Thứ năm, ngày 04 tháng bảy năm 2013
truyện ngắn đỗ ngọc thạch - trich: 2 truyện ngắn về Hà Nội
ĐỖ NGỌC THẠCH
55 truyện ngắn trên phongdiep.net - YuMe.vn
blog.yume.vn/... - Đã lưu trong bộ nhớ cache
2 Tháng Tám 2011 – YuMe.vn - 55 truyện ngắn trên phongdiep.net 1- ĐỖ NGỌC THẠCH: Quà tặng tuổi hai mươi. 2. ĐỊA LINH NHÂN KIỆT 3.QUA SÔNG BẰNG ĐÒ 4.
57 truyện ngắn Đỗ Ngọc Thạch trên phongdiep.netĐỗ Ngọc Thạch (SG, 2010)
2. ĐỊA LINH NHÂN KIỆT
9.TƯỢNG NHÀ MỒ 10.CHUYỆN MỘT NHÀ BÁO |
Top 10 mỹ nữ đẹp nhất trên biển
TrướcSau
previous
Home >> Nội dung website >> KẾT NỐI >> Đường Văn
Những lần về Thủ đô- Đỗ Ngọc Thạch
Những lần về Thủ đô
Truyện ngắn của Đỗ Ngọc Thạch
1.Giáo đầu
Cứ tưởng cái đầu mình là “Của kho vô tận”, tôi thả phanh viết búa xua đủ các kiểu, bỗng một hôm ghé mắt nhìn vào cái “Kho” thấy trống trơn! Hốt hoảng, tôi thu dọn tất cả tài liệu, sách vở vào trong cái thùng giấy cứng (vốn là cái hộp giấy đựng tivi to tướng) rồi định đi “bụi đời” tìm cảm hứng! Ai dè vừa bước ra cửa, đụng ngay mấy người hàng xóm đang cãi lộn dữ dội, xem chừng muốn chuyển qua đánh lộn! Nhớ lời mẹ dặn lúc còn nhỏ rằng, thấy đám cãi lộn, đánh lộn là phải tránh xa, tôi vội quay trở lại, trèo lên gác…ngồi Thiền! Ngồi được ba phút thì Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác bất ngờ xuất hiện ngay trước mặt, râu tóc trắng như mây trắng, không khác gì Đại Tiên Thái Thượng Lão Quân. Tôi chưa kịp hỏi thì Hải Thượng Lãn Ông nhẹ nhàng nói: “Con mở thùng sách của con ra, trong đó có cuốn “Thượng Kinh Ký sự” của ta, con hãy đọc kỹ lại thì sẽ tỉnh ngộ!” Đoạn Hải Thượng Lãn Ông ghé tai tôi nói nhỏ một câu, dặn phải giữ bí mật, nên tôi không thể ghi ra đây được!
Tôi ngồi đọc lại cuốn Thượng Kinh ký sự một ngày…Những gì tôi viết dưới đây là do cuốn Thượng Kinh Ký sự gợi ý!
2. Về Thủ đô lần thứ Nhất
Đó là những ngày đầu giải phóng Thủ đô…Bố tôi hồi đó ở Quân Y của Sư đoàn 308, đã về Hà Nội trước cùng với đơn vị, mấy chị em chúng tôi (lúc đó chúng tôi đã có 5 chị em, 2 chị đầu) và mẹ đi sau. Tuy bố tôi đi trước nhưng mọi việc của cuộc di chuyển “bầu đoàn thê tử” bố tôi đã xếp đặt ổn thỏa: chuyến ô tô cuối cùng của Quân Y sẽ đón 6 mẹ con chúng tôi từ Phú Thọ về Hà Nội…
Lúc đó, tôi mới có hơn sáu tuổi, chưa biết Thủ đô Hà Nội như thế nào nên rất háo hức, muốn chiếc ô tô có cái dấu “Hồng Thập Tự” chở chúng tôi phóng thật nhanh! Và quả là xe chạy rất nhanh, tôi chưa kịp nhận biết là đã tới Hà Nội chưa thì xe dừng, mấy chú Quân Y đi cùng xe nói “Tới Thủ đô rồi!”, rồi nhấc bổng mấy chị em chúng tôi xuống đường! Tôi cũng chưa kịp quan sát kỹ con phố mà chúng tôi đứng chân lần đầu tiên nó như thế nào (sau này tôi mới biết đó là đoạn đầu Phố Tràng Thi, phía gần Cửa Nam, còn đi ngược lên là tới Hồ Hoàn Kiếm), thì mẹ tôi đã dắt tay hai chị tôi và bảo tôi dắt tay hai đứa em trai đi theo ( Năm chị em chúng tôi sàn sàn tuổi nhau, sinh từ 1945 đến 1951)...Đi được khoảng chục bước thì cậu em sát tuổi tôi giằng tay ra khỏi tay tôi, có lẽ do tôi nắm tay em tôi quá chặt? Thấy người em giằng tay ra, tôi cũng thả luôn bàn tay của người em kế sau ra và đứng lại…sửa sang lại y phục! Cúi xuống chân, thấy dây giày bị tuột (tôi đang đi loại giày Ba-ta của Pháp, khá phổ biến lúc đó), tôi liền ngồi xuống buộc lại dây giày. Buộc xong, tôi đứng lên nhìn quanh thì không thấy hai cậu em trai của tôi đâu! Nhìn ra phía mẹ tôi vừa dắt hai người chị cũng không thấy ai!...
Lúc đó là thời khắc chuyển giao giữa ban ngày và ban đêm, vào khoảng gần sáu giờ chiều. Người đi lại trên phố đang nhiều dần lên, chắc dân thành phố thích đi chơi ban đêm? Nếu như ở quê thì giờ này chúng tôi đang ăn cơm tối. Nghĩ tới hai từ “ăn cơm”, lập tức tôi thấy đói bụng, cái bụng như đang réo sôi! Tôi liền mở cái túi vải đeo bên sườn, có dòng chữ thêu trên nắp túi “Hoan hô chiến sĩ Điện Biên”, thò tay vào đụng phải cái nắm cơm to bằng quả bưởi. Tôi tính lấy nắm cơm nắm ra ăn thì chợt nghĩ, ai lại ăn giữa đường thế này? Vả lại, phải đi tìm Mẹ và các chị, các em chứ đứng mãi ở đây không phải là cách tốt nhất! Đi vài bước tôi lại nghĩ, nếu lát nữa mẹ quay lại tìm thì sao, với lại tôi đã biết đường phố Hà Nội như thế nào? Nghĩ vậy, tôi quyết định đứng đợi…
Khoảng một khắc, tức mười lăm phút trôi qua, đường phố đã sáng đèn, tôi đang đứng nhìn về phía Cửa Nam có ánh đèn điện nhấp nháy rất vui mắt thì bỗng có một thằng bé trạc tuổi tôi, không biết từ đâu tới và đứng sát trước mặt tôi từ bao giờ, dùng một bàn tay xoa đầu tôi và nói một câu gì đó bằng tiếng Pháp rồi co chân phải định đá đít tôi. Không ngờ tôi lại phản ứng rất nhanh, dùng một tay hất bàn chân của thằng bé lên và tay kia đấm thẳng vào mặt, tức thì nó ngã té ngửa trên hè phố! Thằng bé kêu ối một tiếng và lập tức ngồi bật dậy, tính lao vào tấn công tôi! Nhưng nó chưa kịp hành động gì thì thì bị một cô bé cũng trạc tuổi cản lại với giọng nói rõ ràng, dứt khoát: “Bạn không được đánh nhau! Đó là bài học cho bạn đừng có thấy ai cũng bắt nạt!” Dường như tiếng nói của cô bé có uy lực đặc biệt nên cậu bé kia không nói gì mà chuồn mất tăm!...
Nhìn thằng bé đi như chạy về phía Cửa Nam, tôi giật mình khi nghe tiếng cô bé nói: “Hình như bạn lần đầu tới Hà Nội?” Tôi gật đầu tỏ vẻ đồng ý. Cô bé lại nói: “Hành động vừa rồi của đứa bạn tôi thật là mất lịch sự, tôi thay mặt Người Hà Nội xin lỗi bạn!” Tôi nói lí nhí: “Không sao!... Không dám!...” Cô bé lại nói: “Bạn đứng chờ người nhà hay là bị lạc đường?” Tôi ngạc nhiên trước cách nói năng rất nhẹ nhàng, dịu dàng của cô bé và nói: “Tôi đứng chờ mẹ tôi! Vì tôi chưa đi khỏi chỗ này nên không thể gọi là bị lạc đường được!” Cô bé bỗng bật cười, tiếng cười như tiếng chuông ngân! Vừa nghĩ như vậy, tôi liền nói với cô bé: “Bạn có tiếng cười rất hay! Tiếng cười như tiếng chuông ngân!...” Cô bé nhìn tôi bằng ánh mắt lấp lánh như hai hòn bi ve…Tôi lại nói ra ý nghĩ ấy thì cô bé lại cười và nói: “Bạn nói năng như người lớn!... Nếu bạn đồng ý thì tôi sẽ là Người Hà Nội đầu tiên để lại trong bạn ký ức đẹp về Hà Nội: Tôi sẽ dẫn bạn đi dạo vòng quanh Hồ Gươm, ăn Kem ở Nhà Thủy Tạ và tới Nhà Kèn nghe hòa nhạc!...” Câu nói ấy cứ trở đi trở lại bên tai tôi và quay như đèn kéo quân trước mắt tôi khi chúng tôi đã nghe xong buổi hòa nhạc đặc biệt ở Nhà Kèn!... Đến khi Cô bạn gái dẫn tôi tới địa chỉ mà tôi đoán rằng bố tôi sẽ ở đó là Bệnh viện Đồn Thủy (sau là Bệnh viện Quân đội 108), tôi vẫn chưa kịp hỏi tên và bất cứ một thông tin gì về cô bé!...
3.Về Thủ đô lần thứ Hai
Tôi đã đi khỏi Hà Nội rồi lại trở về Hà Nội có đến gần trăm lần. Chẳng hạn như thời kỳ tại ngũ đóng quân ở mấy tỉnh xung quanh Hà Nội, thi thoảng lại được các thủ trưởng cho “tranh thủ” về Hà Nội thăm gia đình, họ hàng hoặc “công cán” gì đó cho đơn vị.Hoặc khi học Đại Học phải đi sơ tán ở Hà Bắc, Hà Nam tôi thường xuyên đạp xe đi đi về về mỗi tuần một lần, nhân lên với bốn năm thì không biết là bao nhiêu lần? Khi đi tới các tỉnh phía Bắc tôi đi qua Cửa Bắc, khi đi về phía Nam tôi đi qua Cửa Nam, qua ga Hàng Cỏ rồi xuôi xuống ga Giáp Bát, khi đi về phía Đông, tôi qua cầu Long Biên, khi đi về phía Tây, tôi đi qua Cầu Giấy…Lối đi nào cũng có nhiều điều thú vị, những kỷ niệm khó quên, nhưng vui ít buồn nhiều, không hiểu tại sao?
Lần ấy, tôi đi cùng Trung đội trưởng, làm một cuộc hành trình dài từ Nghệ An ra Hà Nội. Đó là vào thời kỳ cuộc chiến tranh phá hoại của không quân Mỹ đối với miền Bắc rất ác liệt. Đơn vị Ra-đa của tôi lúc đó đang hoạt động ở chiến trường Khu Bốn. Việc tôi được đi cùng Trung đội trưởng về Hà Nội, lúc đó tôi chỉ được biết là: do tôi thông thuộc Hà Nội nên có nhiệm vụ làm người dẫn đường cho Trung đội trưởng, còn Trung đội trưởng ra Hà Nội làm gì thì tôi không được biết vì đó là “Bí mật quân sự”!
Thực ra, tuyến đường mà chúng tôi đi thẳng một mạch từ ga Vinh tới ga Hàng Cỏ là xuống tàu, vào ngay phố phường Hà Nội. Nhưng tôi thích được đi tàu qua cầu Long Biên nên khi tàu tới ga Hàng Cỏ, tôi lôi Trung đội trưởng qua tàu đi Hải Phòng. Lúc đó, Trung đội trưởng đang ngủ gà ngủ gật, không biết mô tê gì, thấy tôi nói phải chuyển tàu thì đi theo mà không hỏi han gì!... Khi con tàu đưa chúng tôi qua cầu Long Biên thì cũng là lúc bình minh hé rạng. Đằng đông, những ngón tay hồng của Nàng Bình Minh đang như mơn trớn trần gian, vạn vật! Nhìn xa xa, dòng sông Hồng uốn lượn như một dải lụa lớn, màu hồng ấm áp, còn hai bên bờ là những vạt ngô đang trổ bắp xanh rờn, như đang nhẹ trôi theo dòng sông!...Một bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp mà không một họa sĩ tài ba nào có thể vẽ nổi!
Song, khoảng thời gian tuyệt vời đó đã qua mau khi tàu đỗ ở ga Gia Lâm. Lúc đó, nắng vàng đã rực rỡ mà chưa có tàu Hải Phòng – Hà Nội.
Chúng tôi đành ngồi đợi trên sân ga. Trung đội trưởng dường như đã tỉnh táo, vươn vai ngáp dài một cái rồi hỏi: “Đang ở ga nào vậy? Sắp tới Hà Nội chưa?” Tôi nói: “Chúng ta đang ở ga Gia Lâm! Gia Lâm là huyện ngoại thành của Hà Nội, chỉ qua cầu Long Biên là vào ngay trong ḷng Thủ đô!” Trung đội trưởng gắt: “Thôi, đừng dài dòng nữa! Bao giờ mới có tàu vào Thủ đô!” Tôi nói: “Anh hỏi em, em biết hỏi ai? Hình như đầu máy bị hỏng, họ đang sửa, không biết đến bao giờ!” Tôi vừa dứt lời thì tiếng còi báo động vang lên, kèm theo là tiếng nói rất to từ hai cái loa trên sân ga đồng thanh phát ra: “Đồng bào chú ý! Đồng bào chú ý! Máy bay địch cách Hà Nội một trăm cây số về hướng Đông! Các lực lượng phòng không sẵn sàng chiến đấu! Người không có nhiệm vụ xuống ngay hầm trú ẩn!...” Tôi vừa nghe xong câu nói, ngoảnh lại không thấy Trung đội trưởng đâu cả! Tôi ngồi ôm hai cái ba lô con cóc, nhìn lên sân thượng của mấy cái nhà lầu cạnh ga, đã thấy những khẩu súng 12,7 ly và cả súng trường của dân quân hướng nòng về phía Đông, sẵn sàng nhả đạn!...
Tôi rất thích cái hình ảnh đặc trưng này của Thủ đô Hà Nội, và cũng có ở các thành phố khác trên Miền Bắc những năm chiến tranh chống Mỹ, bởi mỗi khi có còi báo động máy bay địch như thế, là chúng tôi – những trắc thủ Ra-đa đang phải ngồi trong xe hiện sóng kín mít, và cái tin có máy bay địch kia chính là do những trắc thủ Ra-đa sinh ra!...Tôi đang mơ màng suy nghĩ về một trận bắn máy bay địch ác liệt, nòng súng 12,7 ly của tôi đã đỏ rực thì có ai đó đá vào chân tôi, hỏi: “Tại sao đồng chí không vào hầm trú ẩn?” Tôi ngẩng nhìn, thì ra là một cô nàng nhân viên nhà ga. Tôi nói ngay: “Tôi mới bị thương ở chân, không đi được! Trung đội trưởng của tôi đã đi thay xuất của tôi rồi!” Cô gái bật cười khanh khách rồi nói: “Cái anh lính binh nhất này coi thường mạng sống lại còn hài hước nữa chứ, định rỡn mặt Tử Thần hả? Tôi sẽ dìu anh vào hầm trú ẩn!” Cô gái cầm cánh tay tôi định kéo lên thì tôi nắm lấy cánh tay cô gái, thay vì đứng lên, tôi kéo mạnh, khiến cô gái bị bất ngờ, ngã đè xấp lên người tôi!...
Chúng tôi đang lúng túng trong tình huống bất ngờ thì tiếng còi “Báo an” vang lên, cùng với tiếng nói đều đều, chứ không gấp gáp như lúc báo động, của hai cái loa phóng thanh:” Đồng bào chú ý! Máy bay địch đã đi xa!...Mọi sinh hoạt trở lại bình thường!” Cô gái nhân viên nhà ga đứng được lên thì xấu hổ chạy vút đi!...
Khoảng năm phút sau, trung đội trưởng mới quay lại, lấy ba-lô đeo lên vai rồi nói: “Chúng ta đi ra cầu phao! Chưa có tàu thì đi cầu phao! Ngồi chờ ở đây rất nguy hiểm vì nhà ga là mục tiêu ném bom của máy bay Mỹ!” Tôi nghĩ, không hiểu sao Trung đội trưởng lại “Nhát chết” như thế? Lại còn là người rất thích chải chuốt nữa chứ! Là nông dân vùng chiêm trũng Hà Nam đã năm đời, nhưng trong hai cái túi ngực áo lính của anh ta lúc nào cũng có tới hai cái gương và hai cái lược! Hai cái gương để có thể nhìn được phía sau gáy, còn hai cái lược là để “sơ-cua”, lỡ quên ở đâu mà mất thì có cái dùng thay thế ngay, bởi cứ khoảng mười phút là anh ta phải chải đầu một lần, mỗi lần phải hơn chục nhát lược!...
Chúng tôi đi dọc theo bờ sông Hồng… Những vạt ngô đang kỳ trổ bắp thật là ngoạn mục! Ra tới cầu phao mới biết là ban ngày thì tháo ra năm phao cho thuyền bè đi lại, đến tối mới nối cho xe pháo và người bộ hành qua lại. Chúng tôi chui vào một vạt ngô, trải tấm ni-lông dã chiến ra và ngồi ăn lương khô! Trung đội trưởng ăn xong thì lăn ra ngủ ngon lành, lại còn ngáy nữa chứ! Tôi vốn không thích nằm cạnh người ngủ ngáy nên đứng dậy, tính đi dạo một lúc trên bờ bãi Sông Hồng đẹp như mơ này thì một cô gái bất ngờ xuất hiện ngay trước mặt! Tôi vừa kịp định thần nhận ra chính là cô gái nhân viên nhà ga ban nãy thì cô gái lừ lừ nhìn tôi nói: “Thì ra là anh lính ở trên sân ga!...” Tôi làm điệu bộ chào lễ phép rồi nói: “Thì làm sao ạ? Có phải chúng ta có duyên nợ hay không mà lại gặp nhau nơi phong cảnh hữu tình này?” Cô gái trợn mắt la to: “Duyên nợ cái con khỉ! Anh đừng hòng dở trò ra với tôi lần nữa! Cuốn gói đi ngay chỗ khác để tôi chăm sóc bãi ngô của tôi!” Tôi cũng lấy giọng nghiêm nghị đáp lại: “Chúng tôi, chiến sỹ lực lượng Phòng không – Không quân đang trên đường làm nhiệm vụ, không ai được gây trở ngại! Tôi đề nghị được người dân hỗ trợ, giúp đỡ, cho chúng tôi nằm ngủ trên vạt ngô chờ nối cầu phao!” Cô gái khẽ nhếch mép cười, liếc nhìn Trung đội trưởng đang ngủ ngon lành, rồi hạ giọng: “Thôi được, cho các nghỉ nhưng phải chuyển cho tôi thư và quà tới bố của tôi đang chiến đấu ở chiến trường Khu 4 ác liệt, tên là Trần Đình Hợi, hòm thư X”. Nghe xong tên và hòm thư của bố cô gái, tôi reo lên: “Trời!...Đó là Thủ trưởng Trung đoàn của tôi! Ông thường xuống đơn vị tôi mỗi khi đơn vị có nhiệm vụ đặc biệt!” Cô gái còn tỏ vẻ bất ngờ hơn tôi và thế là chúng tôi trở nên thân mật như…cá với nước! Cô gái nói đã ba năm bố cô chưa về thăm nhà, cô rất muốn gặp bố mà không biết làm sao! Tôi nhận lời chuyển thư và quà cho bố cô, cô liền chạy về nhà, chỉ mười phút sau đã quay lại, thì ra nhà cô gần đó và cô đã chuẩn bị từ trước!
Nhìn tên cô gái trên phong thư “Trần Thị Ga” tôi thoáng nghĩ, chắc là cô gái đẻ rơi trên sân ga! Khi hỏi chuyện thì quả nhiên là như vậy! Thấy tôi giỏi “đoán mò”, Ga nói: “Anh có biết xem tướng không? Em sẽ lấy chồng làm gì và bao giờ thì cưới?” Tôi làm bộ lẩm nhẩm bẩm đốt ngón tay rồi nói: “Cô có tướng vượng phu ích tử, chồng cô sẽ là người tài và thành đạt. Có lẽ chỉ hai năm nữa là cô sẽ lên kiệu hoa lấy được chồng như ý!”…Tôi vừa ngừng lời thì Trung đội trưởng ngồi bật dậy, nói: “Ai đã phá giấc ngủ của ta, sẽ bị phạt!...À, thì ra là anh chàng Binh nhất láu tôm láu cá! Đi mua ngay cho ta một chai rượu!” Tôi đã quen với “cái vụ sai vặt” nên chạy đi ngay!...
Tôi đi dạo một vòng phố xá thị trấn Gia Lâm, ăn một bát phở gà thơm phức rồi mới xách chai rượu trở về ruộng ngô cho Trung đội trưởng, nếu tính thời gian thì phải gần một giờ đồng hồ. Về tới nơi, tưởng rằng sẽ được nghe Trung đội trưởng kể lại “chiến tích chinh phục người đẹp” ai ngờ thấy Trung đội trưởng hai tay ôm “hạ bộ” đang rên i ỉ!...
Đến tối, cầu phao vẫn chưa được nối, hỏi ra mới biết có hai cái phao cầu do không neo buộc kỹ đã bị nước cuốn trôi mất tiêu! Người ta đang khắc phục sự cố! Trung đội trưởng sốt ruột nói: “Chờ cả ngày, giờ lại chờ cả đêm thì biết đến bao giờ? Cậu đi hỏi xem có thuyền nào nhận chở ta qua sông không?” Tôi liền đi hỏi những người dân xung quanh thì họ đều nói, hôm nay có lũ ở thượng nguồn, nước sông dâng cao và chảy xiết, không ai muốn mạo hiểm cả. Tôi bèn nghĩ bụng, mình chưa bao giờ đứng trước sự nguy hiểm thực sự, vậy lần này thử xem sao? Không đả động gì đến chuyện nước lũ kéo về, nước sông chảy siết và dâng cao, tôi nói với Trung đội trưởng: “Không có thuyền nào nhận chở người ban đêm. Tôi thấy chúng ta có thể bơi qua sông!” Trung đội trưởng tròn mắt, nói: “Bơi qua sông? Cậu có điên không đấy?” Tôi bình thản nói: “Lúc nước cạn, cát nổi lên giữa dòng sông, chúng tôi còn ra đá bóng vui lắm! Chúng ta sẽ bơi qua sông ở chỗ có cát nổi lên đó!...
Chúng ta đã cùng bơi vượt sông La ở Đức Thọ (Hà Tĩnh), rồi sông Lam ở Nam Đàn (Nghệ An), rồi sông Gianh ở Quảng Bình, chẳng lẽ lại sợ Sông Hồng của Hà Nội, như thế thì làm sao mà dám ngẩng mặt nói chuyện với Người Hà Nội? Anh có biết hồi tôi mới học lớp Một, nhà ở Quân Y viện 103, chỉ vì tôi bơi vượt qua sông Nhuệ mà đám trẻ con trong vùng gặp tôi là cúi rạp chào Đại ca đấy!” Hình như lời “khích tướng” của tôi có tác dụng tức thì, Trung đội trưởng và tôi đi ra ngay bờ sông, cởi quần áo cho vào ba-lô rồi lấy tấm vải ni-lông buộc túm lại thành một bọc lớn, đó sẽ là cái phao cho chúng tôi vượt sông. Khi chúng tôi, chỉ mặc cái quần đùi, vác bọc đồ ni-lông trên vai, bước xuống sông, trông không khác gì đặc công thủy xuất quân! Khi nước tới rốn, tôi quay lại thì thấy Trung đội trưởng vẫn đang ở chỗ nước tới đầu gối! Thấy tôi nhìn lại, Trung đội trưởng xốc lại bọc đồ trên vai rồi bước tới! Nghĩ tới câu thành ngữ “Khi nước đã tới rốn thì cho ngập luôn”, tôi nhào ra giữa dòng nước…
4.Về Thủ đô lần thứ Ba
Sau lần tôi và trung đội trưởng bơi vượt sông Hồng thành công, mọi việc dường như xảy ra rất tốt đẹp khiến Trung đội trưởng lại đề nghị cho tôi được đi cùng ra Hà Nội lần nữa, chỉ cách lần trước ba tháng. Lúc tàu dừng ở ga Hàng Cỏ (Ga Hà Nội), Trung đội trưởng mới nói với tôi: “Tớ cho cậu đi “Tranh thủ” lần này là để thưởng công cho cậu đã góp phần vào kết quả rất tốt đẹp của chuyến đi lần trước: Bộ Tư Lệnh Binh chủng đã quyết định điều tớ ra Phòng Tham mưu, từ Thiếu úy phong vượt cấp lên Thượng úy. Cứ cái đà này, chẳng mấy chốc mà lên tá, rồi lên tướng là cái chắc! Vì thế, tớ sẽ vào thẳng Bộ Tư Lệnh. Còn cậu, có thể tới nhà người quen hoặc về gia đình ở Hải Phòng tùy ý! Chủ nhật tới, nếu rảnh thì vào BTL kêu tớ, chúng ta lại đi dạo Hồ Gươm rồi ăn kem Nhà Thủy Tạ, sau đó đi bơi thuyền Hồ Tây!... Nhưng đừng dắt tớ vào mấy chỗ Thư viện Quốc Gia, Bảo Tàng Mỹ thuật hay Văn Miếu gì đó nữa nhé!...Mấy chỗ đó chẳng có gì thú vị cả!...”
Không biết Trung đội trưởng còn nói gì nữa hay không mà tôi thì bàng hoàng, sửng sốt và “Chết đứng như Từ Hải” bởi, thì ra Trung đội trưởng đang thực hiện một âm mưu “chạy chọt” để được ra Hà Nội, như ngoài đời dân sự thường xảy ra! Tôi ngạc nhiên bởi không nghĩ một người lính thời chiến, một sĩ quan – đảng viên – tấm gương cho bọn lính tráng chúng tôi noi theo hàng ngày, lại có hành động “đào ngũ” một cách tinh vi đến như thế! Tôi chỉ ước mình có được đôi cánh để bay trở vào đơn vị, lúc này đơn vị đang ở Nghi Lộc, Đô Lương (Nghệ An) hay Can Lộc, Đức Thọ (Hà Tĩnh)? Khi tôi kịp định thần thì không thấy Trung đội trưởng đâu nữa mà mấy người xích lô xúm vào lôi lôi, kéo kéo! Đúng lúc tâm trạng hỗn độn như vậy, tôi vụt nhớ đến cái lần về Hà Nội đầu tiên, gặp em ở đầu phố Tràng Thi!... Tôi liền nói với người xích lô chở tôi tới đầu phố Tràng Thi. Khi tôi và người xích lô đang cò cưa về tiền công chở tôi từ Ga về thì một cô gái xuất hiện, như một Nàng Tiên, chợt hóa thành cái cô gái bé nhỏ mà tôi đã gặp 14 năm trước!...Thật khó mà tin được đó lại là sự thật: đó chính là cô bé đã gặp tôi ở chính chỗ này khi tôi tới Hà Nội lần đầu 14 năm trước! Chỉ nhìn tôi khoảng một hay hai phút, cô gái nói: “Anh chính là cậu bé tôi đã gặp 14 năm trước ở đây!...”
Giải quyết xong “vụ xích lô”, cô gái mời tôi vào nhà, chỉ cách “điểm dừng lịch sử” vài bước chân. “Em đã nằm mơ thấy người bạn bé nhỏ là anh của 14 năm trước hoài! Đêm qua cũng vậy, còn thấy rất rõ ràng là sẽ gặp lại ở chính chỗ này! Vì thế, suốt ngày hôm nay, em cứ ngóng nhìn ra đây và quả nhiên đã “tóm” được anh!...Em đã là cô giáo, còn anh chỉ là một anh lính Binh Nhất, vì thế anh phải nghe theo sự sắp đặt của em!...” – cô gái nói một tràng mà tôi nghe như là cô đang hát những liên khúc dài bất tận, bởi khi cô ngừng nói – thì tôi đã thấy mình đã tắm rửa sạch sẽ, ngồi bên một mâm cơm hương thơm ngào ngạt!... Hương, tên cô gái, ngồi tiếp tôi ăn cơm và kể cho tôi nghe biết bao nhiêu chuyện. Thì ra, Hương cùng tuổi với tôi, là người Hà Nội đã ba đời, cha mẹ đều là nhà giáo từ thời Pháp thuộc, hiện vẫn còn dạy ở trường Chu Văn An. Hết lớp 10, Hương học ở Trường Sư Phạm 10+3 rồi dạy cấp 2 ở ngoại thành…
Hôm sau, Hương dẫn tôi tới những chỗ lần đầu tiên tôi đến Hà Nội, Hương đã dẫn tôi tới: Hồ Hoàn Kiếm, rồi vào nhà Hàng Thủy Tạ, rồi Nhà Kèn, v.v.…
Ở nhà Hương một ngày, tôi qua cầu Long Biên tới Ga Gia Lâm tìm cô gái có tên Ga để báo tin rằng bố cô đã hy sinh. Nhưng khi tới Ga thì chỉ gặp mẹ cô, cũng làm việc ở Ga. Bà nói cô đã tình nguyện vào chiến trường chiến đấu, sau khi gia đình nhận được giấy báo tử!
Khi người ta không giải thích được nhiều nỗi buồn cùng đến một lúc thì người ta thường trở về với cái nơi người ta đang sống. Vì thế, tôi chỉ ở lại Hà Nội thêm một ngày, đi lang thang khắp nơi, rồi trở về đơn vị…Hương tiễn tôi ra ga, khi gần chia tay, Hương nói: “Nếu chúng ta có duyên thì chỉ một, hai năm nữa là sẽ gặp lại. Ông bố mình rất giỏi xem tướng, nhìn tướng bạn, ông bảo chỉ hai năm nữa là bạn sẽ trở lại con đường học hành mà thôi!” Nghe Hương nói vậy, tôi nghĩ là cô nói đùa cho vui, ai ngờ đúng hai năm sau, tôi trở lại trường cũ thật. Nghĩ tới lời nói của Hương khi chia tay, tôi tới phố Tràng Thi tìm Hương, nhưng thấy cửa nhà đóng khóa im ỉm. Người hàng xóm cho biết Hương đã đi lấy chồng được một tháng!...
*
Được trở lại học, đó là điều không phải dễ dàng, vì thế tôi lấy đó làm vui và quyết “Làm lại từ
Đầu”. Tuy nhiên, cũng có lúc buồn chán, tôi thường thả bộ dọc con đường Nguyễn Trãi trước cổng trường (là Khu Thượng Đình – đối diện nhà máy Cao-Xà-Lá Hà Nội)… Một hôm, đi mãi, qua Ngã Tư Sở thì tôi rẽ vào đường Sân Bay từ lúc nào không hay! Đây là con đường dẫn vào Bộ Tư Lệnh Binh chủng Ra-đa, có những ngôi nhà mới xây rất đẹp, hình như đang cùng nhau “ăn tân gia”. Và thật bất ngờ, đứng ở trước cổng một ngôi nhà hoành tráng đó là cô gái Hương Tràng Thi và bên cạnh là một viên sĩ quan đeo lon Thiếu Tá, và tôi không thể gọi một cái tên khác mà phải thốt lên: “Trung đội Trưởng của tôi!”…
Sài Gòn, 2008-2009
Đỗ Ngọc Thạch
Phongdiep.net
Home >> Nội dung website >> KẾT NỐI >> Đường Văn
TỪ VĂN MIẾU ĐẾN HỒ HOÀN KIẾM- Đỗ Ngọc Thạch
TỪ VĂN MIẾU ĐẾN HỒ HOÀN KIẾM
Truyện ngắn của Đỗ Ngọc Thạch
1.
Ở Hà Nội có nhiều di tích văn hóa - lịch sử lớn, song có hai nơi gắn bó với tôi rất bền chặt và tôi đã gửi vào đó rất nhiều kỷ niệm không thể phai mờ, đó là Văn Miếu Quốc Tử Giám và Hồ Hoàn Kiếm. Có rất nhiều lý do để người ta gắn bó với một vùng đất, một địa danh nào đó và sự gắn bó của tôi với Văn Miếu Quốc Tử Giám và Hồ Hoàn Kiếm cũng có rất nhiều lý do, trong đó có ba lý do quan trọng nhất là:
1/ Nhà bố mẹ tôi ở đường Giảng Võ, mà tôi thì làm việc ở Viện Văn học (Từ năm 1978 đến năm l980), nên ngày ngày tôi phải đi làm (đi bộ) trên tuyến đường Giảng Võ – Cát Linh – Văn Miếu – Nguyễn Thái Học – Tràng Thi – Hồ Hoàn Kiếm – Lý Thái Tổ (Viện Văn học);
2/ Lý do thứ hai là cả hai địa danh này đều có Rùa. Tôi đã đứng ngắm hàng giờ Rùa Văn Miếu cũng như Rùa Hồ Hoàn Kiếm, bởi từ nhỏ tôi đã thích loài linh vật này, lớn lên càng thích hơn bởi nó hợp với tính cách tôi “Chậm mà chắc!”, tôi thích luôn cả những người có tướng cách “Quy bối” – Tướng Rùa, đây là quý tướng, những người có tướng Rùa làm quan ở đâu thì con dân được nhờ!
3/ Lý do thứ ba để tôi gắn bó với Văn Miếu và Hồ Hoàn Kiếm là bởi có một người con gái Hà Thành rất đặc biệt…Truyện ngắn này viết về người con gái Hà Thành đó…
2.
Như vừa nói trên, “Tuyến đường Đau khổ” của tôi có đi qua phố Tràng Thi, ở đó có Thư viện Quốc gia là nơi tôi thường vào đọc sách từ thời còn là sinh viên. Thư viện của Viện Văn học cũng khá đủ sách phục vụ công tác nghiên cứu, song đến Thư Viện Quốc gia vẫn là cái thú riêng của không ít người làm công tác nghiên cứu văn học nói riêng và văn hóa - khoa học nói chung. Tôi thuộc diện của những người “Coi thư viện là nhà”, không những ban ngày mà cả ban đêm cũng chui vào Thư viện, ăn trưa, thường là cả ăn chiều ở Thư viện thì không gọi là nhà thì gọi là gì?
Đến Thư viện Quốc gia còn có một đối tượng, tuy không nhiều nhưng bao giờ cũng có, đó là những học sinh phổ thông Hà Nội (nhà ở gần Thư viện) sắp thi vào Đại học và những người Hà Nội đi “chinh chiến” đó đây giờ được trở về muốn thi vào Đại học. Người con gái mà tôi nói rất đặc biệt tên gọi Tiểu Hà, là học sinh phổ thông nhưng kỳ thi trước vì lý do đặc biệt phải bỏ thi, nên năm sau thi lại, gọi là “Thí sinh tự do”, cũng thường vào đọc sách, ôn thi ở Thư viện. Và chính tại đây – Thư viện Quốc gia – tôi đã gặp Tiểu Hà…
3.
Bữa ăn trưa của tôi (và phần lớn những người khác thời đó – mà người ta gọi là “thời Bao cấp”) tại Thư viện thường là một cái bánh mỳ (không nhân hoặc có nhân – tùy người) hoặc cơm nắm cơm đùm đạm bạc, có vài người còn huy động cả binh chủng “ngô khoai sắn”,(và nếu ở tại Cơ quan cũng thế). Chúng tôi ăn trưa ở những băng ghế đá ngoài sân Thư viện, khá rộng và cũng đẹp như Công viên. Không biết mọi người thế nào, chứ tôi thì ăn xong chỉ thấy đói hơn lúc chưa ăn! Để giải quyết vấn đề này, tôi thường tới thùng nước công cộng của Thư viện uống cho tới lúc bụng căng như bụng cóc!...
Hình như có người “theo dõi” việc sài nước của công quá trớn đó của tôi, và một lần tôi vừa uống xong gần chục ca nước thì có tiếng nói sau lưng: “Thái quá bất cập! Anh mà uống nước nhiều như thế rất có hại!” Tôi giật mình quay lại và càng kinh ngạc hơn khi trước mặt tôi là một cô gái có khuôn mặt rất giống với nhân vật Ac-si-nha trong phim “Sông Đông êm đềm” (dựng theo tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Sô-lô-khôp) mà tôi rất có ấn tượng khi xem bộ phim này…Tôi chưa kịp hết ngạc nhiên thì cô gái biến mất, trước khi biến mất còn để lại cho tôi một “nụ cười sáng lóa sau vành môi ẩm ướt”! Không biết cô gái cười vì cái gì, chắc là bộ dạng của tôi lúc đó tức cười lắm?
Cô gái có khuôn mặt rất giống nhân vật Ac-si-nha đó chính là Tiểu Hà, cô gái Hà thành rất đặc biệt mà tôi đã nói ở trên!
Tiểu Hà đặc biệt vì ba lý do: 1/ cái tên Tiểu Hà gợi cho ta một cô bé xinh xắn, nho nhỏ nhưng cô lại già trước tuổi có đến gần chục tuổi, vì thế tôi hơn Tiểu Hà gần chục tuổi nhưng tôi có cảm giác như ngang tuổi nhau! 2/ Tiểu Hà đã cùng mẹ chăm sóc người bố nằm một chỗ suốt 5 năm trời rồi lại một mình chăm sóc song thân năm năm nữa khi mẹ cô cũng không thể đi lại được! 3/ Nhà nghèo, lại phải chăm sóc bố, mẹ bệnh tật nhưng Tiểu Hà rất chăm học và có một sự hiểu biết rất sâu rộng, mặc dù cô mới tốt nghiệp Trung học, chưa thi vào đại học, nhưng thực ra cô đã tự học xong chương trình bộ môn Lịch sử của Đại học Sư phạm…
4.
Theo thói quen, trưa hôm sau, tôi lại uống căng một bụng nước! Lần này thì cô gái tới nhẹ nhàng cầm lấy cái ca khỏi tay tôi và nói: “Anh không được uống nước nhiều như thế, máu anh sẽ bị loãng và tai biến sẽ ập đến bất cứ lúc nào!” Trời đất! Đây là lần đầu tiên tôi nghe nói như vậy! Tôi thoáng hoảng sợ và chắc điều đó thể hiện rõ trên nét mặt tôi và khiến cô gái mỉm cười – lại là nụ cười sáng lóa sau vành môi ẩm ướt!...Tôi đang lúng túng không biết nói gì thì một ông thầy học của tôi ở Khoa Văn ĐHTH tới uống nước, thấy tôi đứng trước cô gái thì nói: “Cậu quen Tiểu Hà đấy à?” Tôi ngập ngừng chưa biết trả lời ra sao thì cô gái – Tiểu Hà nói: “Dạ! Ngày nào em tới Thư viện cũng gặp anh ấy đang uống nước!...” Ông thầy cười, nói: “Thì ra là người quen cả! Cô Hà đánh máy xong tập bản thảo ấy chưa? Có bản thảo mới , mai tới nhà tôi lấy nhé!...” Khi ông thầy đi rồi, Tiểu Hà nói: “Em vẫn thường đánh máy thuê kiếm tiền. Ông thầy của anh nhiệt tình kiếm bản thảo cho em lắm, anh có ông thầy thật là tốt bụng, tính giá cao hơn những người khác!” Tôi lại thêm ngạc nhiên về Tiểu Hà!...
Có nhiều người tới thùng nước công cộng uống nước, chúng tôi đi ra khoảng sân rộng, tiếp tục nói chuyện về đề tài đánh máy. Tôi nói với Tiểu Hà: “Kiếm tiền bằng đánh máy chữ phải siêu lắm vì tiền công rất rẻ mạt. Bà Chung đánh máy ở cơ quan tôi đánh máy cả mười ngón tay, nghe cứ như mưa rào, mà mỗi ngày cũng chưa tới ba chục trang! Tiểu Hà đánh máy kiếm tiền đã lâu chưa, mỗi ngày được bao nhiêu?” Hà cười nhỏ nhẹ, nói: “Em đã phải đánh máy kiếm tiền năm năm rồi, từ khi mẹ em nằm liệt giường. Cả bố và mẹ em đều làm nghề dạy học, đều đánh máy thuê kiếm tiền như một nghề thứ hai!... Giờ đối với em là nghề chính!” Lần này thì tôi ngạc nhiên hết sức bởi với tôi, tự nuôi mình mình mà cũng thấy khó khăn, trong khi Tiểu Hà lại phải gánh một gánh nặng ngoài sức tưởng tượng!...
Thế là từ đó, tôi gặp những bạn học cũ đang làm việc ở các nhà xuất nhận bản thảo về đưa cho Hà đánh máy. Đánh máy cho nhà xuất bản thì tiền công rẻ hơn đánh máy cho cá nhân nhưng có đều và được đọc sách trước thiên hạ! Chính điều thú vị có màu sắc lãng mạn đó đã giúp cô gái có thêm sức mạnh và lòng kiên nhẫn để ngày ngày đêm đêm ngồi bên máy chữ ghép những con chữ vô hồn thành cuộc đời với biết bao sắc màu, âm thanh kỳ ảo!... Lúc đó, tôi cũng thường đánh máy chữ nhưng chỉ ở trình độ “mổ cò” và đánh máy bài viết của mình mà thôi. Vì thế, khi nhìn Tiểu Hà đánh máy, tôi thấy không khác gì nghệ sĩ đàn piano! Chính cái cảm giác đó đã giúp tôi “tiến bộ” rất nhanh về tốc độ đánh máy và chỉ sau một tháng “học mót” cách đánh máy của Hà, tốc độ đánh máy của tôi không thua các tay thợ chuyên nghiệp, nghe tiếng máy chữ cũng như …mưa rào mùa hạ!
5.
Nhà Tiểu Hà ở ngay trên đường Quốc Tử Giám, phía bên phải nếu tính cho người đang đi vào Văn Miếu. Dãy phố này trước đây yên tĩnh dưới những tán cây bàng mát vào mùa hè, buồn về mùa đông, sau này người ta mới mở hàng quán buôn bán ì xèo và nhiều nhất là những đại lý vé số. Con đường qua nhà Tiểu Hà nằm trên tuyến đường tôi vẫn ngày ngày đi qua, như đã nói trên. Song, từ khi quen biết Tiểu Hà, con đường này là điểm dừng thứ hai của tôi sau Thư viện Quốc gia, và cũng là điểm dừng khá lâu. Bởi những lúc rảnh rỗi, thường là viết xong một bài nghiên cứu gì đó, tôi lại tự thưởng cho mình được đến …ngắm Tiểu Hà! Gọi là ngắm nhưng thực ra tôi thường làm một việc gì đó phụ giúp công việc đánh máy của Tiểu Hà, chẳng hạn như đọc cho Tiểu Hà đánh máy, sửa lỗi bản đã đánh máy, hoặc những lúc Tiểu Hà phải chăm sóc bố, mẹ thì ngồi vào bàn gõ máy chữ như …điên!
Tôi đến nhà Tiểu Hà càng thường xuyên hơn khi nói chuyện với ông bố của Tiểu Hà (sức khỏe ông rất kém nên rất ít nói chuyện với khách đến nhà), tôi mới được biết ông đã từng là giáo viên của trường Phổ thông cấp 2 – 3 Lương Ngọc Quyến khi còn dạy học ở Thái Nguyên. Năm 1961, gia đình tôi ở Thị xã Thái Nguyên, tôi học lớp Năm ở trường này, còn ông chỉ dạy ở khối cấp Ba. Tuy thế, từ đó tôi vẫn gọi ông là thầy và phụ với Tiểu Hà trong việc chăm sóc ông. Ông bố Tiểu Hà là một thanh niên Hà Nội gốc, học giỏi và đầy nhiệt huyết. Tốt nghiệp Khoa Sử Đại học Sư phạm, ông đã tình nguyện đi dạy ở miền Núi, một phong trào rất sôi động của Thanh niên Thủ đô lúc đó đã để lại dấu ấn trong bài thơ “Lên miền Tây” của nhà thơ Bùi Minh Quốc: Tuổi hai mươi khi hướng đời đã thấy / Thì xa xôi gấp mấy cũng lên đường!…Ông đã đi hầu hết những huyện miền núi đầy gian khổ của tỉnh Thái Nguyên như Phú Lương, Đại Từ, Võ Nhai…Ai đã ở Thái Nguyên đều biết câu ca buồn: Những người lử khử, lừ khừ /Chẳng ở Đại Từ thì ở Võ Nhai – đó là nói về những người bị bệnh sốt rét! Và chàng thanh niên Hà Nội bố của Tiểu Hà bây giờ đã không thoát được căn bệnh “lưu truyền” đó, chuyển về thị xã Thái Nguyên được vài năm thì bệnh tái phát, trầm trọng hơn, suýt lấy mạng ông! Vợ ông, cũng là con gái Hà Nội, cũng là giáo viên đã đồng hành với ông “trên từng cây số”, tuy không dính bệnh sốt rét như chồng nhưng do cuộc sống kham khổ và khóc thương chồng nhiều mà sức khỏe suy kiệt dần!...
Những lúc đầu óc minh mẫn, tỉnh táo, ông bố của Tiểu Hà rất thích bàn luận về các nhân vật lịch sử nổi tiếng cổ kim Đông Tây…
Nghe ông nói chuyện, lịch sử như sống lại rất sinh động, với đủ sắc màu vừa rất thực lại cũng rất kỳ ảo! Chẳng hạn như ông bảo, Tại sao La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp không chịu ra giúp Tây Sơn Nguyễn Huệ? Tại vì ông đã biết Tử Vi của Nguyễn Huệ, Huệ đoản mệnh. Còn việc Huệ ra Bắc “phò Lê diệt Trịnh” thì không đánh cũng thắng bởi đối thủ đã tự hủy diệt!...Hoặc có một nhân vật lịch sử “công nhiều mà tội cũng không đáng chết” nhưng lại nhận cái chết bi thảm là Nguyễn Hữu Chỉnh!...Chỉnh phò giúp Nguyễn Huệ khi mới ra Bắc, lại “mai mối mát tay” cho Huệ với công chúa Ngọc Hân, đó là một kỳ nữ của Bắc Hà, đáng lẽ phải được ghi công đầu, vậy mà…bị “thay ngựa giữa đường”!...Không chỉ hiểu sâu sắc về lịch sử, ông giáo còn là một nhà thơ chưa xuất đầu lộ diện. Ông gần như thuộc hết các nhà thơ lớn của Việt Nam và thế giới, ông đã làm rất nhiều thơ nhưng hầu như không còn giữ bản viết tay nào, bởi ông nói, những cái gì đáng nhớ thì nó sẽ ở mãi trong đầu ông! Song, những lúc ông muốn đọc thơ của ông cho tôi nghe thì sức khỏe ông lại có vấn đề! Thật đáng tiếc!...
6.
Việc tôi đến nhà Tiểu Hà dày hơn đã gặp phải một “lực cản” hoàn toàn bất ngờ đối với tôi. Kề sát nhà của Tiểu Hà là một nhà Đại lý vé số. Đứng tên chủ đại lý vé số và cũng thường ngồi bán vé số là một người khó đoán tuổi, có cái lưng nổi một cục to tướng, mà người ta gọi là “Lưng gù”. Tôi thường không nhìn qua nhà Lưng gù vì chỉ muốn mau chóng vào gặp Tiểu Hà. Một hôm, tôi nhận được tờ giấy học trò, có viết mấy dòng như sau: “Kính gửi Thạch Tiên sinh! Tôi đã điều tra kỹ lý lịch Tiên sinh, biết Tiên sinh đang làm việc ở Viện Văn học, một cơ quan Nhà nước danh giá. Tiên sinh là người đọc sách Thánh hiền, vậy mong Tiên sinh xử sự như một người có văn hóa: Bông hoa Tiểu Hà đã “có chủ”, chính là Tôi - Lưng gù tật nguyền đáng thương! Xin Tiên sinh đừng lui tới nhà Tiểu Hà nữa! Chúc Tiên sinh mọi sự tốt lành! Ký tên: Lưng gù Quadimodo!” Đọc đến chữ cuối cùng, tôi như chân tay rụng rời! Hắn tự nhận là Quadimodo có nghĩa là hắn đã yêu Tiểu Hà từ lâu, đơn phương nhưng quyết liệt! Rõ ràng là tôi không thể “đấu súng” với hắn, “sự nghiệp” của tôi mới bắt đầu, chẳng lẽ chỉ “Bùm” một cái là tan thành mây khói!
Tôi đưa ngay lá thư của Lưng gù cho Tiểu Hà, Tiểu Hà nhìn tôi dở khóc, dở cười, lúng túng một hồi rồi mới nói được: “Xem chừng Lưng gù này còn dữ dội, mãnh liệt hơn cả Quadimodo trong tiểu thuyết “Nhà Thờ Đức Bà Paris”! Có chuyện này là em chưa kể cho anh nghe, nhân đây em xin nói luôn: Ngay từ khi mẹ em bị bệnh nặng, Lưng gù đã cho bà Mối mai sang xin cưới em và nói sẽ phụng dưỡng bố mẹ em thật tốt cho đến ngày cuối cùng của cuộc đời! Em thật bất ngờ và rất sợ, nhưng không biết làm thế nào? Bố, mẹ đều bảo khất đến khi nào em thi đỗ vào Đại học sẽ bàn tới chuyện đó. Đây chỉ là kế hoãn binh tạm thời chứ chưa có cách nào dứt khoát. Lưng gù vui vẻ nhận lời và ngày ngày “canh chừng” em như Cai ngục! Hễ ai tới nhà em nhiều và có ý tán tỉnh yêu đương là hắn gửi giấy dọa giết. Hắn cũng định dọa giết anh nhưng bố em bảo anh là học trò cũ của ông hồi ở Thái Nguyên nên hắn mới viết thư giọng điệu nhẹ nhàng, lịch sự như vậy đấy!” May mà tôi đã biết kỹ Quadimodo trong tiểu thuyết nên bình tĩnh suy nghĩ về Quadimodo có thực ở cuộc đời này. Nghĩ đến nát óc không tìm ra được một kế sách nào khả thi, trừ kế cuối cùng trong cái “cẩm nang” Tam thập lục kế: Tẩu vi thượng sách! Nhưng Tẩu như thế nào thật không đơn giản bởi tình cảm của tôi với Tiểu Hải mới ở giai đoạn “Tình trong như đã mặt ngoài còn e !” mà thôi!...
Tôi buồn quá, và bỗng phát hiện ra rằng có quá nhiều chuyện thường chỉ có ở trong tiểu thuyết lại cứ đeo bám tôi hoài! …Tôi đem chuyện Quadimodo hỏi ông Đỗ Văn Hỷ, chuyên gia về văn học Trung Quốc của Viện, cũng rất giỏi Tử vi tướng số, thì ông Hỷ nói: “Anh hùng không qua được ải Mỹ nhân! Nếu cậu tự cho mình là anh hùng thì sẽ chết vì người đẹp, còn nếu cậu là tiểu nhân thì cậu sẽ thắng cái anh chàng Quadimodo Lưng gù đó!” Tôi nói: “Anh nói thế cũng như chưa nói gì? Vấn đề là em có nên tiếp tục đeo bám cô nàng hay “nhường” cho thằng Lưng gù?” Ông Hỷ cười: “Tớ làm sao mà trả lời thay cho cậu được? Thần Tử Vi đứng trước Thần Ái tình cũng bó tay chào thua khi bị Mũi tên vàng của Thần Ái tình bắn trúng!” Nghe ông Hỷ nói vậy, tôi chán nản hết sức, đi bách bộ từ Văn Miếu tới Hồ Hoàn Kiếm đến chục lần mà vẫn chưa nghĩ ra một ý hay nào! Khi tới trước cổng Thư viện Quốc gia, nhìn vào trong sân, thấy Tiểu Hà đang ngồi trên một băng ghế đá như chờ đợi ai, tôi vội đi vào. Lúc tôi vừa ngồi xuống bên cạnh Tiểu Hà như mọi lần thì người nổi da gà khi thấy ở trên một băng ghế đá khác khuất sau một lùm cây, Quadimodo Lưng gù đang ngồi thu lu bất động, mắt nhìn về phía chúng tôi lạnh băng!...
7.
Trưởng Ban Lý luận của tôi có người bạn làm cấp Trưởng phòng ở Sở Văn hóa – TT tỉnh Khánh Hòa, bạn học của tôi cũng làm ở đó, vì thế ông muốn tổ chức cho cả Ban đi Nha Trang, theo “chính danh” là đi thực tế cơ sở. Những năm đầu giải phóng mà tổ chức được một chuyến đi dài ngày vào Miền Nam nói chung (Nha Trang nói riêng) là rất kỳ công…Lúc đó, các thành phố ở miền Nam nói chung và thành phố biển Nha Trang nói riêng vẫn là “vùng đất lạ” đối với người miền Bắc, vì thế việc đi Nha Trang một tháng trời đã giúp tôi “lùi xa mà nhìn rõ hình thế núi non”, tức nhìn lại “vấn đề Lưng gù” một cách tỉnh táo và sáng suốt. Cuối cùng, sau đúng một tháng ở Nha Trang, tôi đã rút ra được cách đối nhân xử thế trong trường hợp phải đối mặt với “vấn đề Lưng gù”: cứ để sự việc phát triển, vận động một cách tự nhiên, không can thiệp thô bạo! Cụ thể hơn là chờ thời gian trả lời! Câu này cũng là một luận điểm quan trọng trong Lý luận văn học nói riêng và văn hóa – nghệ thuật nói chung: Thời gian là vị quan Tòa công minh nhất!...
Và quả nhiên, Thời gian đã đưa cho tôi một đáp án thật…phũ phàng: Khi chuyến tàu Thống Nhất từ Nha Trang vừa về tới Hà Nội, tôi chưa về nhà ngay mà tới nhà Tiểu Hà (Từ Ga Hà Nội về nhà tôi ở Giảng Võ thì đi qua đường phố có nhà của Tiểu Hà) thì chỉ thấy hai người y tá mặc áo Blu trắng toát đang canh chừng bố và mẹ của Tiểu Hà! Những hình ảnh như thế quá quen thuộc đối với tôi (bố mẹ tôi đều làm nghề Y và thường là gia đình tôi ở luôn trong khu tập thể của Bệnh viện) và như báo tin cho tôi biết rằng: bệnh tình của song thân Tiểu Hà có vấn đề! Tôi chưa kịp hỏi gì thì một cô Y tá đưa cho tôi một mảnh giấy. Tôi mở ra và đọc ngay: “Gửi anh Th.!...Em không thể cưỡng lại định mệnh, tức phải cưới Lưng gù để anh ta lo hậu sự cho song thân! Chúng ta không nên gặp nhau nữa! Em: Tiểu Hà!” Khi thấy tôi đã đọc xong thì cô Y tá nói: “Thực ra bố mẹ của Tiểu Hà đã chết, nhưng chưa phát tang để tiến hành “Cưới chạy tang”, mọi người đang làm đám cưới ở nhà hàng Phú Gia!... Anh có vào chào hai ông bà thì vào đi rồi về ngay! Tiểu Hà có nhờ tôi nói thêm với anh như vậy!...”
Tôi không còn nhớ cảm giác của mình lúc đó như thế nào, nhưng chắc là bộ mặt vốn đã khá nhàu nát của tôi lúc đó kỳ dị lắm, khiến cho cô Y tá nói xong thì bật khóc! Không biết cô Y tá khóc vì thương cảm cho tôi hay cho Tiểu Hà?
8.
Ngay ngày hôm sau, tôi cho tất cả quần áo, đồ dùng cá nhân của tôi vào cái ba-lô Con Cóc từ thời đi lính còn giữ lại và đến thẳng phòng làm việc của tôi ở Viện Văn học, tức đêm đêm tôi sẽ ngủ ngay trên bàn làm việc. Và thế là từ đó, tôi không còn ngày ngày đi trên tuyến đường từ đường Giảng Võ qua Văn Miếu Quốc Tử Giám đến Hồ Hoàn Kiếm để tới cơ quan ở đường Lý Thái Tổ nữa! Tuyến đường vừa mới như là mạch máu trong cơ thể bỗng chốc trở thành “Con đường đau khổ”!
Thời gian lại đem đến cho tôi một đáp án mới của cuộc đời: Tôi không làm việc ở Viện Văn học nữa mà chuyển về Tạp chí Nghiên cứu Nghệ thuật ở đường Đê La Thành (đối diện với Nhạc viện Hà Nội). Như thế tuyến đường Từ Văn Miếu đến Hồ Hoàn Kiếm có thể được xóa đi vĩnh viễn, tôi sẽ thoát khỏi sự ám ảnh vì cứ phải cố tránh “Con đường đau khổ” mỗi khi đi từ cơ quan ở Lý Thái Tổ về nhà ở Giảng Võ! Nhưng thực ra, sự ám ảnh này không hề buông tha tôi và cứ như là “ngựa quen đường cũ”, thỉnh thoảng đôi chân vạn dặm của tôi lại vô tình (hay cố ý) đưa tôi đi qua nhà Tiểu Hà. Và sự đời trớ trêu ở chỗ, lần nào tôi đi ngang qua nhà Tiểu Hà cũng đều nhìn thấy Nàng, nhưng trong những cảnh huống khiến trái tim tôi thêm tan nát, chẳng hạn như cảnh tượng sau: Tiểu Hà vừa đi làm về , còn đứng ngoài hiên, thì người chồng Lưng gù đã từ bàn vé số bật dậy, nhanh như vượn, nhào tới ôm chặt lấy Tiểu Hà rồi hôn hít lên khắp người Tiểu Hà, không chừa chỗ nào!...
Sài Gòn, 2008-2009
Đỗ Ngọc Thạch
Đường Văn :: |
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét