Ký ức binh nhì - Truyện ngắn Đỗ Ngọc Thạch
[05.12.2011 03:48]
Tôi nhập ngũ tháng 12 năm 1966, vào Binh chủng Ra-đa, khi đang là
sinh viên Khoa Toán Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội (lúc đó đang sơ tán ở
Đầm Mây, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên). Tháng 10 năm 1970, tôi lại
trở về học lại Khoa Toán, trường ĐHTH Hà Nội (lúc đó đang ở cơ sở chính
tại Khu Thượng Đình, Hà Nội). Tuy chỉ gần bốn năm tại ngũ, nhưng kỷ niệm
đầy ắp và mỗi khi tháng 12 đến, tôi lại như là đi ngược thời gian trở
về những năm tháng ấy…
Ngày đầu tiên
xúng xính trong bộ quân phục mới thơm mùi vải, hai bên cổ đeo quân hàm
BINH NHÌ có hai miếng tiết đỏ au, ở giữa đính ngôi sao sáng lóa, chúng
tôi “nhìn nhau lạ hoắc cười ha ha”! Quả thật chúng tôi đã “Lột xác”, từ
anh học trò “dài lưng tốn vải” trở thành người chiến sĩ quyết tử cho Tổ
quốc quyết sinh! Cái cảm xúc thiêng liêng ấy khiến chúng tôi rất hãnh
diện, từng tốp dăm ba người đi dạo khắp làng (khi mới nhập ngũ, tân binh
chúng tôi ở nhờ trong nhà dân, cạnh Đại đội Ra-đa “đăng cai” đợt tuyển
quân này). Lúc ấy đã gần trưa, trời đã hửng nắng và đúng là những nụ
cười rạng rỡ của những chàng trai lính trẻ chúng tôi đã làm sáng rực cả
xóm làng vốn rất tĩnh mịch mỗi khi mùa Đông đến. Đang cao hứng nói cười
bi bô, bỗng tôi sững người khi thấy một tốp các thôn nữ đang đứng dưới
một gốc cây lớn, cất tiếng hò lảnh lót: “Ai ơi chớ lấy Binh Nhì / Năm
đồng một tháng lấy gì nuôi con!...”. Có lẽ những người bạn lính của tôi
cũng như tôi, lần đầu tiên được nghe câu ca dân gian đó, cho nên phản
ứng của chúng tôi là đứng như trời trồng!
Ngày hôm sau, tôi
hỏi ngay cô chủ nhà (đang ở nhờ): “Chị có biết ai đặt ra câu ca ấy
không? Tài thật đấy!”. Chị chủ nhà cười: “Bây giờ chú mới biết à? Câu ca
ấy có từ lâu rồi! …Chồng tôi nhập ngũ đã được một năm, giờ đã lên Binh
Nhất, tức sáu đồng một tháng, làm sao mà nuôi con? Không những thế còn
xin tiền vợ tiêu vặt, mỗi tháng tôi phải gửi cho mười ngàn!...”. Nghe
chị chủ nhà nói vậy, tôi chỉ biết…nghe và ngao ngán!
Thấy tôi có vẻ
thất vọng, chị chủ nhà cười nói: “Nói là nói thế nhưng chị em chúng tôi
rất thích lấy chồng Binh Nhì, bởi Binh Nhì là những anh lính trẻ nhất,
vô tư nhất và…đáng yêu nhất!”. Tôi trút một tiếng thở dài, nói: “Thôi,
chị khỏi động viên tôi! Tôi rất ghét những lời động viên, an ủi!”. Chị
chủ nhà nói ngay: “Chú không tin à? Vậy tôi sẽ gọi cô em tôi tới đây xem
chú có tin hay không!”. Và không đợi tôi kịp phản ứng gì, chị chủ nhà
đặt đứa con chưa đầy tuổi vào tay tôi rồi đi nhanh hơn làn gió!
Chưa tới năm
phút, chị chủ nhà đã trở về cùng với một cô gái khoảng mười sáu, mười
bảy tuổi, hao hao giống chị chủ nhà, chắc đúng là em gái. Cô em gái nhìn
tôi bằng ánh mắt lung linh, tôi tưởng như đang nhìn thấy những giọt
sương mai. Cô gái nhoẻn miệng cười như chào tôi, tôi tưởng như lạc lối
khi nhìn vào đôi môi mọng ướt và hàm răng lóe sáng của cô! …Chị chủ nhà
đón lấy đứa con và nói: “Cô Mận em tôi sẽ nói lại cho chú biết con gái
có thích lấy chồng Binh Nhì hay không?”. Khi chỉ còn lại tôi và cô gái
tên Mận, tôi thật sự lúng túng không biết nói gì, làm gì thì cô Mận nói:
“Anh hãy hỏi em rằng cô có thích lấy chồng Binh Nhì không?”. Tôi làm
theo như cái máy, lặp lại nguyên văn câu hỏi: “Cô có thích lấy chồng
Binh Nhì không?”. Cô gái nói ngay: “Có! Anh hãy cưới em đi!”. Vì tôi
chưa hề nghĩ tới hai chữ “cưới vợ” nên buột mồm nói: “Làm sao để cưới
được em?”. Tức thì cô gái cầm lấy tay tôi nói: “Anh hãy hôn em đi thì sẽ
biết làm thế nào!”. Và khi tôi còn đang ngỡ ngàng trước tình huống bất
ngờ thì cô gái nép vào ngực tôi rồi bất thình lình hôn túi bụi vào mặt
tôi!...
*
Nhờ cô gái tên
Mận mà tôi biết giá trị của anh lính Binh Nhì và những niềm vui rất…Binh
Nhì! Nhưng chỉ ba ngày sau thì Chính trị viên Đại đội đã cho tôi biết
thân phận thực sự của anh lính Binh Nhì là như thế nào!
Trưa hôm ấy, đáng
lẽ ngủ trưa như tất cả mọi người thì tôi lại nghe có tiếng gọi thoang
thoảng trong gió từ đầu hồi, chỗ để cối xay lúa của chị chủ nhà. Tôi nhẹ
nhàng đi ra thì thấy cô Mận đang ngồi cạnh cái cối xay, bên phải là một
thúng thóc vàng! Vừa nhìn thấy tôi, Mận ngoắc lại và nói khẽ: “Anh chưa
ngủ à? Hôn em đi, nhớ anh quá!”. Binh Nhì chúng tôi là phải biết “tuân
lệnh một cách nhanh chóng và chính xác”, cho nên tôi đã thực hiện “mệnh
lệnh” của Mận một cách xuất sắc!...Có lẽ cái hôn của tôi sẽ dài vô tận
nếu như Chính trị viên Đại đội không đột ngột xuất hiện! Thì ra CTV đi
“kiểm tra” đột xuất khu tân binh chúng tôi! Chính trị viên chưa kịp nói
gì thì cô Mận đã đẩy nhẹ tôi ra và nói: “Binh Nhì Thạch! Thừa lệnh Tiểu
đội trưởng, tôi ra lệnh cho đồng chí chạy bộ ba mươi vòng quanh nhà!”.
Tôi liền hô rõ rồi chạy vút đi khiến CTV ngớ người một lúc! Nhưng chỉ
hai phút sau, CTV đã lấy lại bình tĩnh và cười cười rồi nói: “Cô Mận, cô
giỏi thật đấy, xứng đáng được đề bạt Tiểu đội trưởng chứ không phải
thừa lệnh nữa!”. Lúc đó, tôi chạy được một vòng, khi quay lại nhìn Mận
thì cô ra hiệu cho tôi vào trong nhà mà ngủ tiếp, tôi liền nhẹ nhàng
chui vào nhà! Vừa vào thì nghe tiếng CTV nói: “Tôi đã biết phong thanh
chuyện “luyến ái” của cô với anh lính Binh Nhì vừa rồi! Tôi sẽ kỷ luật
anh lính thật nặng vì đã vi phạm lời thề thứ 9 của QĐND VN!”.
Tiếng cô Mận
nói: “Thôi, tôi xin CTV, là tại tôi cả, tôi thích anh ta! Muốn kỷ luật
thì kỷ luật tôi đây này!”. Tiếng CTV: “Ai lại kỷ luật một cô gái xinh
đẹp và đáng yêu như cô Mận được!...”. Tiếng cô Mận: “Đừng, buông tôi ra
không tôi la lên bây giờ!”. Tiếng CTV: “Cô mà la lên thì tôi sẽ kỷ luật
anh chàng Binh Nhì của cô!...”. Tiếng Mận: “Thôi được, tôi chịu thua
CTV!...Nhưng bây giờ tôi phải xay lúa, để đến tối, tôi sẽ chiều!”. Tiếng
CTV: “Nhớ đấy nhé! Tối đúng bảy giờ, tôi chờ ở trên mặt đê, sẽ ra hiệu
bằng đèn pin!”…Có tiếng đổ thóc vào cối xay, rồi tiếng cối xay rào rào, ù
ù…Đoán chừng CTV đã đi xa, tôi đi ra đầu hồi thì thấy Mận đang xay lúa,
vẻ mặt thản nhiên như không có chuyện gì xảy ra! Tôi không sao hiểu
được tại sao Mận lại đồng ý hẹn CTV, liền tới gần Mận, định hỏi “cho ra
lẽ” thì Mận như là đã biết ý nghĩ của tôi, vừa cười vừa nói: “Anh không
phải lo cho Mận! CTV không thể “ăn tươi nuốt sống” được Mận đâu!”. Nói
xong, Mận lại xay lúa rào rào, ù ù!... Tuy thế, tôi vẫn thấy không yên
tâm và nghĩ tối nay sẽ ra mặt đê “chi viện”!
Đúng bảy giờ tối,
tôi lặng lẽ đi ra con đê. Trong bóng đêm mờ ảo, con đê như một con trăn
khổng lồ! Vừa bước lên mặt đê, tôi đã nhìn thấy có ánh sáng đèn pin
nhấp nháy như đánh “Mooc”! Rồi có ánh đèn pin khác đáp lại. Tôi đang băn
khoăn không hiểu chuyện gì đã xảy ra thì thấy một mùi hương rất quen
thuộc bao phủ quanh người! Thì ra là Mận đã đứng cạnh tôi từ bao giờ.
Mận cười rúc rích và nói: “Phen này Kẻ cắp Bà già gặp nhau! Em đã nhường
cho Bà Ba Béo “xuất hẹn” với CTV rồi!...Thưởng gì cho em đi chứ?”. Tôi
chưa kịp hỏi “Bà Ba Béo” là ai thì như là đã bị lạc trong hương bưởi,
hương chanh kỳ ảo!...
*
Đối với số lính
tân binh sinh viên chúng tôi lúc đó, có một vấn đề đặc biệt “nghiêm
trọng” là chữ “Đói”. Sau ba tháng ở nơi sơ tán, ăn không đủ no (bữa nào
cũng chỉ có lưng cơm và chậu canh măng lõng bõng…) nên ai cũng “gày đen
như quỷ đói” và ghẻ lở đầy người (do lạ nước - ở nơi sơ tán toàn tắm
suối). Vì thế, khi được Bộ đội nuôi, chữ “Đói” đã hạn chế cơ bản. Tuy
nhiên, do đều đang ở “tuổi ăn” nên với chế độ ăn uống có “khẩu phần” của
quân đội, không phải là được ăn “căng rốn”. Sáu người một mâm, một chậu
cơm không phải là đầy có ngọn, nếu nhanh tay thì sới được ba lần, còn
chậm chạp thì chỉ có hai lần mà thôi! Mỗi lần ăn cơm, chúng tôi xếp
thành hàng, một Trung sĩ Trực ban của Đại đội đứng chỉ huy, đếm đúng sáu
người thì ngắt ra, đi tới chỗ có ba cái bàn để nhận sáu suất ăn gồm một
chậu cơm, một chậu canh và một cái khay có nhiều ngăn đựng thức ăn mặn.
Chỗ ăn không có bàn ghế gì, chỉ là một bãi đất trống cạnh nhà bếp của
Đại đội, lính ta chỉ việc “hạ thổ” rồi ăn uống rào rào. Nhìn cảnh gần
một trăm lính tân binh ăn uống ồn ào trên bãi đất, tôi thật…ngao ngán!
Vì thế, không như mọi người đến giờ ăn là nhanh chân đi trước, xếp hàng
đầu để sớm được thỏa mãn cơn đói, tôi và Thao (cùng ở một nhà) thường
đứng ở cuối hàng, chờ cho “bãi ăn” (chứ không phải “Nhà ăn”) vãn người,
mới túc tắc đến nhận suất ăn và thong thả ngồi nhai và…ngẫm sự đời! Cái
sự “Ngẫm sự đời” này đã giúp tôi phát hiện ra một điều thú vị: Thì ra
cái câu thành ngữ “Ăn uống đi trước, lội nước đi sau” chỉ đúng ở vế thứ
hai!
Tức là những
người nhận cơm trước chỉ được gần đủ định lượng, vì người phát cơm luôn
lo sẽ bị thiếu ở phía sau, cho nên luôn để chừa lại một số lượng “dự
phòng”, hoặc giả có thêm “khách đột xuất” (mà thời chiến thì chuyện này
thường xảy ra). Vì thế, khi chúng tôi đến nhận suất cơm thì đã là nhóm
người ăn cuối cùng, mà nhìn vào “Kho lương” thì thấy còn ê hề! Vì thế,
các anh nuôi sau khi “trách yêu” rằng “Làm gì mà đi ăn muộn thế?” đã xúc
cho khá là nặng tay! Lúc đó thường là chỉ còn ba, bốn người, chưa đủ
một mâm sáu, nhưng chúng tôi được nhận phần cơm còn nhiều hơn cả mâm sáu
lúc mới bắt đầu bữa ăn! Mỗi lần bưng cơm canh về một chỗ cao ráo, sạch
sẽ nhất của “Bãi ăn”, Thao lại tủm tỉm cười nói: “Chúng ta là trâu chậm
uống nước đục! Có lẽ phải sửa chữ “Đục” thành chữ “Đậm”!” Tôi lại bảo:
“Khỏi phải sửa, bởi chữ “Đục” ấy rất hay, “Đục nước béo cò”! Thao lại
cười hồn nhiên: “Ờ nhỉ!...”.
Một lần, chỉ có
tôi và Thao là người ăn sau cùng trên “bãi ăn” thì thấy có hai đứa bé,
đứa chị gần mười tuổi, thằng em khoảng năm, sáu tuổi, quần áo rách rưới,
cứ đứng ở góc sân nhìn chúng tôi ăn. Đứa em hai lần định nhào tới chỗ
chúng tôi nhưng đều bị chị nó kéo lại. Thấy vậy, tôi nói với Thao: “Đem
cho hai chị em chúng nó hai bát cơm, cho hết cả thịt vào!”. Thao nhất
trí ngay, dùng hai cái bát sắt của chúng tôi, xới đầy bát, đem lại cho
hai chị em. Hai đứa nhận hai bát cơm thì đi ngay!... Ăn xong, chúng tôi
còn lại giúp mấy người Anh nuôi thu dọn “Chiến trường”. Thượng sĩ Sùng,
Tiểu đội trưởng nuôi quân thấy chúng tôi làm động tác “Binh vận” như thế
thì thích lắm, cười hở hết hàm răng bàn cuốc, nói: “Người ta cứ bảo đám
học trò các cậu lười nhác nhưng hóa ra không phải! Hôm nay mà hai cậu
rửa hết cho tớ đống khay chậu này thì sẽ có phần thưởng xứng đáng!”.
Đương nhiên là chúng tôi rửa hết, chỉ mất khoảng nửa giờ, mà cũng không
phải vì “phần thưởng” như Thượng sĩ Sùng đã hứa mà chỉ là làm cho biết
Anh nuôi là thế nào!...
Khi chúng tôi về
đến nhà thì thấy hai chị em hai đứa bé ban nãy đứng chờ ở góc sân, tay
cầm hai cái bát sắt. Thì ra chúng đợi trả chúng tôi hai cái bát sắt (đó
cũng là một “vũ khí” quan trọng của người lính, vì mỗi ngày phải dùng
tới ba lần sáng, trưa và chiều tối). Chị chủ nhà bước ra sân nói: “Chúng
nó chờ các chú gần nửa giờ rồi đấy. Bảo cứ đưa chị trả giùm nhưng nhất
định không chịu, đòi phải gặp hai chú để cám ơn!”. Đứa chị nói lí nhí
cái gì mà tôi nghe không rõ, nhưng trong lòng dâng lên một cảm giác kỳ
lạ, như là …muốn khóc, bởi nhìn kỹ mới thấy đứa chị thật xanh xao, gày
gò, hai cánh tay như hai cuống lá đu đủ!...Thì ra chúng là hàng xóm của
chị chủ nhà. Bố mẹ chúng đều bệnh tật liên miên nên nhà rất nghèo túng
và chúng thường xuyên bị đói! Sau khi nghe chuyện hai đứa bé hàng xóm,
Thao cũng xúc động lắm, nói với tôi: “Từ hôm nhận năm đồng tiền lương
Binh Nhì đến giờ, chúng ta chưa tiêu pha gì. Vậy ta nên góp lại thành
mười đồng, mua gạo đem cho hai chị em chúng nó!”. Nghe Thao nói mà tôi
lại muốn… khóc (tôi vốn là đứa trẻ dễ mềm lòng từ khi thường bị bố
phạt…nhịn đói!). Tờ năm đồng ấy tôi vẫn cất dưới đáy ba-lô, định giữ làm
kỷ niệm của anh lính Binh Nhì, nhưng giờ thì kỷ niệm về những đứa bé
đói rét này còn quan trọng hơn nhiều!...
Nói là làm, chúng
tôi gộp hai tờ năm đồng lại, đi tới ngay nhà bếp Đại đội, tìm gặp
Thượng sỹ Sùng. Lúc đó, Thượng sỹ Sùng đang ngồi uống trà cùng với ba
Anh nuôi nữa. Khi nghe chúng tôi nói ý định muốn dùng mười đồng lương
Binh Nhì của hai người mua gạo giúp gia đình hai đứa bé nghèo đói,
Thượng sỹ Sùng nhìn chúng tôi lừ lừ rồi nói: “Cất ngay mười đồng Binh
Nhì đó đi! Chẳng lẽ lão Thượng sỹ tái ngũ (nhập ngũ lần thứ hai) này lại
để các cậu qua mặt như thế!”. Nói rồi Thượng sỹ Sùng bảo một Anh nuôi
ngồi cạnh: “Cậu đi cân cho hai anh Binh Nhì này mười ký gạo, ghi vào
người nhận là Thượng sỹ Sùng!”… Khi đã cầm mười ký gạo trên tay, tôi vẫn
chưa tin nổi câu chuyện lại “Kết thúc có hậu” như thế!...
*
Những ngày tháng
huấn luyện Tân binh trôi qua nhanh vun vút, nhưng thực ra nó chuyển động
với vận tốc không đổi, tôi thấy nó nhanh bởi ngày nào tôi cũng vạch một
vạch phấn lên cái cột nhà ngay sát chỗ giường ngủ. Khi tôi vừa vạch
xong vạch phấn thứ hai mươi, thì lại có cảm giác tràn ngập trong mùi
hương chanh, hương bưởi kỳ ảo. Quả nhiên là Mận đã tới từ bao giờ, cảm
giác không bao giờ đánh lừa chúng ta!...Tôi nói với Mận: “Chúng ta quen
nhau đã mười bảy ngày rồi, đúng bằng số tuổi của Mận! Vậy phải “Liên
hoan” ăn mừng đi chứ!’. Mận cười nói: “Lúc nào Mận cũng sẵn sàng “Liên
hoan” với anh!”. Những lúc “nói chuyện” như thế này, tôi thường cảm thấy
thiếu vốn ngôn từ vô cùng! Thì lại là lúc Mận “gỡ thế bí” cho tôi, bảo
tôi đừng nói gì cả, và thế là chúng tôi cùng bay vào một thế giới thật
kỳ lạ, có đủ mây, gió, trăng, hoa, tuyết, núi sông!... Sau này, khi tôi
biết đến câu nói nổi tiếng “Khởi thủy là hành động” của nhà viết kịch
bậc thầy Gớt thì tôi nghĩ ngay tới cô gái quê tên Mận: Mận mà được học
hành đàng hoàng thì chắc chắn chẳng thua gì tác giả Phaux-tơ này!...
Đợt huấn luyện
Tân binh của chúng tôi chỉ kéo dài đúng ba mươi ngày. Ngày kết thúc khóa
huấn luyện Tân binh, tôi bị xếp hạng chót vì có hai môn không đạt: đó
là đi đều bước và thuộc lòng mười lời thề danh dự của người chiến sĩ
Quân đội Nhân dân Việt Nam. Tôi cũng không hiểu sao, khi bước đi một
mình, tôi bước rất đúng nhịp hô của người chỉ huy, nhưng khi đứng vào
trong hàng ngũ, thì chân tôi cứ bị lạc nhịp! Còn chuyện vì sao không
thuộc lòng được mười lời thề, cho đến bây giờ, tôi vẫn ngạc nhiên với
chính mình bởi bao nhiêu công thức, định lý, tiên đề Toán học rất khó
nhớ đã khiến cho hầu hết người đi học phải đau đầu, thì tôi lại nhớ rất
nhanh, và còn thuộc lòng cho đến tận bây giờ, còn mười lời thề ngắn gọn
như thế tại sao lại không nhớ nổi?
Sài Gòn, 12-12-2009
Đỗ Ngọc Thạch
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét