3.4. Thơ tượng trưng là hiện tượng văn học có tính bản lề với những đặc trưng thẩm mĩ mới
Khám phá và diễn đạt sự bí ẩn sâu xa của thế giới là mục đích và bản chất của thơ tượng trưng. Các nhà thơ không hài lòng với lối thơ mô tả sự vật một cách hời hợt bên ngoài, mà cho rằng thế giới xung quanh chúng ta luôn chứa đựng những điều bí ẩn kì diệu, thơ có khả năng và quyền lực để chiếm lĩnh và biểu hiện nó. Như một người tiên phong, Baudelaire thể hiện mình là người ý thức được sớm và đầy đủ bề bản tính của thơ để định hướng cho một thời đại với những sáng tạo mới. Mặc dù nhận thấy những hạt nhân hợp lí ở chủ nghĩa lãng mạn và Thi sơn, nhưng ông vẫn thấy các hình thức thơ đó còn nhiều hạn chế, chủ yếu vẫn là “thức ăn của lí trí” thuần túy. Với ông, chức năng thơ không phải sự bộc bạch những trạng thái cảm xúc thông thường (cái mà văn xuôi có thể thay thế và làm tốt), mà phải hướng đến thể hiện những tri thức huyền nhiệm và chỉ có nó (thơ) mới diễn đạt được. Thơ là sự cố gắng thể hiện một thế giới mới nằm ẩn dấu sau thế giới hiện thực, khả dĩ đem lại cho tinh thần một sức mạnh đặc biệt là khả năng nhìn thấy thế giới không giống như nó hiện hữu mà ở chỗ nó lộ ra bằng những loại suy (analogies) bất ngờ giữa những cảm giác và trong sự tương hợp sâu xa giữa cái có thể nhìn thấy, cảm tính và cái tinh thần ẩn dấu bên trong.
Về nhận thức, các nhà thơ tượng trưng là những người phê phán một cách gay gắt cách làm của phái Parnasse, cho rằng những nhà thơ của phái này có thể nắm bắt một cách rất chắc sự vật và miêu tả đầy đủ đường nét góc cạnh của nó, nhưng họ đã tước bỏ mất phần lớn niềm vui thi vị của sáng tạo. Với họ, thơ là sự mặc khải một thế giới vô hình, qua hình ảnh biểu tượng và năng lực tinh thần kì diệu của nghệ sĩ chứ không phải một thế giới được nhìn thấy bằng sự quan sát thông thường. Nhìn chung thơ tượng trưng từ Baudelaire đến Rimbaud, Mallarmé...phản ánh niềm say mê thám hiểm thế giới mới, những sự phá cách táo bạo và những sự tìm kiếm không mệt mỏi những giá trị nghệ thuật, cách biểu hiện theo hướng hiện đại. Diễn đạt bằng hình ảnh, biểu tượng, bằng những liên tưởng bất ngờ dựa trên năng lực có tính chất thần cảm của nghệ sĩ đã tạo cho thơ tượng trưng những khả năng biểu hiện mới, những vẻ đẹp quyến rũ thú vị mà thơ thuần lí trí từ Phục hưng đến thời đại Cổ điển, Khai sáng và Lãng mạn không thể có được.
Chủ nghĩa tượng trung là một cuộc nổi loạn ngôn từ. Nhận thức đó hoàn toàn có cơ sở, vì khác với bất kì trường phái văn học nào trước nó, các nhà thơ đã ân sủng cho nó một quyền lực mới, riêng biệt. Thơ phải tạo cho những từ ngữ mới hoặc cấp cho từ những ý nghĩa mới trở thành thành một trong những ám ảnh thường trực đối với các nhà thơ tượng trưng. Bởi vì đối với họ, trong ngôn ngữ thường nhật, ngôn ngữ của trí năng, thậm chí của cả văn xuôi, từ là vật phụ thuộc trong những mối liên hệ, được sắp xếp trong trật tự dưới sự dẫn dắt của lí trí phổ quát và thực hiện chức năng truyền đạt thông tin theo mục đích của chủ thể hành ngôn. Các nhà thơ tượng trưng và sau này là các nhà thơ hiện đại chủ nghĩa cho rằng: ngay ở thơ cổ điển (và cả lãng mạn), chức năng của các nhà thơ “không phải là tìm ra những từ mới, cô đặc hơn hay rực rỡ hơn, mà là sắp xếp một nghi thức cũ, hoàn thiện tính đối xứng hay tính súc tích của một mối quan hệ… Ý nhị cổ điển là ý nhị về các mối quan hệ, chứ không phải về từ: đó là nghệ thuật biểu đạt chứ không phải nghệ thuật phát minh… Người ta thích thú vì cách trình bày chúng chứ không phải vì sức mạnh và vẻ đẹp riêng của nó” [Roland Barthes, Độ không của lối viết,, tr.81-82]. Ngôn từ không phải chỉ là phương tiện của thơ mà còn là chính bản thân thơ.
Thơ tượng trưng là khởi đầu của chủ nghĩa hiện đại. Các nhà thơ của thi phái này là những vị tiền bối trực tiếp cho các trào lưu nghệ thuật hiện đại thế kỉ XX, tiêu biểu như chủ nghĩa siêu thực (surréalisme) trong thơ và khuynh hướng văn học nội quan (tiêu biểu là Marcel Proust) trong lĩnh vực văn xuôi… Trong sự cách tân của mình, thơ tượng trưng đã khai sinh ra tính hiện đại (modernité) trong văn học thế giới với những biểu hiện muôn màu, muôn vẻ của nó (khái niệm tính hiện đại gắn liền với tên tuổi nhà thơ tiên phong của thi phái này: Charles Baudelaire). Trên cái nhìn tổng quát, tính hiện đại của thơ tượng trưng gắn liền với ý niệm về một sự lật nhào và vượt lên trên ranh giới của những cái đã biết, cái quen thuộc, cái hàng ngày nhìn thấy. Thơ tượng trưng đã tự giải thoát mình khỏi những qui định và ước lệ, nó chỉ biết tuân theo những đòi hỏi mãnh liệt của nhu cầu sáng tạo của nghệ sĩ chứ không tuân theo những chuẩn mực tiền lệ hoặc quán tính. Tính hiện đại vừa là một phẩm chất thơ, vừa là một yêu cầu để từ đó thơ ca (và nghệ thuật nói chung) vươn tới để tiếp cận và chiếm lĩnh những giá trị thẩm mĩ mới phù hợp với cảm xúc và trình độ tư duy của công chúng văn học hiện đại.
Là một hiện tượng văn học mới và hấp dẫn, chủ nghĩa tượng trưng không chịu bó hẹp mình chỉ trong lĩnh vực thơ cả mà còn biểu hiện ở các ngành nghệ thuật khác, như kiến trúc, hội họa, nghệ thuật thứ bảy… Trong văn học, không gian của chủ nghĩa tượng trưng cũng ngày càng mở rộng. “Chủ nghĩa tượng trưng xuất hiện như là một hiện tượng tượng văn học quốc tế” [Khrapchenco, Cá tính sáng tạo của nhà văn…, tr.232]. Từ quê hương của nó – nước Pháp – chủ nghĩa tượng trưng nhanh chóng trở thành xu hướng chung, quyết định diện mạo thơ ca phương Tây và châu Âu cuối thế kỉ XIX và đầu thế kỉ XX với những màu sắc khác nhau, ở Anh với Oscar Wilde, William Butler Yeats, ở Đức với Rainer Maria Rilke, Ở Tây Ban Nha với Rubin Dario, Juan Ramin Jiminez và ở Nga với một đội ngũ đông đảo các nhà thơ như Bryusov, Balmont, Andrei Belyi, Vladimir Solovev, Alexandre Bloc..., ở Mỹ với Erza Pound, Thomas Stern Eliot…
Thơ tượng trưng cũng là một thứ mĩ học triết học, điều đó không có gì nghi ngờ. Bởi vì mĩ học tượng trưng gắn liền với sự cảm nhận và khao khát của các nhà thơ trong mục đích khám phá và diễn đạt thế giới và đời sống trong tính thống nhất trọn vẹn của nó. Các nhà thơ tượng trưng muốn những sáng tạo nghệ thuật của họ có thể làm lộ ra một thế giới mới vô hình đằng sau thế giới hữu hình và những hình ảnh khả giác. Đó là một mĩ học có màu sắc siêu hình nhưng đầy ý nghĩa đặt vấn đề và gợi ý, vì các nghệ sĩ tượng trưng tin rằng chỉ có như thế thơ mới có thể cứu vãn con người vượt ra khỏi thế giới vật chất chật hẹp, hữu hạn để thăng hoa khả năng nhận thức và khám phá vô tận của nghệ sĩ. Hầu hết các nhà thơ tượng trưng đều ít nhiều có tính cực đoan, nhưng xét cho cùng đó là những cực đoan của sự sáng tạo, và “cái hay là ở chỗ nó [thơ tượng trưng] rút được kinh nghiệm để bồi đắp tài sản chung, nó đo lường được sự đụng độ của con người với bí mật” [Albérès, Tổng kết văn học thế kỉ XX, tr.214]. Thơ tượng trưng không chỉ nhận thức, mà quan trọng hơn, nêu lên cách nhìn mới về thế giới.
4. Tinh thần vị nghệ thuật – một quan niệm chưa có tiền lệ
Đến thế kỉ XIX, có một điều hết sức thú vị là: trong khi hầu hết các nhà văn, từ văn học lãng mạn đầu thế kỉ trở đi, đều bị cuốn hút bởi lịch sử và không ai muốn đứng ra ngoài vòng quay của nó, thì cũng chính ở thế kỉ này quan niệm nghệ thuật vị nghệ thuật (hay nghệ thuật tự nó, nghệ thuật vô vị lợi) lại được xướng lên một cách công khai, chính thức. Phái Parnasse, đứng đầu là Théophile Gautier đã từng nói rõ quan niệm của mình trong lúc đi tìm sinh khí cho hình thức thơ mới khi thơ lãng mạn đã tàn mùa, rằng vấn đề của thơ không phải cảm xúc dâng trào, cũng không phải là thông điệp hoặc một thông tin về phong tục, mà điều quan trọng đối với thơ, cái Đẹp phải trở thành một cứu cánh, là lí do tồn tại của nó. Tư tưởng vị nghệ thuật ấy tuy trong thế kỉ XIX chưa phải là quan niệm phổ biến, nhưng những biểu hiện của nó không phải hiếm hoi. Gustave Flaubert sau những tiểu thuyết nặng lời với những tầm thường của đời sống ông đã từng hé lộ chủ trương rút vào tháp ngà nghệ thuật và được ví như một kẻ “tử vì câu cú” (chữ dùng của Rose Fortassier). Và đặc biệt, các nhà thơ tượng trưng, mặc dù không tán thành hình thức thơ mô tả một cách tỉ mỉ thể cách, hình dáng sự vật của phái Thi sơn, nhưng họ lại sẵn sàng chia sẻ tinh thần thơ vô vị lợi của phái thơ này. Mallarmé đã từng vật lộn với từ, cho rằng làm thơ chính là sáng tạo với những từ. Và Baudelaire, người khơi nguồn cho thơ tượng trưng, không chỉ ngưỡng mộ Théophile Gautier, gọi ông là “nhà thơ hoàn mĩ” (poète impeccable) và là “nhà thuật sĩ tuyệt vời về Pháp ngữ” (parfait magicien ès lettres franc,aise), mà quan niệm vị nghệ thuật còn được hiện thực hóa trong sáng tác. Baudelaire đã từng phát biểu: “Các bạn đều biết rằng tôi bao giờ cũng chỉ coi văn học và nghệ thuật phải theo đuổi một mục đích xa lạ với đạo đức, và vẻ đẹp của quan niệm và phong cách là đủ đối với tôi… Tôi biết rằng ở vùng thanh khiết của thơ ca chân chính, không có cái ác, cái thiện cũng không có…” (Dẫn theo Denis Huisman, Mĩ học, tr. 131).
Tuy nhiên trong quan niệm vị nghệ thuật này có hai khía cạnh vấn đề cần làm rõ. Trước hết, quan niệm vị nghệ thuật xuất hiện gắn liền với những hoàn cảnh lịch sử cụ thể, đó là thời đại mà lối sống vị lợi và chủ nghĩa duy vật chất đang lộ liễu đe dọa sự thanh cao của những giá trị tinh thần, niềm tin vào hiện thực của các nghệ sĩ ngày càng bị hao mòn, khó cứu vãn (sáng tác của G.Flaubert đã nhìn thấy rõ rệt sự chi phối của cái tầm thường). Trong hoàn cảnh hiện thực đầy thất vọng ấy, để bảo toàn giá trị của cái đẹp và không muốn mình trở thành một phần của cái tầm thường thì sự lựa chọ khả dĩ của các nhà thơ là chuyển dịch niềm tin vốn đặt vào triển vọng tươi sáng của hiện thực thành niềm tin vào sức sống vĩnh cửu của cái Đẹp nghệ thuật. Thứ hai, và cơ bản hơn, cốt lõi của quan niệm ấy về thực chất là đề cao tinh thần sáng tạo, kích thích nỗ lực tìm kiếm những cách thức biểu hiện mới, nhằm khắc phục những khiếm khuyết nghệ thuật của trào lưu lãng mạn, những khiếm khuyết mà những nhà thơ Thi sơn từng cho là làm cho thơ trở nên “dễ dãi”, thiếu trau chuốt, và như thế sẽ có nguy cơ làm tầm thường hóa thơ cũng như công việc làm thơ. Vậy nên Victor Hugo, một nhà thơ dù suốt đời theo đuổi những mục đích khác với tác giả của tập thơ “Hoa của nỗi đau” cả trong đời sống và nghệ thuật, nhưng ông vẫn ủng hộ quan điểm của Baudelaire: “Gợi tư duy, [đó là] một giá trị hiếm hoi, đặc ân của những kẻ được lựa chọn… Tôi đã không bao giờ phát biểu nghệ thuật vị nghệ thuật, tôi luôn luôn quan niệm nghệ thuật vị tiến bộ. Suy cho cùng hai quan điểm là một… Tiến lên! Đó là khẩu lệnh của tiến bộ. Đó còn là tiếng thét của nghệ thuật. Đó là ngôn ngữ của thơ” (Guirant, Baudelaire, page choisis, p.93).
III. Ý nghĩa khởi đầu cho văn học hiện đại từ những thay đổi thẩm mĩ cuối thế kỉ XIX
Sự tiến hóa của văn học không theo qui luật phủ nhận dù mỗi sự thay đổi sẽ là những khởi đầu mới, mà theo qui luật vừa phủ định vừa có sự kết thừa, nó không chỉ có sự đứt gãy mà vừa đứt gãy vừa có tính liên tục. Với cái nhìn ấy, từ thế kỉ XX nhìn về quá khứ thế kỉ XIX, ta nhận thấy ở đó sự sôi nổi của đời sống văn học không chỉ để “làm vừa lòng” một thế kỉ đầy biến động với những khúc quanh lịch sử, những diễn tiến không mệt mỏi về tri thức, mà đó còn là một sự thu gom, tích lũy năng lượng, những sự chuẩn bị, đặt vấn đề cho bước đi mạnh mẽ của thế kỉ tương lai.
1. Dấu ấn trong văn xuôi hiện đại
Từ cuối thế kỉ XIX, những dấu hiệu của một sự bất tín nhiệm với tư duy duy lí tuy chưa trở thành như một trào lưu tư tưởng phổ biến, song những dấu hiệu ấy cho thấy cơn trở mình trong lĩnh vực tư tưởng đã trở thành một thực tế không thể không thừa nhận. Càng ngày họ càng nhận ra sự thực bên trong và những đòi hỏi tinh thần là một điều có thực, và văn học muốn hay không cũng không thể dẫm chân ở hiện thực bề ngoài được nữa. Thực tế đã diễn ra: trong khi văn xuôi tự nhiên vẫn tiếp tục đời sống của nó thì đồng thời bản thân nó bắt đầu có sự phân hóa, có hiện tượng “đào thoát” ra khỏi lối văn nặng về mô tả bằng nhiều cách, hoặc suy tư những vấn đề lịch sử, hoặc đi vào diễn đạt những ám ảnh mộng mị ma quái, hoặc đề cập đến những chủ đề có tính viễn tưởng….Trong bối cảnh ấy J.K.Huysmans nổi lên như một hiện tượng hết sức độc đáo, và tiểu thuyết “Ngược chiều” của ông mau chóng “trở thành Kinh thánh đối với các tác giả trẻ” (Rose Fortassier, Tiểu thuyết Pháp thế kỉ XIX, tr.136).
Cũng không là ngạc nhiên khi hầu hết các cuốn sách khi nghiên cứu về lịch sử văn học Pháp cuối thế kỉ, khi đề cập đến sự chuyển hướng của văn học, không ai không nhắc đến Huysmans như một biểu tượng, một phần quan trọng của sự chuyển đổi đó. Thực tế thì Huysman chưa hiện đại đến mức tính chất nội quan mà ông đã thực hiện trong tác phẩm của mình gắn liền với những tư tưởng triết học mới mẻ, mà chủ yếu bắt đầu từ ý thức về sự thiếu hụt của văn học đương thời trong việc khám phá chiều sâu đời sống tinh thần của con người. Tuy nhiên ý nghĩa của sáng tác của ông là ở chỗ mở ra viễn cảnh cho tiểu thuyết nội quan hiện đại, mà Marcel Proust (1871 – 1922) sẽ là người cấp cho kiểu tiểu thuyết này một khả năng vô tận trong việc diễn đạt mối quan hệ tự do giữa con người và thế giới.
Thế kỉ XX, với những tiến bộ đạt được của khoa học tâm lí (học thuyết phân tích tâm lí của S.Freud) và sự phổ biến của tư tưởng mĩ – triết về cái bên trong (thuyết trực giác của Henri Bergson)…, thái độ phổ biến của các nhà văn hiện đại đối với văn học hiện thực (sau đó là văn học tự nhiên) là thái độ phản ứng, thậm chí chê trách. Họ cho rằng cái thế giới rộng lớn mà những bậc thầy của chủ nghĩa hiện thực như Balzac, Stendhal, Flaubert, Émile Zola… đã tạo ra xét đến cùng là hình ảnh của một thế giới vĩ mô, còn một thế giới khác – thế giới ở chiều sâu, vi mô vẫn còn nằm ngoài phạm vi tầm quan sát của họ. Các nhà văn hiện đại không tin vào khả năng nắm bắt đời sống ở bề sâu, cũng như những sự thật không tri giác được do các nhà văn ấy bị đóng khung trong khuôn khổ không – thời gian mang tính xác định. Thậm chí họ cho rằng kiểu văn học ấy là không chân thực, là giả dối, bởi theo họ, các nhà văn hiện thực đã tự trao cho mình quyền uy nắm bắt và hiểu biết tất cả, và từ đó họ tự áp đặt quan niệm của mình lên cái thế giới mà họ thể hiện, và như thế những sáng tác của họ thực chất là quan niệm của nhà văn về đời sống chứ chưa phải bản thân đời sống. Đầu thế kỉ XX đã từng xuất hiện tiếng nói chống cái giả tạo: André Gide (1869 – 1951) đã viết “Bọn làm bạc giả” (1926) đề cập đến cái giả không chỉ thuộc phạm vi vấn đề đạo đức mà còn là văn chương; Jean Paul Satre không ngại ngần công khai chống căn bệnh ngụy tín (mauvaise foi), các nhà thơ siêu thực đi tìm đời sống ở dạng nguyên sơ nhất…Trong bầu khí quyển tri thức và tinh thần ấy, tác phẩm “Đi tìm thời gian thời gian đã mất” (À la recherché du temps perdu, 1913 – 1922) của Marcel Proust là sự khẳng định chỗ đứng của văn chương nội quan hiện đại, một tác phẩm chứa dựng những thay đổi có tính cách mạng về hình thức của tiểu thuyết đương thời, cùng với các sáng tác của nhà văn thuộc hàng đầu của thế kỉ XX người Ireland James Joyce (và sau này là sáng tác của William Faulkner). Khuynh hướng nội quan, kĩ thuật dòng ý thức mà M.Proust vận dụng một cách rộng rãi và hiệu quả trong “Đi tìm thời gian đã mất” qua sự tái hiện bản thân của nhân vật Marcel gợi cho chúng ta liên tưởng tới Des Eisseintes trong tiểu thuyết “Ngược chiều” của J.K.Huysman. Tương tự, ta cũng có thể tìm thấy dấu ấn nghệ thuật tiểu thuyết của nhà văn cuối thế kỉ XIX trong “Buồn nôn” (La Nausée, 1938) của Jean Paul Sartre , thậm chí cả trong tiểu thuyết “Chân dung của Dorian Gray” (The picture of Dorian Gray, 1891) của nhà văn người Anh gốc Ireland Oscar Wilde – một người rất say mê sáng tác của Huysmans.
2. Dấu ấn trong thơ
Từ những thập niên cuối thế kỉ XIX trở đi, sự nhận ra tính bất cập của chủ nghĩa duy lí và tư duy mang màu sắc thực chứng và nhu cầu mở rộng nhận thức thế giới ở những bình diện mới dường như là xu hướng không thể đảo ngược. Tính bất cập nói đến ở đây không bao hàm ý phủ nhận những thành quả to lớn mà thế kỉ XIX đã đạt được bằng chủ nghĩa duy lí và tư duy thực chứng ấy, trong đó có cả tư tưởng, khoa học và thẩm mĩ, mà hàm ý tính giới hạn của tư duy này trong khả năng nhận thức và diễn đạt thế giới và đời sống con người ở phần vô thường, bí ẩn và vô cùng linh động của nó, tức đời sống được phong kín, ẩn dấu bên trong khó nắm bắt. Kì vọng nắm bắt thế giới bằng tư duy duy lí và thực chứng đã trở thành một ảo vọng, bởi vì duy lí và thực nghiệm với tinh thần khoa học minh xác cuối cùng, với họ, chỉ đưa lại cho con người hình ảnh thế giới tri giác được bằng sự quan sát thông thường, một thế giới hạn hẹp trong phạm vi tri thức thường nghiệm. Thực chất đó chính là bối cảnh của sự khủng hoảng tinh thần của thế giới phương Tây trước sự bất lực của tư duy duy lí vốn là thế mạnh mà hàng bao thế kỉ họ gây dựng và lạc quan tin cậy, bắt đầu từ thế kỉ XVI và XVII với tư tưởng của Michel Eyquem de Montaigne và René Descartes…Bối cảnh ấy là miếng đất màu mỡ để từ đó chủ nghĩa hiện đại được xây dựng rộng rãi. Từ đó, những bí ẩn của tạo vật, những sự thật đời sống ở bề sâu, ngoài tầm với của tư duy khái niệm và những công thức (hay định luật) được thả sức khám phá. Đi từ thế giới đã biết để mở ra cánh cửa vào thế giới chưa biết là một phần rất quan trọng, có tính cách mạng của chủ nghĩa hiện đại, trong đó chủ nghĩa tượng trưng là hiện tượng văn học nằm ở vị trí mở đầu, sau này là chủ nghĩa siêu thực, thơ tượng trưng mới và nhiều hiện tượng văn học khác. Như thế, trong lĩnh vực thơ, bắt đầu từ chủ nghĩa tượng trưng cuối thế kỉ XIX, văn học hiện đại đã thực sự bước vào một đại lộ mới khác biệt, phong quang hơn, một cách vững chãi. Và từ đó, ta có thể nhìn thấy trong nhiều hiện tượng thơ thế kỉ XX mối liên hệ họ hàng với thi phái tượng trưng theo những cách thức và mức độ khác nhau.
Thơ là thám hiểm và mặc khải. Đó là quan niệm, đồng thời cũng là thực tế.. Ngay từ cuối thế kỉ XIX người ta đã coi thơ ca như một cuộc phiêu lưu về nhận thức (aventure de la connaissance), và từ khi chủ nghĩa tượng trưng định vị được chỗ đứng của mình thì sự nghi ngờ quyền năng của lí trí phổ quát dần dần như một xu thế của thời đại. Nếu trước đây Mallarmé đã từng nói “thơ ca là phô diễn ý nghĩa màu nhiệm của những trạng thái đời sống”, thơ ca không chỉ là cảm xúc mà cơ bản thơ như là một linh giác, một sự mặc khải (révélation), thì quan niệm thơ là hành trình tìm kiếm và khám phá một vũ trụ chưa biết đến và khó diễn đạt bằng ngôn ngữ tường minh trở thành như một “qui chế” mới . Với những quan niệm ấy, nhà thơ hiện đại rồi sẽ thuộc nằm lòng tiên đề “cuộc sống không công thức” (Paul Claudel), đời sống sẽ tự mở lấy đường đi, chẳng có cách giải thích nào giải đáp được cho tất cả. Từ đó, thơ xuất hiện như những kinh nghiệm mặc khải, là phương tiện diễn tả phần bí mật còn ẩn dấu, và xu hướng thiết tha quay về với những vẻ hồn nhiên, bột phát trở thành xu thế không thể đảo ngược.
Chủ nghĩa tượng trưng không phải là một hiện tượng thơ yểu mệnh như một số người đã nghĩ. Thời hoàng kim của nó với các nhà thơ Baudelaire, Mallarmé, Paul Verlaine, Arthur Rimbaud… dù đã qua, nhưng tư duy thơ tượng trưng thì vẫn tiếp tục khuấy động đời sống thơ ca đầu thế kỉ với tên gọi chủ nghĩa tượng trưng mới (néo – symbolisme), hay theo cách gọi của Xavier Darcos là “những ngọn lửa tượng trưng cuối cùng”. Đó là một thế hệ các nhà thơ xuất hiện trên thi đàn vào khoảng thập niên 10 và 20 của thế kỉ XX, như Paul Claudel, Paul Valéry, và cả một phần thơ của Apollinaire.
Điểm qua một vài hiện tượng thơ đầu thế kỉ XX ta thấy rõ một thực tế: tuy quan niệm của thế hệ các nhà thơ tượng trưng mới (hay hậu tượng trưng) không có những tiêu điểm rõ ràng như thế hệ các nhà thơ thế kỉ XIX, nhưng trong chừng mực nào đấy đó chính là bước đi có tính kế thừa thơ tượng trưng trong nỗ lực đổi mới và tìm cách giải thoát tối đa cho tưởng tượng và tự do tinh thần của các nghệ sĩ. Thực tế thơ ca ấy tiếp tục cùng với thơ tượng trưng xác nhận một nhận thức rằng: thơ không phải là món ăn thô lậu của lí trí thuần túy, của tư duy khái niệm, nó phải là hoạt động và là sản phẩm đặc biệt của sáng tạo tâm linh. Và ở đây cũng phải nói thêm: tuy các nhà thơ siêu thực như André Breton, Paul Éluard, P. Soupault…không được nhắc đến ở đây, và dù rằng họ tự cho rằng thơ siêu thực là một cuộc cách mạng, nhưng trên thực tế những nhà thơ siêu thực lại nhìn thấy từ Arthur Rimbaud hình ảnh một tiền bối mẫu mực của họ ở cả quan niệm và thực tiễn sáng tác.
KẾT LUẬN
Thế kỉ XIX phải được xem là một thế kỉ lớn, hết sức quan trọng trong toàn bộ tiến trình lịch sử của nền văn học Pháp từ khởi thủy đến nay. Tầm vóc thế kỉ văn học này được xác nhận không phải chỉ ở tính đa dạng và phong phú (thậm chí là phức tạp) của đời sống văn học với sự có mặt của nhiều trào lưu, nhiều khuynh hướng, nhiều đỉnh cao, mà điều quan trọng hơn, đó là thế kỉ của nhiều sự thay đổi mang tính cách mạng về phương diện thẩm mĩ có ý nghĩa thúc đẩy sự vận hành của lịch sử văn học Pháp, tạo ra những ảnh hưởng rộng rãi, sâu sắc lên đời sống văn học khu vực, thậm chí vượt ra ngoài khu vực văn học phương Tây và châu Âu. Những sự thay đổi về tư duy văn học của thế kỉ XIX là không ngừng, với những biểu hiện nhiều mặt, trong đó bao gồm sự cảm nhận đời sống, sự đồng hóa nội dung đời sống thành nội dung nghệ thuật, sự sáng tạo và vận dụng những thủ pháp và phương tiện nghệ thuật… trong thực hành sáng tạo của nghệ sĩ. Những sự thay đổi mạnh mẽ trên những vấn đề khác nhau của tư duy ấy bắt đầu từ trào lưu lãng mạn, và sự xuất hiện của trào lưu này trở thành như một tín hiệu quan trọng báo hiệu cho một thế kỉ văn học có nhiều sự phô diễn tài năng cá nhân, nhiều khao khát tìm kiếm thẩm mĩ mới, nhiều sự xuất hiện và bị vượt qua…Đặt văn học cuối thế kỉ trong tổng thể đời sống văn học của cả thế kỉ XIX công trình muốn thể hiện một nhận thức: những gì xảy ra trong đời sống văn học cuối thế kỉ, dù là mới mẻ và độc đáo đến mấy thì đó không phải sự bắt đầu từ số không, mà là hệ quả của nhiều yếu tố, trong đó có sự chuẩn bị, tích lũy năng lượng sáng tạo của cả một quá trình.
Những nghiên cứu về lịch sử văn học Pháp thế kỉ XIX (ở Việt Nam) lâu nay ít nhiều có sự thiên lệch, thường có xu hướng thu hẹp thành tựu của thế kỉ văn học này vào hai hiện tượng văn học chủ đạo là văn học lãng mạn và văn học hiện thực, trong khi đó sự quan tâm tới những hiện tượng văn học khác không được chú ý tương xứng với những gì mà văn học giai đoạn này đã làm được. Hướng nghiên cứu dựa trên giả thuyết văn học lãng mạn và hiện thực là hai chủ lưu quyết định diện mạo văn học của thế kỉ là không sai, song nếu coi nhẹ những hiện tượng văn học được xem là “phụ lưu” sẽ dễ dàng dẫn đến cái nhìn thiếu hụt về thành tựu vốn có của văn học thế kỉ. Vì vậy, trong số những hiện tượng văn học biểu hiện rõ rệt sực thay đổi về thẩm mĩ đã được đề cập trong nghiên cứu, ngoài những sự thay đổi trong sáng tác của các nhà văn quen thuộc (như Gustave Flaubert, Maupassant, Émile Zola…), chúng tôi có ý thức mở rộng sự khảo sát đến những hiện tượng văn học chưa được quan tâm nhiều, như thi phái Parnasse, thi phái tượng trưng, hay một số hiện tượng văn học có xu hướng hiện đại khác…).
Xác định trọng tâm của công trình là nghiên cứu về sự chuyển đổi thẩm mĩ của văn học cuối thế kỉ, cho nên khi tiến hành khảo sát những hiện tượng văn học dù quen thuộc hay còn xa lạ, thì những điều mà nghiên cứu của chúng tôi đã làm là tập trung vào những sự khác biệt được tạo ra trong sáng tác của các nhà văn nửa sau thế kỉ, nhất là từ thập kỉ 70 trở về sau, so với trước đó (trào lưu lãng mạn và chủ nghĩa hiện thực cổ điển). Kết quả nghiên cứu cũng hàm ý sự quan tâm thích đáng tới các hiện tượng văn học mà những đặc trưng thẩm mĩ của nó có ý nghĩa gợi mở, dự báo những triển vọng của đời sống văn học trong thế kỉ tương lai, có liên hệ họ hàng với văn học hiện đại thế kỉ XX, như chủ nghĩa tượng trưng trong thơ, hay tiểu thuyết của một số nhà văn cuối thế kỉ còn khá lạ lẫm (Villers L’Isle d’Adam, Joris Karl Huysman…). Chúng tôi quan niệm có thể nhìn lịch sử một nền văn học dưới nhiều góc nhìn khác nhau, và nếu coi lịch sử văn học là lịch sử của tư duy văn học, thì sự quan tâm tới những hiện tượng văn học nằm ở quãng “đứt gãy” của quá trình vận động theo chúng tôi là cần thiết.
Bức tranh văn học thế kỉ XIX càng về cuối thế kỉ càng tỏ ra đa dạng và phức tạp với nhiều khuynh hướng có khi độc lập, có khi giao thoa hoặc đối lập với nhau. Tuy nhiên, trong khuôn khổ nghiên cứu này chúng tôi chưa đề cập hoặc chưa đề cập sâu được tất cả những sự biểu hiện đa dạng và phức tạp ấy, như khuynh hướng văn học có tính chất viễn tưởng, văn học gắn với sự kiện cách mạng công xã Paris, những sự “phát hiện lại” các giá trị của văn học cuối thế kỉ XIX của văn học hiện đại thế kỉ XX (nhất là chủ nghĩa hiện đại), những sự tương tác giữa văn học Pháp và văn học cuối thế kỉ của những nền văn học lân cận…Những hiện tượng văn học này nếu được nghiên cứu một cách kĩ lưỡng và sâu sắc hơn chắc chắn hứa hẹn không ít những điều thú vị và có ý nghĩa, không những giúp chúng ta có cái nhìn đầy đủ về văn học thế kỉ XIX mà còn có được những dữ kiện cần thiết để hiểu sâu hơn về văn học thế kỉ XX.
TS. Nguyễn Hữu Hiếu
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét