gươm và cũng thường lên cầu Thê Húc bởi mỗi khi tới cầu Thê Húc là lại nhớ đến vụ nhảy cầu năm xưa của chị phục vụ bàn nhà hàng Phú Gia. Hôm ấy, tôi vừa đặt chân lên cầu Thê Húc thì hệt như cái hồi năm 1966, tôi vụt thấy ở giữa cầu có người vừa nhảy xuống hồ! Tôi lại nhảy xuống và tóm tóc nạn nhân lôi vào bờ. Và tôi thật sự kinh ngạc khi nạn nhân lại chính là người phụ nữ đã nhảy cầu năm năm trước, tức chính là chị phục vụ bàn nhà hàng Phú Gia ngày xưa!... Chị ta cũng kinh ngạc khi nhận ra tôi rồi òa khóc, hồi lâu mới nói: “Chồng tôi bây giờ nó có nhân tình trẻ đẹp, nó không còn ngó ngàng gì đến vợ con nữa! Vậy thì tôi sống mà làm gì? Mà tại sao lại là anh? Anh cứu tôi mà làm gì?” Tôi nói: “Sao chị cũng không đi kiếm nhân tình giống như ông ấy? Chị không thể chịu thua ông ấy được, chị không biết câu “Ông ăn chả bà ăn nem” sao? Việc gì mà lại dại dột đi tìm cái chết?” Chị ta nghe nói vậy thì như là bừng tỉnh sau cơn mê ngủ, sau đó sửa sang lại nhan sắc, để trái tim hòa cùng nhịp sống! Chẳng mấy chốc ong bướm lượn lờ quanh mình, chỉ quờ tay ra là bắt được nhân tình, nhân ngãi! Từ đó mải mê với những cuộc tình gió trăng, chị ta quên luôn chuyện người chồng phụ bạc!...

Người bạn tôi ở Cầu Gỗ cũng đi lính với tôi một đợt năm 1966, học ở Khoa Lý, lại trúng tuyển vào Không quân, được sang Liên Xô học lái máy bay nhưng sau đó do sức khỏe có vấn đề nên lại trở về trường cùng một đợt với tôi, lại học ở khoa Lý. Người bạn này rất quan tâm đến cuộc sống của bạn bè và thường khuyên tôi nên cưới vợ cho ổn định cuộc sống. Một hôm, anh dẫn tôi đến nhà một người quen, trên đường đi, anh nói: “Tôi có người bà con họ hàng xa, đã một đời chồng, hiện sống với cô con gái bốn tuổi, nhà cửa đàng hoàng, làm việc ở một cửa hàng ăn uống, không lo đói! Tôi đã nói chuyện về ông với chị ta, cơ bản là xong rồi, chỉ còn ở phần của ông nữa mà thôi!”. Nhưng khi chúng tôi tới nhà người họ hàng của anh bạn thì người ở trong nhà là chủ nhà mới, người này nói chị chủ nhà cũ (tức người bà con với anh bạn tôi) đã bán nhà cho anh ta được ba ngày nay và hình như đã vào Sài Gòn rồi! Anh bạn tôi nghe nói vậy thì lẩm bẩm: “Đúng là cuộc sống luôn vận động nhanh và mạnh hơn ta nghĩ!” Còn tôi thì sực nhớ ra rằng cách đây một tháng, tôi đã đưa chị phục vụ bàn ở chân cầu Thê Húc về chính ngôi nhà này. Thì ra người bà con họ hàng xa mà anh bạn tôi định giới thiệu cho tôi lại chính là người đã hai lần nhảy cầu Thê Húc để tìm cái chết! Lần này chị ta đi vào phương Nam xa xôi ngập nắng, chắc sẽ là điều tốt bởi từ lâu chị ta thường hay nói câu: “Tôi muốn đi thật xa, đến một nơi nào đó không biết tôi là ai, tôi sẽ làm lại từ đầu!”. Tôi thường nghe câu nói này ở khá nhiều người và tôi luôn nghĩ, sao người ta không “làm lại từ đầu” ở ngay nơi đã sống, đã quen thuộc?
4.
Tám năm sau, tôi về làm việc ở Viện Văn học, ăn ngủ ngay trong phòng làm việc ở 20 Lê Thái Tổ, coi như cũng là ở cạnh Hồ Gươm. Ngày nào tôi cũng đi dạo quanh Hồ Gươm ít nhất là ba lần: sáng chạy bộ quanh Hồ Gươm hai vòng, trưa đi tới Thư viện Quốc Gia ở phố Tràng Tiền cũng phải qua Hồ Gươm và khoảng Mười giờ đêm thường đi dạo quanh Hồ Gươm vì đọc sách và viết bài gì đó xong thì… đói!

Có lẽ thời gian từ nửa đêm về sáng ở quanh Bờ Hồ là có nhiều chuyện nhất với đủ các sắc thái tình cảm khác nhau. Ở đây, tôi chỉ rút ra hai, ba chuyện có liên quan tới đề tài của Truyện ngắn này!
Một hôm, như mọi ngày, tôi vừa viết xong một bài tiểu luận bắt buộc thì đã mười một giờ đêm. Bụng đói cồn cào, tôi liền tới Phở Thìn tự thưởng cho mình một tô đặc biệt. Ăn được nửa tô thì có một người thiếu phụ khoảng hơn năm chục tuổi bước vào, ngồi xuống bàn cạnh bàn tôi. Bà ta lặng lẽ ăn phở, bình tĩnh, thong thả … Khi ăn xong tô phở, tôi nhìn lại người thiếu phụ và bỗng nhận ra bà ta chính là người đã hai lần nhảy từ cầu Thê Húc xuống Hồ mà tôi đã nói trên. Tôi định hỏi chuyện bà ta nhưng lại nghĩ, “Trời đánh còn tránh miếng ăn”, người ta đang ăn không nên làm phiền và lỡ ra nhận lầm người thì sao? Tôi liền ra khỏi quán phở và đi về phía cầu Thê Húc. Không có ai trên cầu. Tôi đi vào cầu và khi tới giữ cầu thì ngồi xuống, dựa lưng vào thành cầu. Gió nhẹ thổi, không khí mát lạnh khiến cho tôi có cảm giác buồn ngủ và cái ngủ ập tới từ lúc nào!...
Tôi đang mơ màng với những ý nghĩ và hình ảnh lộn xộn thì nghe có tiếng nói rì rầm: “Có ai đang ngồi trên cầu thế này? Đúng chỗ của chúng ta!”, “Đệ tử Cái Bang chứ còn ai nữa! Mặc kệ người ta! Chúng ta tiến hành đi!”, “Nào, ba chúng ta cầm chặt tay nhau. Đào nói trước đi!”, “Thưa Thần Rùa, em là Hoa Đào, 18 tuổi, nguyên học sinh lớp 12A1, vì thi trượt Đại học mà bị bố mắng nhiếc thậm tệ rồi đuổi khỏi nhà! Em xin xuống làm nô tỳ cho Phu nhân Thần Rùa!”, “Thưa Thần Rùa, em là Hoa Cúc, 18 tuổi, nguyên học sinh lớp 12A1, bị bạn trai bỏ rơi rồi lại bị thầy giáo Chủ nhiệm cưỡng bức, có thai đã ba tháng! Em xin xuống làm nô tỳ cho Phu nhân Thần Rùa!”, “Thưa Thần Rùa, em là Hoa Lan, 18 tuổi, nguyên học sinh lớp 12A1, em không thể học được vì khó quá, mà bố mẹ cứ bắt em học. Em bỏ nhà đi hoang nhưng đi hoang thì đói và rét, lại không có chỗ ngủ. Vậy em xin xuống làm nô tỳ cho Phu nhân Thần Rùa!”. Tôi nghe các cô bé nói khá rõ nhưng muốn mở mắt ra nhìn mà không được, muốn đứng dậy mà đôi chân như không phải của mình! Tôi thoáng nghĩ, đây hẳn là một vụ tự tử tập thể, vậy phải ngăn lại ngay! Tôi định la to “Dừng lại!” nhưng mồm lưỡi cũng như là không điều khiển được! Rồi có tiếng “ùm” rất lớn và nước từ dưới hồ văng lên người tôi như một cơn mưa bóng mây! Vừa ngớt “cơn mưa bóng mây”, mắt tôi mở ra được và nhìn rõ mọi vật xung quanh thì thấy người thiếu phụ ở quán Phở Thìn ban nãy xuất hiện và nói: “Chào cậu! Cậu bị “Đóng băng” rồi, chỉ nghe chứ không cử động gì được! Từ trong quán Phở Thìn, tôi đã nhận ra cậu, những tưởng cậu sẽ lại ngăn cản tôi xuống Thủy Cung, nhưng lần này thì cậu bị “Đóng băng”, chẳng thể làm gì được đâu! Cậu muốn biết tại sao tôi lại muốn chết chứ gì? Bởi vì thằng “Bồ” của tôi nó thật táng tận lương tâm, sau khi “no xôi chán chè”, nó bán cả hai mẹ con tôi cho một “ổ Nhện” ở tận bên Campuchia! Nói sao hết nỗi tủi nhục ê chề, con gái tôi đã mất tích! Tôi không thể bỏ xác nơi đất khách quê người được, tôi phải trở về lòng Hồ Gươm, nơi có người mẹ trẻ của tôi đã an nghỉ từ thế kỷ trước!” Tôi thoáng nghĩ, thì ra người mẹ của bà ta cũng đã trầm mình nơi đây, hèn chi cứ gọi con gái hoài! Tôi định nói lời từ biệt với người thiếu phụ nhưng bà ta đã nhảy xuống hồ từ lúc nào, nước hồ lại văng lên người tôi như cơn mưa bóng mây!...
Mười năm sau, tôi mới có dịp trở lại Hà Nội sau những năm dài phiêu bạt giang hồ. Đêm hôm ấy, tôi ra Hồ Gươm và vừa đặt chân lên cầu Thê Húc thì thấy một thiếu nữ chưa tới tuổi đôi mươi đang đứng khóc giữa cầu. Cô gái vừa khóc vừa nói nên nghe không rõ lắm, khi tôi lại gần mới nghe được rõ đoạn cuối: “…Mẹ ơi, con chưa thể xuống với mẹ được vì chưa tìm thấy kẻ thù của mẹ con mình! Con xin hứa là sẽ tìm bằng được dù nó có phép thăng thiên, độn thổ hay tàng hình!...Mẹ hãy phù hộ cho con, mẹ ơi!...”. Tôi đi sát tới cô gái thì giật mình kinh ngạc vì cô ta giống người thiếu phụ đã ba lần nhảy xuống hồ từ cầu Thê Húc như hai giọt nước!
Sài Gòn, Trung tuần tháng 11-2009
Đỗ Ngọc Thạch

Ô CHỢ DỪA

Truyện ngắn của ĐỖ NGỌC THẠCH

Phải đến năm 1980 tôi mới chính thức trở thành cư dân của Ô Chợ Dừa, tức là lúc tôi từ Viện Văn học ở phố Lê Thái Tổ (gần Hồ Hoàn Kiếm – tức Trung tâm Thủ đô) chuyển về cơ quan Tạp chí Nghiên cứu Nghệ thuật, nằm bên đường Đê La Thành thuộc địa phận phường Ô Chợ Dừa. Nói đến các cửa ô ở Hà Nội là nói đến vùng ngoại vi của Thành Thăng Long xưa, chứ bây giờ tất cả các cửa ô của Hà Nội đều đã trở thành Trung tâm sầm uất, đô hội của Thủ đô chứ không còn một chút gì gợi nhớ vùng ngoại vi, vùng ven đô nữa! Tuy nhiên, sự chuyển chỗ làm (và cũng có nghĩa là chỗ ở vì tôi làm ở đâu là ở luôn đó, nằm lên bàn làm việc luôn), của tôi từ khu Trung tâm Bờ Hồ ra vùng cửa Ô Chợ Dừa vẫn bị gia đình, bạn bè cho là dại dột, giống như bỏ chỗ sáng ra chỗ tối! Song, tôi lại nghĩ đó là duyên phận, tức số phận tôi đã gắn bó với Ô Chợ Dừa lầm bụi từ kiếp trước!

Thực ra từ năm 1970, lúc tôi ra quân, trở về tiếp tục học lại tại Khoa Toán Trường ĐH Tổng hợp Hà Nội, thì gia đình tôi đã chuyển từ Hải Phòng về Hà Nội được hai năm và ở trong khu tập thể Bộ Y tế trên đường Giảng Võ. Thời gian đầu, tôi ở ngoại trú, hàng ngày đạp xe từ Giảng Võ tới Khoa Toán ở Khu Thượng Đình (đối diện khu Nhà máy Cao – Xà – Lá) cho nên ít nhất là mỗi ngày tôi đã đi qua Ngã năm Ô Chợ Dừa hai lần! Con đường từ Giảng Võ – đê La Thành – Ngã năm Ô Chợ Dừa – Hàng Bột – Ngã Tư Sở - Bến xe điện Cao-Xà-Lá – Khu Thượng Đình đã trở thành quen thuộc đối với tôi, như mạch máu trong cơ thể. Thêm nữa, tôi có người bạn học cùng lớp Khoa Toán lúc ấy, tên là Vũ, có nhà ở ngay chỗ chuyển tiếp từ đường Đê La Thành qua Hàng Bột nên tôi thường vào đây chơi và vì thế, có thể nói cửa ô Ô Chợ Dừa đã rất thân thuộc đối với tôi từ năm 1970. Ở ngay cạnh nhà bạn Vũ, có Bưu Điện Ô Chợ Dừa, là nơi tôi thường xuyên tới mua báo, gửi thư và nhận Bưu kiện, thư bảo đảm…Chợ của Ô Chợ Dừa khá đặc biệt: toàn bộ khu chợ thấp hơn mặt đường đê La Thành khoảng năm mét, cho nên muốn xuống chợ phải tụt dốc khá nguy hiểm, ai đi không quen có thể sẽ té ngã vài lần! Có lẽ vì khu chợ khá đặc biệt như vậy cho nên tên của chợ được lấy làm tên cửa ô?
Nếu lần giở các tài liệu thư tịch cũ, ta sẽ thấy Ô Chợ Dừa thường được nhắc tới trong “Top 5 cửa ô” còn sót lại của 16 cửa ô (có nơi nói 21?) của thành Thăng Long xưa: Ô Quan Chưởng, Ô Cầu Giấy, Ô Chợ Dừa, Ô Đông Mác, Ô Cầu Dền. Và trong 5 cửa ô còn sót lại trong ký ức của người dân Hà Nội thì chỉ có Ô Quan Chưởng là còn gần như nguyên vẹn kiến trúc cửa ô ban đầu, trong khi bốn cửa ô kia chỉ còn cái tên mà thôi! Song, việc chỉ còn lại cái tên mới gợi nhiều suy nghĩ, nhất là đối với những người có nhiều trí tưởng tượng. Chẳng hạn như có một nhà thơ người Hà Nội, tên là Thi Hào Nam, có một dạo, cứ vào khoảng nửa đêm giờ Tý lại đến nhà tôi (lúc đó tôi đang ở trong cơ quan Tạp chí Nghiên cứu Nghệ thuật), rủ tôi ra ngã Năm Ô Chợ Dừa uống rượu rồi cứ đi tìm vị trí đích thực của cửa ô ngày xưa ở đâu? Mỗi lần đứng ở một vị trí mà ông cho rằng đó chính là vị trí của cửa ô ngày xưa, ông lại đọc câu thơ như là bùa chú: “Nếu đây là nơi cửa ô ngàn xưa / Thì ta xin hóa thành con ngựa đá / Nếu đây là nơi em đứng mộng mơ / Thì ta xin hóa thành xanh thảm cỏ!”. Tôi thường nói: “Những cái gì nó đã qua đi, không thích ở lại, thì cho nó qua! Chẳng nên gượng ép làm gì uổng công!”. Nhà thơ như là nổi giận, nói: “Không được! Nó trôi qua không có nghĩa là nó không thích ở lại! Nhiệm vụ của những thế hệ sau là phục dựng lại những cái đã trôi qua và muốn biến mất của quá khứ!”. Lúc đó, tôi cho rằng nhà thơ này gàn dở nên chẳng bao giờ tranh luận dài dòng. Mặc cho ông ta đi xác định vị trí đích thực của cửa ô ngày xưa, tôi ngồi uống hết chai rượu! Và thật kỳ lạ, lần nào cũng vậy, cứ gần hết ly rượu cuối cùng là tôi lại mơ màng ngủ gà ngủ gật và thấy ngay chỗ tôi ngồi hiện lên một cái cửa ô rất cao lớn, uy nghi đường bệ và thấy rất đông văn nhân sĩ tử nối nhau đi qua cửa ô, đi thẳng đến Văn Miếu – Quốc Tử Giám!

Nhà thơ người Hà Nội có tên là chính Làng quê mình mà tôi vừa nói tới ở ngay trong Làng Hào Nam, tức từ trên đê La Thành, đổ dốc qua khu vực cơ quan Tạp chí của tôi (cùng một vị trí này là bốn viện nghiên cứu thuộc Bộ Văn hóa : Viện Văn hóa, Viện Mỹ Thuật, Viện Sân khấu, Viện Âm nhạc) là địa phận làng Hào Nam. Nhà thơ của tôi có thể là một “Nhà Hà Nội học” ngang ngửa với không ít những “Nhà Hà Nội học” nhưng có vẻ như là một “Nhà Hào Nam học” số một. Ông có thể nói vanh vách về Làng Hào Nam của mình từ thuở sơ khai đến nay và có thể nói trúng không sai một chữ rằng đã có những tài liệu nào, cuốn sách nào nói về làng Hào Nam của ông. Khi có ai muốn hỏi ông điều gì đó về Làng Hào Nam thì trước tiên là nghe ông nói chậm rãi, thong thả như cha cố giảng đạo, như sư thầy đọc kinh những nội dung sau:

“Đình và đền ở Làng Hào Nam (Ô Chợ Dừa, Đống Đa, Hà Nội) là một trong những cụm di tích lịch sử văn hóa rất độc đáo và có nhiều giá trị văn hóa hiếm có hiện còn trên địa bàn Hà Nội.

Đình là một trong 13 nơi thờ Thánh Linh lang Đại vương, còn đền là nơi thờ Vạn ngọc Thuỷ tinh công chúa. Đã thành thông lệ, từ ngày mùng 10 đến 13 tháng Hai Âm lịch hàng năm, người dân nơi đây lại tổ chức lễ hội nhằm tưởng nhớ công lao của các đấng linh thiêng.

Theo sử sách đã ghi, Linh Lang Đại vương sinh năm 1030, là con của vua Lý Thái Tông, năm 1077 ông hy sinh khi cùng Lý Thường Kiệt sau khi đánh tan quân Tống trên sông Như Nguyệt. Trước khi mất, ông nói với vua cha: “Ta là con thần Rồng nước lên giúp vua đánh giặc giữ nước, xong công việc rồi phải trở về cùng Rồng nước”. Sau đó, ông được phong là Linh Lang Đại vương thượng đẳng tối linh thần.Vua Lý Thái Tông sai lập đền, miếu thờ ông ở các nơi như: Trại Thủ Lệ ngay chỗ cung bà mẹ ở; Làng Bồng Lai quê hương bà mẹ và các làng Đại Quan, Hào Nam là những nơi ông đã trú quân. Đền Hào Nam thờ bà Thủy Tinh công chúa, tức công chúa phù Thái úy Lý Thường Kiệt đánh giặc Tống trên sông Như Nguyệt. Đình – đền Hào Nam là một trong những cụm di tích cổ ở Hà Nội thuộc diện “Tối Linh Từ”. Bao năm nay người dân nơi đây ý thức rất rõ về công lao của các anh hùng có công với đất nước nên không ngừng giữ gìn, tôn tạo, tu bổ công trình. Theo lưu truyền trong dân gian, năm nào cũng vậy, mỗi khi Hào Nam tổ chức lễ hội, rước kiệu lên Thủ Lệ (nơi chính thờ Linh Lang) thì đều có hiện tượng “kiệu bay”, người dân thường nhắc nhau câu thơ: “Dân Hào Nam niềm vui khôn xiết / Khách thập phương dâng lễ rất đông / Dân ta con cháu Lạc Hồng / Hào Nam - Thủ Lệ lạ lùng kiệu bay”.

Đình - đền Hào Nam có kiến trúc độc đáo với kiểu dáng và họa tiết cũng như bài trí theo cách truyền thống xưa. Đình được thiết kế theo hình chữ Đinh, đền thì hình chữ Tam. Toàn bộ đều được chạm bọng, chạm lộng, tinh tế. Hai đầu của đình có rồng vờn mây. Nhất là trên hai cột đồng trụ nghi môn có thượng cầm hạ thú, dưới cột thay hình Long, Lân, Quy, Phượng của ngôi đình khác, ở đây chỉ có duy nhất chữ “Linh”. Điều này phần nào đã nói rõ tất cả sự linh thiêng cũng như khác biệt của đình Hào Nam. Ngoài ra, ở hai bên đầu hồi đình, cạnh cột đồng trụ có gắn bức phù điêu cá chép hóa rồng. Bởi Hào Nam là vùng trũng, nhiều tôm cá, đây cũng là một nét văn hóa vật thể làm nên cái riêng, cái đặc sắc của Hào Nam. Nằm ngay bên cạnh là năm gian tiền bái và hai bên tả vu, hữu vu của ngôi đền, bên trong mọi họa tiết vẫn được giữ nguyên như thuở ban đầu. Đặc biệt là hình của hai ông Nghê, toát ra vẻ mặt thiêng liêng và đầy nghiêm khắc của người kiểm soát linh hồn kẻ hành hương. Nơi đây vẫn giữ được một không gian văn hóa cổ kính và linh thiêng với hàng chục cây cổ thụ trăm năm tuổi, những văn chỉ thờ đức Khổng Tử cũng như nơi thờ thầy đồ Vũ Thạch đã có công mở trường dạy học cho người Hào Nam…

Tự hào về truyền thống lâu đời của mình, cứ vào ngày 10 tháng 2 âm lịch hàng năm, chính quyền và nhân dân Hào Nam làm lễ rước kiệu Đức thánh Linh Lang Đại vương về miếu thờ mẹ ông ở Thủ Lệ và đến ngày 13 tháng 2 âm lịch lại võng lọng rước về đình - đền Hào Nam, tưởng nhớ truyền thống anh hùng dựng nước và giữ nước của cha ông ta và lịch sử hiển hách, ngàn năm văn hiến”.
Nếu tính từ năm 1970, tức là thời gian tôi mới “làm quen” với Ô Chợ Dừa, đến năm 1980, là năm tôi đã trở thành cý dân chính thức của Ô Chợ Dừa, nhập hộ khẩu vào Ô Chợ Dừa, thì là cả một thời gian dài 10 năm. Vậy mà lạ lùng thay, ngày đầu tiên “dọn nhà” về Ô Chợ Dừa, tôi vẫn có cảm giác như đến một vùng đất hoàn toàn mới. Bằng chứng là buổi tối đầu tiên về ở Ô Chợ Dừa, tôi thả bộ đi ra ngã Năm Ô Chợ Dừa, tính ngồi uống vài ly để ngắm nhìn cho thỏa cái nơi sẽ là chỗ mình đi lại hàng ngày, thì có hai thanh niên đang ngồi trước cửa một căn nhà, hướng mặt ra đường, thấy tôi đi gần tới thì đẩy cả hai đôi dép ra trước mặt, trên lề đường (hè đường), chỗ mà tôi sẽ đi qua! Tôi đã quá rành với những trò “khiêu khích”, “gây sự” kiểu này (chỉ cần tôi đi tới, dẫm lên đôi dép đó là chúng sẽ hành hung, hoặc nếu bị vấp ngã thì sẽ thành trò cười cho chúng…), cho nên tôi thực hiện sách lược “tránh voi chẳng xấu mặt nào”, thay vì đi qua chỗ hai thanh niên muốn gây sự, tôi quay lại ba bước, ngồi xuống trước một gánh cháo gà. Khu vực hè đường này từ chập tối cho đến nửa đêm là chỗ bán hàng rong (với nhiều chủng loại như cháo gà, cháo vịt, phở, hột vịt lộn, bánh mỳ, bắp ngô nướng…) khá đông vui và tôi đã tới đây nhiều lần vào nhiều dịp trong suốt 10 năm qua, hàng cháo gà mà tôi vừa ngồi xuống cũng là chỗ quen, do hai mẹ con bán, người mẹ khoảng năm mươi, người con gái khoảng gần hai mươi tuổi. Khi cô gái đưa tôi chén rượu và tôi chưa kịp uống thì hai thanh niên kia bất ngờ ào tới ngồi sát tôi rồi kêu rượu như hảo hán Lương Sơn Bạc! Hai mẹ con người bán hàng nhìn nhau như ngầm trao đổi cách xử lý thì một thanh niên thò tay vào gánh hàng, cầm lấy hai chân con gà luộc định lấy ra thì người con gái nhanh như trong phim võ thuật, dùng đôi đũa điểm huyệt vào cánh tay người thanh niên đang định lấy con gà luộc ra khiến người này tê dại cả cánh tay và van xin rối rít: “Xin tha mạng! Xin tha mạng!”. Người thanh niên còn lại nhanh chóng nhận ra tình thế thì cũng nói líu ríu “Xin lỗi! Xin lỗi!” rồi đứng lên kéo người thanh niên bị điểm huyệt đi về căn nhà ban nãy!

Khi đã uống cạn chén rượu, tôi mới hỏi cô gái vừa điểm huyệt thằng thanh niên kia: “Lâu mới gặp lại cô hàng cháo, dạo này có gì mới không?”. Cô gái, tên Hà Thi, mỉm cười rồi nói nhỏ: “Đợi anh hỏi thăm thì em đã sắp đi lấy chồng rồi! Em sắp tốt nghiệp hệ Trung cấp đàn dân tộc của Nhạc viện Hà Nội!”. Tôi ngạc nhiên thật sự vì ngày mới gặp hai mẹ con bán cháo gà ở đây, cô gái còn khoe là vừa thi đỗ vào Khoa nhạc cụ dân tộc của Nhạc viện Hà Nội! Thực ra thì do tôi thỉnh thoảng mới tới ăn cháo gà ở đây và không chú ý tới cô gái đánh đàn tam thập lục này! Có lẽ từ giờ tôi sẽ chú ý tới cô gái bởi Nhạc viện và cơ quan Tạp chí của tôi chỉ cách nhau một con sông nhỏ (là sông Tô Lịch, nhưng nước đã rất đen và hôi thối!) và tôi sẽ ra đây ăn cháo gà thường xuyên hơn! Vì thế, tôi hỏi cô gái: “Vậy em sẽ học tiếp đại học hay đi làm?”. Cô gái ngập ngừng: “Nếu có ai nuôi em thì em sẽ tiếp tục đi học!”. Chút xíu nữa thì tôi đã nói: “Tôi sẽ nuôi em được không?”, song tôi đã kịp thời kìm lại được. Tuy nhiên, không biết cô gái có đoán ra ý nghĩ đó của tôi hay không mà khi múc cháo cho tôi, tôi thấy có vẻ như đó là một tô cháo đặc biệt!

Ngày hôm sau, thật là trùng hợp kỳ lạ: khi tôi đang nghĩ cách để qua Nhạc viện chơi (chủ yếu là tìm cô gái bán cháo gà đang học ở lớp Tam thập lục) thì chị Loan, cán bộ biên tập phần Âm nhạc của Tạp chí nói với tôi: “Hôm nay tôi có giờ lên lớp về lịch sử âm nhạc Việt Nam ở Khoa nhạc cụ dân tộc bên Nhạc viện, cậu có thích thì qua nghe?”. Thế là chỉ mười phút sau, tôi đã có mặt bên Nhạc viện và khi vào lớp, vừa nhìn thấy Thi, tôi đã lặng lẽ đi tới và ngồi ngay xuống bên cạnh!
Khi tôi về ở hẳn Ô Chợ Dừa, có tới ba sự trùng hợp: nhà thơ người Hà Nội Thi Hào Nam (mà tôi quen ở Thư Viện Quốc Gia, từ khi còn là sinh viên Khoa Văn) lại là cậu ruột của cô gái bán cháo gà. Thì ra trước đây, nhà thơ Thi Hào Nam thường dẫn tôi ra uống rượu và ăn cháo gà ở hàng của bà chị ruột mà tôi không để ý và cứ thầm thán phục nhà thơ có “duyên ngầm” là được mẹ con bà cháo gà cho “ký sổ” thoải mái! Sự trùng hợp thứ hai là một ông chiêm tinh gia có hạng ở Hà Nội đã nói với tôi là khi tôi về Ô Chợ Dừa thì sẽ có vợ, có con rồi sẽ có nhà và vợ tôi sẽ là người trong khu vực “xướng ca vô loài”! Cho nên đã không dưới một lần, nhà thơ Thi Hào Nam cứ giục tôi phải cưới cô cháu gái của ông ngay kẻo để lâu ngày lại có kẻ dèm pha! Thực ra thì tôi và cả hai mẹ con Hà Thi đều muốn tiến hành lễ cưới ngay nhưng bạn bè ai cũng ngăn cản và nói: “Chờ thi Nghiên cứu sinh xong mới nên tính chuyện vợ con!”, vì đối với dạng cán bộ nghiên cứu “nghèo hèn” như tôi thì chỉ có đi nghiên cứu sinh nước ngoài mới có thể “đổi đời” – tức sẽ cải thiện cơ bản cuộc sống gia đình về sau! Mà việc thi nghiên cứu sinh thời kỳ này không khác gì xếp hàng mua gạo, mua thịt cá: chưa chắc đến lượt và đến lượt chưa chắc còn hàng!

Khi phải chờ thời gian phán xét cho một quyết định lớn của cuộc đời thì thời gian đó thật là nặng nề, có thể nhìn thấy, cảm nhận được bánh xe thời gian đang lăn qua từng giây, từng phút và hiểm họa thì luôn rình rập! Và quả nhiên, trong khi tôi phải ngày ngày ngồi nhìn bánh xe Thời gian nó lạnh lùng, tàn nhẫn lăn qua số phận của mình mà không thấy hé mở một tia hy vọng gì thì hiểm họa ập đến thật bất ngờ và nhanh như tia chớp!

Tối hôm đó, như lệ thường, tôi lại ra chỗ “Cửa hàng ăn uống di động” ở ngã năm Ô Chợ Dừa để phụ bán cháo gà cho mẹ con Hà Thi (từ khi quyết tâm cưới Hà Thi thì tôi không còn là khách hàng ăn cháo nữa mà trở thành người phụ bán cháo, bởi tôi nhẩm tính, chỉ cần nhịn uống rượu, ăn cháo gà nửa năm là có thể may được bộ đồ cưới cho cả cô dâu và chú rể!). Vào khoảng gần 23 giờ đêm, đường phố đã thưa thớt người xe thì bỗng có tiếng rú ga mạnh của một chiếc Honda 67 và khi tôi chợt nhận ra chiếc Honda đang lao thẳng vào gánh hàng cháo của mẹ con Hà Thi thì theo phản xạ tự nhiên, tôi đứng dậy tính đẩy “cái vật thể bay” ra khỏi gánh hàng cháo thì tôi thấy có tiếng gió vút qua tai và chỉ kịp nhìn thấy Hà Thi lao vút cả người như một mũi lao, lao vào chiếc Honda! Kết quả là Hà Thi đã đạp văng cả chiếc Honda và người lái nó ra khỏi gánh hàng tới năm mét nhưng sự va chạm giữa Hà Thi và “vật thể bay” kia quá mạnh khiến Hà Thi bị chấn thương rất nặng!
Cái chết của Hà Thi khiến cho tôi quá thất vọng về tương lai. Tôi quyết định cạo trọc đầu để quên chuyện lấy vợ đi và tập trung vào việc viết bài vì muốn được thi nghiên cứu sinh, phải có ít nhất ba bài nghiên cứu đăng trên các Tạp chí Chuyên ngành của Trung ương. Tôi viết một lèo đến năm bài nhưng lúc Bộ báo chỉ tiêu về thì chỉ có một, mà lúc đó trong cơ quan Tạp chí của tôi lại có những hai người muốn được chọn. Vậy là tôi nhận được phán quyết của Tổng Biên tập: năm nay nhường cho bạn, để sang năm thì tới lượt! Nhưng người bạn kia thi trượt, sang năm lại đòi đi thi nữa! Không hiểu sao, lúc ấy tôi lại không biết đấu tranh cho quyền lợi của mình mà lại lao vào chuyện…lấy vợ! Và quả nhiên việc lấy vợ của tôi đúng như ông chiêm tinh gia báo từ trước, chỉ có điều sau khi Hà Thi chết tới sáu tháng: Đám cưới ở Ô Chợ Dừa và ngay trong phòng làm việc của Tổng Biên tập Tạp chí; có vợ, có con rồi có nhà (khi con tôi được đầy tháng thì cơ quan cho dùng phòng kho làm phòng ở); vợ tôi cũng vẫn là người của khu vực “xướng ca” (là diễn viên của đoàn Văn công Quân Khu 5 thời chống Mỹ, hết chiến tranh thì vào học lớp Kịch nói của Trường Nghệ thuật sân khấu Mai Dịch Hà Nội, học xong thì thất nghiệp cho tới lúc làm mẹ được hai, ba năm!)…

Ô Chợ Dừa không phải của riêng ai, nhưng tôi có cảm giác như nó là của mình! Sau này, khi phải đi khỏi Ô Chợ Dừa (vào Tây Nguyên, xuống Sài Gòn), mỗi khi xem báo, tivi… thấy có nói về Ô Chợ Dừa, tôi lại chăm chú lắng nghe, nhìn cho rõ và có cảm giác như mình được trở lại quê hương! Thực ra thì “quê lý lịch” của tôi, tức nơi tôi sinh ra (ở Phú Thọ), đã quá xa cách và khi đã lớn, tôi chỉ về được quê hai lần, thời gian rất ngắn. Vì thế, tôi coi Ô Chợ Dừa là quê thứ hai, bởi tôi tôi đã sống tới năm năm (từ 1980 đến 1985) ở đó và đã làm những việc quan trọng như lấy vợ, đẻ con…

Các nhạc sĩ không thể quên Ô Chợ Dừa vì ở đó Nhạc viện Quốc gia! Các Họa sĩ không thể quên Ô Chợ Dừa vì ở đó có Trường ĐH Mỹ thuật Công nghiệp, các nhà văn không thể quên Ô Chợ Dừa vì ở đó có trường Viết Văn Nguyễn Du (dù bây giờ chỉ là một Khoa trong trường Đại học Văn hóa)! Quả là Ô Chợ Dừa rất xứng đáng để được gọi là mảnh đất Địa Linh Nhân Kiệt, điều này không cần bàn cãi! Riêng tôi, tôi không thể không thường xuyên nhớ về Ô Chợ Dừa vì đã đi khỏi từ năm 1985, nhưng tôi chưa cắt hộ khẩu bởi biết chuyển hộ khẩu về đâu ngoài Ô Chợ Dừa lầm bụi của tôi?

Sài Gòn, tháng 4-2010
Đỗ Ngọc Thạch


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét