Tiểu luận | |
Ngự Sử Văn Đàn Phan Khôi | |
Phan Khôi (1) là người mở đầu cho phong trào Thơ mới với bài thơTình già. Phan Khôi là một nhà báo tài năng, một người tích cực vận dụng tư tưởng duy lý phương Tây, phê phán mạnh mẽ thói hư tật xấu của quan lại phong kiến và thực dân Pháp. Phan Khôi cũng là một trong số ít nhà báo tiếp thu nhiều tư tưởng mới, đa văn hóa từ Hồng Kông, Trung Quốc, Nhật Bản, Pháp... Phan Khôi còn nổi tiếng vì sự trực ngôn, trước 1945 được mang danh là Ngự sử văn đàn. Ông phê phán chính sách cai trị của người Pháp một cách sát sườn, đối thoại với học giới từ Bắc đến Nam không e dè kiêng nể. Những năm 1956 - 1958 cũng vì cung cách nói thẳng ấy ông đã chịu tai họa trong vụ “Nhân văn-Giai phẩm” với bài báo nổi tiếng “Phê bình lãnh đạo văn nghệ” rồi chết trong lặng lẽ vào năm 1959.
Trong giới văn nghệ, ai cũng phải thừa nhận Phan Khôi là một nhà tư tưởng, một nhà văn hóa lớn, nhưng vì cái án Nhân văn - Giai phẩm cho nên sau khi ông chết, tên tuổi ông gần như bị quên lãng... Mãi đến ngày 5-10-2007, nhân 120 năm ngày sinh của ông, mới có một buổi tọa đàm tưởng niệm nhà văn- nhà báo Phan Khôi (1887-1959), do Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam, tạp chí Xưa và Nay và gia đình đồng tổ chức tại Hà Nội. Rồi đến ngày 9-7-2010, NXB Tri Thức và Quỹ Văn hóa Phan Châu Trinh đã tổ chức cuộc tọa đàm về Phan Khôi. Cuộc tọa đàm đã góp phần dựng lại chân dung Phan Khôi - một trí thức, một nhà báo lớn của báo chí Việt
Nhà nghiên cứu văn học Lại Nguyên Ân, người đã có công sưu tập tác phẩm của Phan Khôi thành tài liệu Hồ sơ Phan Khôi (2) đã nhận định: “Phan Khôi hiện diện trước xã hội, trước cuộc đời này chỉ với tư cách nhà báo; người ta biết ông chủ yếu qua những gì ông viết ra đăng lên báo chí; nhưng, qua hoạt động báo chí, Phan Khôi chứng tỏ mình còn là một học giả, một nhà tư tưởng, một nhà văn. Phan Khôi là nhà tư tưởng đã đặt ra hàng loạt vấn đề: phê phán Khổng giáo, tiếp nhận tư tưởng Âu Tây, nữ quyền. Ông cũng là một nhà Hán học và Trung quốc học am hiểu những vấn đề của xã hội Trung Quốc đương thời, ông là một dịch giả đã dịch Kinh Thánh của đạo Thiên chúa ra tiếng Việt, một nhà Việt ngữ học cả ở phần lí thuyết lẫn thực hành, một nhà văn xuôi với thể hài đàm và một nhà phê bình văn học”. Vì vậy, trong bài viết “Đọc lại Phan Khôi” này, chúng tôi chỉ xin tập trung sự chú ý vào những bài báo của Phan Khôi có liên quan đến văn hóa, văn học - điều làm nên nhà Lý luận, phê bình văn học Phan Khôi - người đi tiên phong trong lãnh vực này trên văn đàn Việt Nam đầu thế kỷ 20.
*
Những năm 20, 30 của thế kỷ 20 là giai đoạn giao thời mà Hoài Thanhgọi là “Cuộc biến thiên vĩ đại”: giai đoạn xảy ra cuộc giao lưu văn hóa Đông Tây, nói chính xác thì đó là giai đoạn “xâm lăng văn hóa” của phương Tây đối với phương Đông. Văn hóa phương Đông đứng trước thách thức: bị phương Tây “thôn tính” hay tiếp thu những tư tưởng tiến bộ của văn hóa phương Tây để “làm mới mình” đặng hòa nhập vào dòng chảy của thời đại. Hoặc nói như Dương Quảng Hàm: “Dân tộc ta vốn là một dân tộc có sức sinh tồn rất mạnh, trải mấy thế kỷ nội thuộc nước Tàu mà không hề bị đồng hóa, lại biết nhờ cái văn hóa của người Tàu để tổ chức thành một xã hội có trật tự, gây dựng nên một nền Văn học tuy không được phong phú, rực rỡ nhưng cũng có chỗ khả quan, có phần đặc sắc, thì chắc rằng sau này dân tộc ta cũng sẽ biết tìm thấy trong nền văn học nước Pháp những điều sở trường để bổ sung những chỗ thiếu thốn của mình, thứ nhất là biết mượn các phương pháp khoa học của Tây phương mà nghiên cứu lại các vấn đề có liên lạc đến nền văn hóa của nước mình, đến cuộc sinh hoạt của dân tộc mình, thâu thái lấy cái tinh hoa của nền văn minh nước Pháp mà làm cho các tinh thần của dân tộc được mạnh lên để gây dựng lấy một nền văn học vừa hợp với hoàn cảnh hiện thời, vừa giữ được cốt cách cổ truyền. Đó là nhiệm vụ chung của các bạn độc giả và văn gia nước ta ngày nay vậy”(*).
Phan Khôi là một trong những người đi tiên phong trong “Cuộc biến thiên vĩ đại” đó của lịch sử văn hóa nói chung và lịch sử văn học nói riêng. Vấn đề cấp thiết đặt ra lúc đó đối với cả nền văn hóa nói chung và văn học nói riêng là muốn tồn tại thì phải “Duy tân”, mà bây giờ chúng ta gọi là “Đổi mới”. Và Phan Khôi đã nhận thức rất chính xác, ông nói: “Muốn duy tân cải cách thì phải bắt đầu từ học thuật tư tưởng mà duy tân cải cách trước” và ông đã “thực hành” bằng hàng trăm bài nghị luận, bút chiến với một phong cách mạnh mẽ, đầy ấn tượng trong giai đoạn giao thời, đã tạo tiền đề tư tưởng cần thiết cho các cuộc cách tân hiện đại hóa của văn học Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX. Vì thế, có thể nói Phan Khôi là một trong những người khai sơn phá thạch ra loại hình phê bình văn học ở nước ta, một hoạt động không thể thiếu vắng trong một nền văn học mới, đầy biến động của thời kỳ hiện đại.
Đi đằng sau cuộc xâm lăng chính trị, lãnh thổ của Thực dân Pháp là cuộc xâm lăng về văn hóa, hay như người ta thường nói, đó là cuộc đụng độ về tư tưởng và văn hóa giữa phương Đông và phương Tây. Phan Khôi đã có ngay bài viết về vấn đề thời sự nóng bỏng này: Tư tưởng của Tây phương và Đông phương. Trong bài viết, Phan Khôi đã nêu ra ba điểm khác nhau cơ bản của phương Đông và phương Tây với sự phân tích rõ ràng, dễ hiểu đối với công chúng đông đảo : 1/ Tây phương chuộng khoa học, Đông phương chuộng huyền học ; 2/Tây phương trọng tự chủ, Đông phương trọng thống thuộc ; 3/ Tây phương quý tấn thủ, Đông phương quý an phận . Tuy nhiên, khi kêu gọi phải tiếp thu văn minh phương Tây thì Phan Khôi lại rất cực đoan: « Xem ba điều trên đây thì thấy ra hai cái tư tưởng Đông và Tây nó phản đối nhau như phương nam với phương bắc, như mặt trăng với mặt trời. Nay ta nếu muốn theo cách sanh hoạt mới của Tây phương, mà ta lại còn giữ cả tư tưởng cũ của Đông phương thì quyết không có thể được. âu là phải dứt bỏ tư tưởng cũ của ta mà theo tư tưởng của Tây phương, thì mới hiệp với cách sanh hoạt mới của ta ». Quả là lúc đó Phan Khôi chưa thể lý giải một cách biện chứng mối quan hệ giữa « truyền thống và cách tân » như hiện nay. Chính vì thế mà Phan Khôi đã phản đối quyết liệt chủ trương “tân cựu điều hòa” của Phạm Quỳnh(3) bằng bài viết “Bác cái thuyết tân cựu điều hòa » mà ngay mở đầu đã phản bác rõ ràng: ‘‘Mấy năm gần đây, ở nước ta có một số ít người bàn luận đến cái vấn đề tư tưởng cũ và tư tưởng mới, thì hầu hết đều chủ trương cái thuyết điều hòa, nghĩa là đem tư tưởng cũ và tư tưởng mới mà trộn lộn cùng nhau. Cái thuyết ấy mới nghe qua dường như có lẽ lắm, dễ nghe lắm, mà nghiền ngẫm cho kỹ, gạn hỏi cho cùng, thì gần gần thành ra vô nghĩa, không có thể đem mà thiệt hành ra được’’.Và kết thúc bài báo lại nhấn mạnh sự phản bác : ‘‘Cái thuyết điều hòa ở ta đây cũng có một phần bởi lời đồn huyễn "văn minh phá sản" đó mà ra. Những người chủ trương thuyết ấy sợ rằng nếu ta theo hệt như văn minh Âu châu thì cũng có ngày sẽ mang lấy đại hoạ như họ. Sợ như vậy thật là sợ hoảng, đúng như lời tục ngữ ta thường nói: "Chưa giàu đã lo ăn cướp"! Ta muốn ngóc đầu lên một chút đây mà còn e chưa nổi, lại còn có tài nào sức nào đủ gây ra cái đại họa ấy nữa kia? Theo các lẽ đã giải minh ra trên đây thì cái thuyết điều hòa không thể thiệt hiện ra được. Mà không những thế, về mặt lý luận, nó cũng không thành lập được nữa’’.
Trong bài báo Thi văn với thời đại, khi bàn về mối quan hệ giữa văn chương với cuộc sống, Phan Khôi đã nhấn mạnh đến hai yếu tố cơ bản của nghệ thuật văn chương là phải có hai cái đặc sắc : cái đặc sắc thứ nhất là vẻ đẹp (tính thẩm mỹ) của tác phẩm đặng lôi cuốn, thu hút người đọc và cái đặc sắc thứ hai là phải có dấu ấn của xã hội đương thời với tác giả (tính hiện thực lịch sử), - đó cũng chính là yêu cầu không thể thiếu đối với một tác phẩm văn chương hiện đại trong cuộc sống hiện nay: ‘‘Một bài thi, một bài văn, hay là một tập thi, một tập văn mà làm cho người ta quý trọng và lưu truyền được là nhờ có đặc sắc về hai đường: một là về đường mỹ thuật, hai là về đường lịch sử. Đặc sắc về mỹ thuật, nghĩa là thơ văn ấy hoặc tả cảnh hay, hoặc tả tình hay, đủ làm cho kẻ đọc đến mà sanh cảm, cũng như trong khi xem một bức vẽ hoặc xem một tấn tuồng mà giục nỗi vui buồn. Đặc sắc về lịch sử nghĩa là trong thi văn có lưu lại những cái dấu vết của xã hội đồng thời với tác giả; đời sau đọc đến có thể nhờ đó mà nhận ra cuộc đời hồi ấy hoặc ít hoặc nhiều, có thể đem thi văn ấy mà đối chứng với những điều nghi ngờ trong lịch sử. Từ xưa đến nay, những tay văn hào bất tử, thường là gồm cả hai mặt đó. Song le, về đường mỹ thuật thì hầu hết mọi người cầm bút viết văn ai ai cũng biết; đến như cái đặc sắc về đường lịch sử thì người ta thường không chú ý đến mà bỏ qua đi...Sự thuộc về lịch sử ấy tức trong bài nầy muốn nói rõ hơn một chút, gọi là thi văn quan hệ với thời đại’’.
Có thể nói, Phan Khôi là người duy lý cực đoan, coi “Luận lý học cai trị mọi sự ở đời”. Phải có thái độ hoàn toàn khách quan khi biện luận - đó là nguyên tắc sắt đá và nhất quán của Phan Khôi khi nghị luận, bút chiến. Nguyên tắc này được ông nói tới nhiều lần: “Người mình lại hay thiên trọng về cảm tình, tôi thấy nhiều việc đáng lấy lý mà nói, nhưng người ta cũng cứ tình mà thôi”; “Người Việt Nam ta thuở nay theo cái học cũ, mọi việc ít hay xét xử bằng lý trí (raison) mà cứ bằng tình cảm (sentiment)”;“Cái lối văn thuộc về tình cảm nó nuốt người ta mạnh lắm, có khi nó cướp mất cả phần lý trí”,v.v…Trong tranh luận, người ta thường dễ lẫn lộn tình cảm riêng đối với con người của kẻ tham gia tranh luận, với lý lẽ anh ta phát biểu. Điều ấy dễ làm mất tỉnh táo, mất tinh thần khách quan trong nhận thức chân lý. Trong bài “Con người và lời nói”, Phan Khôi cho rằng, trong xã hội ta “ai nấy ít trọng về lời nói mà chỉ chú trọng về con người”. Như vậy rất trở ngại cho những cuộc tranh luận học thuật. Vì thế, Phan Khôi nhất quán quan điểm “lạnh lùng khách quan”: “Chỉ nên lấy lời nói làm cái đối tượng (objet) cho sự biện luận chứ không nên lấy con người làm đối tượng”. Vậy trong nghị luận, bút chiến phải kiên quyết dứt bỏ tình cảm và đề cao lý trí. Đề cao lý trí tất phải coi trọng luận lý học. Phan Khôi nói tới điều đó thường xuyên, liên tục: “Trăm sự ở đời cũng phải cần đến luận lý học; luận lý học cai trị cả mọi sự ở đời”; “Phải lấy luận lý học làm nền. Phàm một người đã nắm bút làm văn thì ít nữa phải biết qua luận lý học”; “Muốn cho nước ta từ nay về sau có một nền học thuật vững vàng thì thế nào cũng phải lập cái nền ấy trên lý luận học”; “Muốn cho thông thì chúng ta viết văn cốt phải đúng theo văn pháp và luận lý học”, v.v…Để thực hành nguyên tắc “Luận lý học cai trị mọi sự ở đời”, Phan Khôi đã tự lãnh trách nhiệm “Ngự sử văn đàn”, viết hàng loạt bài đính chính những sai phạm trong nhận thức và sử dụng các thuật ngữ, các ngôn từ, cách dùng hình ảnh của nhiều nhà văn, nhà báo đương thời.
Nhận trách nhiệm ngự sử văn đàn, lẽ đương nhiên Phan Khôi phải là tấm gương chuẩn mực. Và ông đã viết những bài nghị luận, phê bình của mình bằng một văn phong giàu tính khoa học, tính duy lý cao, lập luận chặt chẽ, hành văn mạch lạc sáng sủa, chứng cứ rõ ràng. Trong bàiVăn chương và văn chương của nhà báo, Phan Khôi xác định rõ ba chuẩn mực của văn chương là Tín, đạt, mỹ và ông cắt nghĩa rõ ràng:‘Về văn chương, không cứ đặt để làm sao, không cứ theo lề lối nào, người làm văn cốt phải giữ ba điều, là: tín, đạt, mỹ. Tín, nghĩa là văn phải cho tin. Trong một bài văn, kể chuyện thì phải cho thật, nói lý thì phải cho đúng; ấy là tín đó. Đạt, nghĩa là văn cho thông. Cái ý mình nghĩ trong óc thế nào thì viết ra trên giấy cũng thế ấy, làm cho người xem văn mình hiểu đúng như ý mình, mà khỏi hiểu ra đường khác hay là không hiểu chi cả; ấy là thông đó. Mỹ, nghĩa là văn phải cho đẹp. Tín và thôngcũng đã gọi là đủ dùng trong sự viết văn rồi; song nếu muốn cảm người cho sâu, truyền đi cho xa thì phải cần đến cái đẹp. Lời cho nhã, ý cho mới, ấy là đẹp đó. Bất kỳ văn nước nào thời nào, dầu cho ở bên Tây, bên Tàu, hay là đời xưa, đời nay, cũng phải có đủ ba điều ấy thì mới gọi là văn được, mới gọi là văn hữu dụng được. Coi đó thì cái đẹp trong văn chương không phải là cái đáng khinh. Đáng khinh là văn không tín không thông chỉ có cái đẹp mà thôi; còn như đã tín đã thông mà lại còn thêm đẹp nữa, thì cái văn ấy ta rất nên quý chuộng’. Đối chiếu với những chuẩn của lý luận hiện đại (tín: tính chân thực; đạt: tính đại chúng, mỹ: tính thẩm mỹ) thì những điều mà Phan Khôi trình bày hồi đó đến giờ vẫn còn nguyên giá trị.
Nói về văn chương báo chí của nhà báo, Phan Khôi không chỉ chú ý đến những vấn đề lớn mà những vấn đề có vẻ tiểu tiết như cách dùng từ, đặt câu, dấu má... cũng không thể bỏ qua : « Về sự chúng ta viết báo bằng chữ quốc ngữ hiện thời đây, chúng tôi muốn cho hẵng "tín" và "thông" đi đã, chớ chưa vội nói đến cái "đẹp". Điều đó ý chúng tôi cũng hơi giống với quý báo, chỉ khác một chút là chúng tôi nói chưa vội, mà quý báo nói không cần ấy thôi. Chúng tôi nói chưa vội, là vì chữ quốc ngữ của chúng ta ngày nay còn phân vân, chưa nhứt định, chưa có sách mẹo cùng các sách khác thuộc về phép làm văn, thì bước thứ nhứt là phải do chúng ta lập cái nền quốc văn cho vững chãi đã, rồi mới nói đến cái hay cái đẹp được; nghĩa là trước hết chúng ta phải tập viết văn cho đúng mẹo, cho thông. Hễ đã đúng mẹo, đã thông, rồi mới nhơn đó mà lập thành sách mẹo tiếng Việt Nam và lại nhơn đó lần lần làm ra các sách dạy phép làm văn, luyện đến cái hay cái đẹp, mà thành ra một nền văn chương Việt Nam vậy. Thật thế, về sự viết văn, chúng tôi chưa hề khi nào nghĩ đến cái đẹp, mà chỉ cầu cho thông là đủ. Chúng tôi tưởng các nhà làm báo ta bây giờ, ai đã thông rồi mà bước lên đến cái đẹp là càng hay, còn ít ra cũng phải lấy mực thông làm hạn. Muốn cho thông, thì chúng ta viết văn cốt phải đúng theo văn pháp (tức là sách mẹo) và luận lý học. Tuy sách văn pháp và sách luận lý học của ta bây giờ chưa có, song chúng ta, những người làm báo đây, đều là do Hán học hoặc Tây học mà ra, thì khó gì mà chẳng lấy mẹo luật của văn nước người đem ghép vào văn nước mình? Vì về văn pháp, mỗi nước chỉ khác một ít, còn luận lý học thì đâu cũng giống nhau, hễ đã thông văn nước ngoài, thì cũng có thể suy ra làm thông văn nước mình được vậy...’’.
Và đây là « Dọn vườn » báo Đuốc Nhà Nam: ‘Cả một bài ấy phần nhiều câu không có chủ thể (sujet). Như, thình lình nổi lên nói rằng: "Nay đem hết tâm chí v.v...", và "Lúc nhỏ theo thầy v.v..." thì chúng tôi chỉ có lấy ý mà hiểu, chớ như cứ theo văn pháp thì chẳng biết ai là kẻ hành động trong những câu nầy. Quý báo đã hô lớn lên rằng văn chương phải cho rõ ràng, mà như vậy thì chẳng biết có rõ ràng không nhỉ? Cũng trong bài ấy, "Học rồi, hành sự", dứt ngay làm một câu. Chúng tôi chẳng khi nào tin rằng chỉ như vậy mà đứng làm một câu được, vì nó chỉ có mấy tiếng động từ (verbe) không mà thôi. Có một cách rất tiện cho những người nào thạo chữ Pháp mà muốn viết quốc ngữ là khi nào một câu quốc ngữ mà muốn biết nó có thể đứng được chăng, chỉ cứ nắm đó mà dịch ngay ra chữ Pháp thì biết. Mà nếu đem câu đó ra dịch từng tiếng một chữ Pháp, thì sợ e không đúng. Ấy là chỉ ra vài chỗ của quý báo không đúng với văn pháp. Cũng trong bài đó, mở ra nói rằng: "Thấy số báo nầy chắc ai cũng hỏi: Sao Dương Văn Giáo lại lãnh cầm Đuốc Nhà Nam?"
Chúng tôi chẳng hiểu nói như vậy là có ý nghĩa gì. Vả chăng, Dương Văn Giáo lãnh Đuốc Nhà Nam thì cũng như Diệp Văn Kỳ lãnh Đông Pháp thời báo, Dejean de la Bâtie lãnh Echo Annamite, v.v..., chớ có gì lạ đâu mà ai phải hỏi làm chi? Nếu tự mình chắc là ai cũng hỏi thì trước phải tỏ ra cái cớ tại làm sao; nếu không, thì chẳng ai hiểu ý mình làm sao cả. Trong bài xã thuyết số 10, lại có câu: "Mục đích bổn báo là soi dọi ngọn đuốc mới mẻ trong buổi bình minh", câu này cũng hỏng. Bình minh là lúc sáng thiệt mặt, đối với lê minh là lúc mờ mờ sáng. Thường người ta dùng đuốc trong lúc trời tối, chớ đã sáng trắng rồi, còn ai cần đuốc làm chi? Vậy thì sao lại nói rằng dọi ngọn đuốc trong lúc bình minh? Ấy là chỉ ra một vài chỗ của quý báo không đúng với luận lý học. Tự vị chữ ta đã có lâu rồi, bây giờ chúng ta cần nhứt phải viết đúng theo tự vị. Thế mà quý báo coi ý không chăm về chỗ đó, cho nên quảng cáo thì viết raquản cáo, phô bày thì viết ra phô bài, song quý chủ nhiệm đã có nói rằng: "Tôi vẫn biết ai ai cũng viết "khó khăn" mà tôi muốn viết "khó khăng"; đã tự ý muốn chi thì muốn, thì còn ai nói vào làm chi? Quý báo một nói ít chú trọng về văn chương, hai nói không chuộng ở lời văn mà chuộng ở tư tưởng; chúng tôi lại còn đem văn chương nói với quý báo, chi cho khỏi lấy làm rầy tai. Song chúng tôi tưởng, sự trung cáo nầy cũng là một cái bổn phận chúng tôi’’.
Tuy nhiên, do Phan Khôi duy lý tới mức cực đoan và quá sùng bái lô-gích hình thức, ông đã tỏ ra thiên lệch, khiên cưỡng khi lý giải những hiện tượng phức tạp, nghĩa là vừa mâu thuẫn vừa thống nhất. Ông chỉ thấy mặt đối lập, tính dị biệt mà không thấy yếu tố có thể giao lưu, trao đổi giữa văn hóa phương Đông và phương Tây, giữa truyền thống và cách tân, giữa văn chương bình dân và văn chương bác học, giữa trực giác và duy lý, v.v… Đặc biệt, khi đối diện với sự tinh vi, phức tạp tới mức huyền ảo của thế giới cảm xúc của con người, mà đỉnh cao là Tình yêu thì “nhà duy lý” tỏ ra thúc thủ và giải thích rất máy móc hoặc “chào thua”!
Là một nhà “Luận lý học”, nhưng Phan Khôi có một tâm hồn tươi trẻ, sống động: “Thanh niên là vị thần của tôi thờ”- ông đã tuyên bố rõ ràng như vậy. Phan Khôi còn nói: “Tôi sẵn có cái tánh hay bông đùa, mà lâu nay lại khuynh hướng về cái lạc thiên chủ nghĩa (optimisme), thỉnh thoảng dù viết về điều trang nghiêm cũng “ trộm phép” mà “hí hước chút chơi”. Chính vì thế, có nhiều bài viết của ông chỉ là kể chuyện vui. Có thể nói, tính hài hước kết hợp với một tư duy phê phán sắc sảo, đã tạo ra ở Phan Khôi một lối viết châm biếm giễu cợt như một nét đặc sắc của phong cách văn nghị luận, bút chiến Phan Khôi. Ông viết một loạt bài gọi là hài đàm (tiểu phẩm hài) với tiếng cười đả kích vừa hoạt bát hiện đại học được của phương Tây, vừa sâu sắc mang cái thâm thúy của một nhà nho. Với hàng trăm bài viết phê phán những thói xấu của con người, những nhược điểm của dân tộc, những bất công trong xã hội thực dân phong kiến, Phan Khôi đã góp phần không nhỏ vào sự phát triển của loại văn châm biếm, trào phúng trong nền văn học nước ta lúc đó. Trong bài viết Cái địa vị khôi hài trên diễn đàn văn học, ông cho rằng, khôi hài là thể hiện “cái tư tưởng tự do”, “cái khí phách độc lập”, “Ai có tài thông minh tuyệt thế thì mới nói được chuyện giễu có duyên hay là làm được bài văn bông lơn có duyên”, kẻ “nói chơi không biết, nói thiệt không hay”là “ngu đần”.
Bác học mà bình dân, thông thái mà dân dã - đó là nhận xét khá thống nhất của các nhà nghiên cứu về Phan Khôi. Là một nhà Hán học uyên thâm, lại coi trọng việc tiếp cận văn hóa Pháp, ông tìm hiểu, bàn bạc cái gì cũng “xét cho đến nơi, tìm chứng cứ ở sự thật” nên đã tích lũy được một vốn tri thức rất rộng, bao gồm nhiều lĩnh vực đủ cả cổ kim Đông Tây.Nói đến sự hình thành, hoàn thiện và phát triển của bộ môn phê bình văn học ở nước ta, Phan Khôi là một cây bút có đóng góp rất lớn. Có thể nói, ông là một trong số người viết phê bình văn học đầu tiên và xuất sắc ở nước ta, lại từng mang danh ngự sử trên văn đàn để “dọn vườn”, “đãi sạn” cho sách, báo đương thời, nên cái gì cũng phải đọc, phải có một cái đầu bác học, phải là một nhà thông thái ...Nhưng bác học mà rất đỗi bình dân, thông thái mà vẫn dân dã - đó mới là đặc điểm văn phong cũng như con người của Phan Khôi. Để định hình được phong cách đó, phải hiểu thấu sâu sắc điều mình nói và cộng với tinh thần dân chủ và óc bình dân. Ông thường dùng những ví dụ cụ thể lấy trong đời sống thường ngày để giải thích các thuật ngữ, các quy luật, làm cho các vấn đề trừu tượng trở nên cụ thể, sinh động có thể ‘sờ tận tay, day tận mặt’ dễ dàng. Nói cách khác, ông đã bình dân hóa các lý thuyết cao siêu, trừu tượng. Đồng thời, ông có những cách so sánh ví von kết hợp với cách dùng thành ngữ, tục ngữ linh hoạt rất quen thuộc với dân gian, lẩy Kiều, nhại Kiều rất đúng chỗ... do đó vừa làm cho vấn đề ông đang trình bày trở nên sáng rõ, vừa có ý nghĩa châm biếm sắc sảo. Tất cả những ‘tiểu xảo’ của nghệ thuật viết văn phê bình, nghị luận đó, khi tập hợp thành ‘đạo quân chữ’ trong các bài viết của Phan Khôi thì nó đã trở thành một sức mạnh không thể lường trước của văn phê bình, nghị luận của Phan Khôi. Vì thế, việc tìm hiểu nghệ thuật viết văn phê bình, nghị luận của Phan Khôi vẫn còn là một bí ẩn!
*
Bài viết Phê bình lãnh đạo văn nghệ có lẽ là bài báo cuối cùng của “Ngự sử văn đàn” Phan Khôi. Lâu nay, người đọc chỉ biết lờ mờ rằng chính vì bài viết này mà Phan Khôi bị “đánh” cùng nhóm “Nhân văn-Giai phẩm”. Từ ngày có việc “phục hồi” lại sự nghiệp của Phan Khôi, người ta dường như vẫn còn né tránh bài viết này khi nói về Phan Khôi. Vì thế, tôi xin dẫn lại nguyên văn bài viết này đặng góp phần làm cho bức chân dung Phan Khôi thêm phần hoàn chỉnh và chân thực (2*). Tôi chỉ nêu một nhận xét nhỏ là: chính bài viết này đã thể hiện rõ nhất bản lĩnh của ngòi bút Phê bình Phan Khôi và nhân cách nhà văn của Phan Khôi - nó đưa Phan Khôi lên vị trí cao nhất trong Làng Văn Việt Nam, đặc biệt là khu vực Phê bình văn học. Phần mở đầu bài báo Phan Khôi viết: “có chi nói nấy, nói toàn những sự thực”; Và “Tôi muốn nói sự thực. Nhưng có người bảo rằng “có những cái sự thực không nên nói”. Tôi không tin. Đó là ở dưới chế độ nào kia, chứ ở dưới chế độ của chúng ta, đã lấy phê bình, tự phê bình làm võ khí, thì còn có cái sự thực nào là cái sự thực không nên nói? Tôi muốn phê bình. Nhưng có người lại bảo rằng “phê bình nội bộ thì được, không nên viết trên sách báo, bên địch chúng thấy chúng sẽ xuyên tạc ra”. Tôi cũng không tin. Cái thời kỳ “đóng cửa dạy nhau” đã qua rồi, ngày nay chính là ngày có mâu thuẫn gì giữa nội bộ cần phải giải quyết trước mặt quần chúng nhân dân, không nhờ ánh sáng của quần chúng nhân dân soi dẫn cho, thì không thể giải quyết nổi. Vả lại, đã nhận rằng ăn của nhân dân, làm việc cho nhân dân, nhân dân là chủ, có quyền kiểm tra mọi việc, thì sao lại cứ giấu im ỉm với nhau, không cho nhân dân biết?”.
Cái sự thật mà Phan Khôi muốn nói đó là :
*
Những nhận định về Phan Khôi có nhiều, song hai nhận xét về Phan Khôi dẫn dưới đây rất đáng cho hậu thế suy ngẫm khi muốn “phục dựng” lại chân dung hoàn chỉnh của Phan Khôi: Giáo sư Đinh Xuân Lâm nguyên Phó chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử VN, khi đã 83 tuổi nhưng vẫn nhớ như in những câu trong bài thơ “Tình già” của Phan Khôi, tác phẩm được cho là một trong những bài thơ mở đường Thơ mới, mà ông đã đọc gần 70 năm trước. Giáo sư còn nhắc đến cuốn tiểu thuyết “Trở vỏ lửa ra” (1939) của Phan Khôi để chứng minh rằng, Phan Khôi là một người toàn diện, không chỉ dịch văn, thơ, viết thơ, viết báo mà còn viết cả tiểu thuyết. Và GS Đinh Xuân Lâm kết luận: “Muốn dùng được Phan Khôi phải là người cực giỏi, cực tài. Chắc chỉ có Chủ tịch Hồ Chí Minh”. Còn Phan An Sa, con trai út của Phan Khôi thì nói về cha mình: Một trí thức trẻ mới ngoài 20 tuổi đã bị thực dân Pháp bắt bỏ tù 2 lần, một lần 18 tháng, một lần 3 năm, chỉ vì theo chân Phan Bội Châu và Phan Chu Trinh để hoạt động yêu nước. Một nhà báo suốt thời tráng niên của mình lăn lộn trên văn đàn chỉ nhằm một mục đích cho hai tiếng nhân dân. Một nhân sĩ bỏ lại tất cả ở phía sau để dấn thân cho cuộc kháng chiến 9 năm và cuối cùng, một học giả sức cùng lực kiệt vẫn gắng gượng đóng góp sức mình, mong có được một vườn hoa văn nghệ đầy hương sắc của dân tộc. Một người như vậy không bao giờ đi ngược lại quyền lợi của đồng bào mình./.
Sài gòn, tháng 12-2010
(1) Phan Khôi (1887-1959): quê làng Bảo An, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Phan Khôi là con của Phó bảng Phan Trần (tri phủ Điện Khánh) và bà Hoàng Thị Lệ (con gái Tổng đốc Hà Nội Hoàng Diệu). Phan Khôi học giỏi Nho văn và đỗ tú tài năm 19 tuổi. Sau đó Phan Khôi gặp cụ Phan Bội Châu, cụ Phan Châu Trinh và chịu ảnh hưởng bởi tư tưởng của hai cụ.
Năm 1907, Phan Khôi ra Hà Nội, tham gia phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục và làm việc cho tạp chí Đăng Cổ Tùng Báo. Khi tờ tạp chí bị cấm ông tới
Tình Già
Hai mươi bốn năm xưa, một đêm vừa gió lại vừa mưa,
Dưới ngọn đèn mờ, trong gian nhà nhỏ, hai mái đầu xanh kề nhau than thở: -“Ôi đôi ta tình thương thì vẫn nặng, mà lấy nhau hẳn là không đặng; Ðể đến rồi tình trước phụ sau, chi cho bằng sớm liệu mà buông nhau!” - “Hay! Nói mới bạc làm sao chớ! Buông nhau làm sao cho nỡ? Thương được chừng nào hay chừng ấy, chẳng qua ông trời bắt đôi ta phải vậy! Ta là nhân ngãi, đâu phải vợ chồng, mà tính việc thủy chung?” Hai mươi bốn năm sau, tình cờ nơi đầt khách gặp nhau! Ðôi mái đầu đều bạc. Nếu chẳng quen lung, đố có nhìn ra được! Ôn chuyện cũ mà thôi. Liếc đưa nhau đi rồi! Con mắt còn có đuôi.
(2) Hồ sơ Phan Khôi: do nhà nghiên cứu văn học Lại Nguyên Ân sưu tầm và tuyển chọn : (http://www.viet-studies.info/phankhoi; http://lainguyenan.free.fr/pk). Những trích dẫn trong bài viết đều lấy từ nguồn này. Đó là các bài báo Phan Khôi viết trong các năm 1928, 1929, 1930, 1931, đăng trên các báo ở Sài Gòn: Phụ nữ tân văn, Trung lập,Đông Pháp thời báo và các báo ở Hà Nội: Đông Tây , Phổ thông . Bộsách Phan Khôi - Tác phẩm đăng báo, do Lại Nguyên Ân sưu tầm, đã được xuất bản những tập sau: Phan Khôi, Tác phẩm đăng báo 1928(Lại Nguyên Ân sưu tầm và biên soạn; NXB Đà Nẵng, 2003); Phan Khôi, Tác phẩm đăng báo 1929 (Lại Nguyên Ân st và biên soạn; in 2005); Phan Khôi, Tác phẩm đăng báo 1930 (Lại Nguyên Ân st và biên soạn; in 2006); Phan Khôi, Tác phẩm đăng báo 1931 (Lại Nguyên Ân st và biên soạn; NXB Hội Nhà văn - Trung tâm Ngôn ngữ & Văn hóa Đông Tây xuất bản - 2007); Phan Khôi viết và dịch Lỗ Tấn (Lại Nguyên Ân st, biên soạn; NXB Hội Nhà văn - TT Ngôn ngữ & Văn hóa Đông Tây, 2007); Phan Khôi - Tác phẩm đăng báo 1932: (Lại Nguyên Ân St, biên soạn; NXB Tri thức, H.2010).
(2*) Xin xem nguyên văn bài viết Phê bình lãnh đạo văn nghệ rút từ “Hồ sơ Phan Khôi”:
Ngày 14 tháng 7 trước đây, một anh bạn trẻ đến với tôi, ngỏ ý muốn tôi viết một bài cho tập Giai phẩm mùa Thu, tôi nhận lời, và viết cái bài nầy.
Tôi không phải không nhớ nhập tâm rằng cái Giai phẩm mùa Xuân đã gây ra một cảm giác nặng nề cho giới văn nghệ, nhưng mà tôi cứ viết. Là vì tôi nghĩ thấy mùa thu không thể giống được với mùa xuân. Thầy Mạnh Tử nói rằng “Bĩ nhất thời dã, thử nhất thời dã”. “Thời” là mùa thu, mùa nào tiết khí ấy, mà cũng mùa nào thức ấy.
Huống chi anh bạn trẻ có cho tôi biết rằng Giai phẩm mùa Thu sắp in ra là để góp một phần nhiệm vụ chuẩn bị và xây dựng cho Đại hội Văn nghệ Toàn quốc tháng 11 sẽ tới, tôi cũng muốn đóng góp chút ít cái nghĩa vụ ấy, thì đó là dịp tốt cho tôi viết.
Lại huống chi cái tôi viết đây là bằng văn xuôi, có chi nói nấy, nói toàn những sự thực, tôi không làm thơ, trong đó không có cái gì nhiêu khê, bí hiểm, như “cái bình vôi” của Lê Đạt, “con chó đói” của Trần Dần, “cái chổi quét rác rưởi” của Phùng Quán, nó như ruột voi, như phổi bò, suôn đuồn đuột mà xốp xồm xộp, ai đọc cũng thấy ngay tôi nói gì, khỏi phải hiểu ý nầy ra ý khác thì tôi tưởng tôi nên viết lắm.
Tôi muốn nói sự thực. Nhưng có người bảo rằng “có những cái sự thực không nên nói”. Tôi không tin. Đó là ở dưới chế độ nào kia, chứ ở dưới chế độ của chúng ta, đã lấy phê bình, tự phê bình làm võ khí, thì còn có cái sự thực nào là cái sự thực không nên nói?
Tôi muốn phê bình. Nhưng có người lại bảo rằng “phê bình nội bộ thì được, không nên viết trên sách báo, bên địch chúng thấy chúng sẽ xuyên tạc ra”. Tôi cũng không tin. Cái thời kỳ “đóng cửa dạy nhau” đã qua rồi, ngày nay chính là ngày có mâu thuẫn gì giữa nội bộ cần phải giải quyết trước mặt quần chúng nhân dân, không nhờ ánh sáng của quần chúng nhân dân soi dẫn cho, thì không thể giải quyết nổi. Vả lại, đã nhận rằng ăn của nhân dân, làm việc cho nhân dân, nhân dân là chủ, có quyền kiểm tra mọi việc, thì sao lại cứ giấu im ỉm với nhau, không cho nhân dân biết?
Còn như sợ “bên địch xuyên tạc” thì chỉ là cái cớ mượn để mà giấu im ỉm. Bên địch hà tất đợi đến có cái gì mới xuyên tạc? Chó sủa hà tất phải có bóng người đi qua. Đã là bên địch thì nó cứ dựng đứng chuyện lên, tôi thử kể ra đây một mẩu. Tháng tư năm ngoái, tôi đi vào khu V, nghe đồng bào thuật lại rằng trước đó độ một năm, lúc thủ tướng Phạm Vãn Ðồng đi dự hội nghị Giơ-ne-vơ, đài phát thanh Sài Gòn nói rằng “đó là tại Hoàng Minh Giám, bộ trưởng ngoại giao, đã bị thủ tiêu rồi nên Phạm Văn Đồng lên thay”. Thật, ông nào nói “bên địch xuyên tạc” cũng nên khen ông ấy là tử hơn bên địch lắm lắm vậy.
Chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa lập lên đã 12 năm rồi, vững như trồng rồi, được cả nhân dân toàn quốc tín nhiệm rồi, tha hồ cho đứa nào vu cáo, đặt điều nói xấu, cũng không còn sợ thay, nữa là thứ đồ xuyên tạc.
Bây giờ chúng ta làm gì? Đành rằng chế độ của chúng ta là tốt, nhưng chúng ta đây là ai? Chúng ta đây là những người từng sống dưới chế độ phong kiến, thực dân, đế quốc hoặc nhiều hoặc ít, những tư tưởng xấu xa tiêm nhiễm của chế độ xấu xa ấy còn rớt lại trong đầu óc chúng ta hoặc ít hoặc nhiều. Do đó sinh ra những hiện tượng xấu xa mà chúng ta chỉ có bịt mắt lại mới không thấy. Bây giờ chúng ta phải bạo gan nhìn thẳng vào những cái hiện tượng đen tối ấy, vạch trắng nó ra, yêu cầu nhau sửa chữa. Sửa chữa đến tận gốc tư tưởng. Có như thế, chế độ của chúng ta mới tốt đẹp thêm, bền vững thêm, chúng ta mới xứng đáng là người mác-xít, là người cộng sản chủ nghĩa, là công dân của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Chúng ta muốn “củng cố miền Bắc” à? Tôi tưởng đó là một việc trọng yếu trong chương trình phát triển văn hóa cũng như phát triển kinh tế để củng cố miền Bắc.
Bởi những lẽ đó, tôi viết bài nầy phê bình lãnh đạo văn nghệ của Hội Văn nghệ Việt Nam, cái cơ quan mà tôi sống trong đó tám chín năm nay từ khi nó mới bắt đầu thành lập ở Việt Bắc tới giờ, và phê bình rất thẳng thắn.
Hồi còn ở Việt Bắc, đường lối văn nghệ có vẻ giản đơn lắm. Tóm lại là theo chủ nghĩa Mác, chủ nghĩa hiện thực xã hội để phục vụ tổ quốc, phục vụ nhân dân, nhất là phục vụ cho cuộc kháng chiến trước mắt. Những người công tác văn nghệ lúc bấy giớ có làm đúng và đầy đủ như thế không, chưa nói đến; một điều có thể nói chắc là ai nấy đều cố gắng đi theo đường lối ấy. Đối với lãnh đạo, họ có thắc mắc gě không? Hầu như không có thắc mắc gì cả. Nếu có thì cũng đã chín bỏ làm mười, vì trong thời gian đó, cái vĩ đại, cái gian khổ mà vinh quang của cuộc kháng chiến ngập trên người họ, họ đang để lòng mà nghĩ đến kháng chiến, không nghĩ đến chuyện khác.
Ở đây tôi không đi sâu hơn, không đi tìm cái cớ tại làm sao mà sau khi thắng lợi trở về thủ đô, lãnh đạo văn nghệ thành ra vấn đề, quần chúng văn nghệ thắc mắc đối với lãnh đạo; tôi chỉ đưa ra cái hiện tượng không tốt ấy sau khi trở về Hà Nội hai năm nay.
Thình lình tôi dùng cái danh từ “quần chúng văn nghệ” chắc có người thấy mà lấy làm chướng mắt. Nhưng không dùng thì không lấy gì đủ chỉ rõ một cái hiện tượng: cái hiện tượng đối lập, một bên là lãnh đạo văn nghệ, một bên là quần chúng văn nghệ. Trước kia, trong thời kháng chiến, lãnh đạo với thứ quần chúng ấy là một, mà bây giờ là hai. Thêm một điều đáng chú ý, là cái thứ quần chúng ấy, hiện nay, không chỉ là văn nghệ sĩ theo kháng chiến ở Việt Bắc, mà còn văn nghệ sĩ ở vùng mới giải phóng, mà còn văn nghệ sĩ ở vùng Nam bộ, ở khu V ra tập kết nữa, một thứ quần chúng khá đông đảo, hễ lãnh đạo không khéo thì nó dễ thành ra đối lập.
Ở dưới chế độ tư sản, sự đối lập là thường: nhân dân đối lập với chính phủ, công nhân đối lập với chủ xưởng, học sinh đối lập với nhà trường… Nhưng ở dưới chế độ của chúng ta, về mọi phương diện, yêu cầu phải đi đến không đối lập, hễ còn có đối lập, là cái hiện tượng không tốt, cái triệu chứng không tốt.
Sở dĩ có cái hiện tượng ấy là bởi trong lĩnh vực văn nghệ chúng ta hai năm nay có những điều sai lệch về lãnh đạo mà tôi sẽ cử đại khái ra như dưới đây. Đây là những việc nổi bật lên, tôi thấy rõ thì tôi nói; còn những việc khác, về mặt tổ chức, về mặt hành chính tôi không biết cho lắm thì tôi không nói.
I. Về vấn đề tự do văn nghệ sĩ
Sau khi về Hà Nội không lâu, giữa một cuộc tọa đàm ở trụ sở Hội Văn nghệ, một cán bộ cao cấp lấy tư cách cá nhân đề ra cái vấn đề “tự do của văn nghệ sĩ”. Cái vấn đề ấy được giải thích là: Có một số văn nghệ sĩ nào đó đòi tự do hay là có ý đòi tự do, mà tự do một cách bừa bãi, đến nỗi “ví như một kẻ kia đi trên đường phố, thấy có người ôm cái cặp da đẹp, giật ngang lấy đi, rồi nói rằng đó là tự do của mình vì mình thích cái cặp da.” Do đó, kết luận là: phải có lãnh đạo, văn nghệ sĩ phải ở dưới quyền lãnh đạo.
Tôi thấy vấn đề đặt như thế không đúng. Sự thực trước mắt chúng ta không hề có như thế.
Quả thật như vậy, văn nghệ sĩ của chúng ta chẳng những đáng yêu mà lại đáng thương nữa. Họ biết trước kia họ đã đi sai đường, họ ngoan ngoãn chịu lãnh đạo. Mồ ma Tô Ngọc Vân, anh là một họa sĩ cụp vẽ mỹ nhân, năm 1948, anh còn vẽ bức tranh màu đề là “Hà Nội đứng lên”, trình bày một người thiếu phụ tuyệt đẹp đứng hiên ngang trong đống lửa, chung quanh là những cái bếp đổ vì bom đạn. Thế mà sau đó anh chừa hẳn cái vai cụp ấy. Ở Triển lãm Hội họa năm 1952, trong một bức tranh không có thể không có phụ nữ, thì anh vẽ một đám bà già và gái bé. Còn Thế Lữ, có lần tôi hỏi tại sao anh không làm thơ như trước kia. Anh trả lời rằng đợi đến bao giờ anh “chỉnh” lại được tâm hồn, cảm thông được với quần chúng cần lao, bấy giờ anh sẽ làm. Thứ văn nghệ sĩ như thế, mà nói họ đòi tự do, dù chưa phải là tự do bừa bãi, cũng đã oan họ lắm rồi, oan mà không có chỗ kêu.
Có lẽ bởi nhìn thấy ở một khía cạnh nào rồi nhận định hẳn như thế, nên từ đó lãnh đạo gắt hơn, kỳ tiêu diệt thứ tự do ấy của văn nghệ sĩ. Nhưng, sự thực, thứ tự do ấy vốn không có thể bị tiêu diệt, mà cái cá tính của văn nghệ sĩ, cái nghệ thuật tính của văn nghệ, nhân đó, tuy chưa bị tiêu diệt, chứ cũng đã bị thương.
Chưa nói đến cá tính và nghệ thuật tính. Ngay đến ý kiến, ngôn luận của quần chúng văn nghệ dù rất bình thường, không có gì hại, cũng bị kìm hãm. Tôi là một người đã chịu cái điều khó chịu ấy, tôi nói ra đây tưởng không có ai ác đến nỗi bảo tôi là dựng đứng hay xuyên tạc như bên địch.
| |
Đỗ Ngọc Thạch | |
Thứ Hai, 29 tháng 6, 2015
ngự sữ văn đàn Phan Khôi
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét