Thứ bảy, ngày 21 tháng chín năm 2013
57 truyện ngắn Đỗ Ngọc Thạch trên phongdiep.net - trích: Từ Văn Miếu...
Hồ gươm (ảnh: Internet) |
57 Truyện ngắn Đỗ Ngọc Thạch trên phongdiep.net
2. ĐỊA LINH NHÂN KIỆT
7.TRẠNG ME ĐÈ TRẠNG NGỌT 8.KÝ ỨC HÀ NỘI |
9.TƯỢNG NHÀ MỒ 10.CHUYỆN MỘT NHÀ BÁO |
51.NGƯỜI MẸ VÀ NHỮNG ĐỨA CON 52.CÔ GÁI VÙNG CAO 53.SƯ PHỤ CỦA SƯ PHỤ VÀ SƯ PHỤ
54.HÀNH BINH THẦN TỐC 55.LÁ THƯ TUYỆT MỆNH;
54.HÀNH BINH THẦN TỐC 55.LÁ THƯ TUYỆT MỆNH;
Trích đăng:
TỪ VĂN MIẾU ĐẾN HỒ HOÀN KIẾM- Đỗ Ngọc Thạch
TỪ VĂN MIẾU ĐẾN HỒ HOÀN KIẾM
Truyện ngắn của Đỗ Ngọc Thạch
1.
Ở Hà Nội có nhiều di tích văn hóa - lịch sử lớn, song có hai nơi gắn bó với tôi rất bền chặt và tôi đã gửi vào đó rất nhiều kỷ niệm không thể phai mờ, đó là Văn Miếu Quốc Tử Giám và Hồ Hoàn Kiếm. Có rất nhiều lý do để người ta gắn bó với một vùng đất, một địa danh nào đó và sự gắn bó của tôi với Văn Miếu Quốc Tử Giám và Hồ Hoàn Kiếm cũng có rất nhiều lý do, trong đó có ba lý do quan trọng nhất là:
1/ Nhà bố mẹ tôi ở đường Giảng Võ, mà tôi thì làm việc ở Viện Văn học (Từ năm 1978 đến năm l980), nên ngày ngày tôi phải đi làm (đi bộ) trên tuyến đường Giảng Võ – Cát Linh – Văn Miếu – Nguyễn Thái Học – Tràng Thi – Hồ Hoàn Kiếm – Lý Thái Tổ (Viện Văn học);
2/ Lý do thứ hai là cả hai địa danh này đều có Rùa. Tôi đã đứng ngắm hàng giờ Rùa Văn Miếu cũng như Rùa Hồ Hoàn Kiếm, bởi từ nhỏ tôi đã thích loài linh vật này, lớn lên càng thích hơn bởi nó hợp với tính cách tôi “Chậm mà chắc!”, tôi thích luôn cả những người có tướng cách “Quy bối” – Tướng Rùa, đây là quý tướng, những người có tướng Rùa làm quan ở đâu thì con dân được nhờ!
3/ Lý do thứ ba để tôi gắn bó với Văn Miếu và Hồ Hoàn Kiếm là bởi có một người con gái Hà Thành rất đặc biệt…Truyện ngắn này viết về người con gái Hà Thành đó…
2.
Như vừa nói trên, “Tuyến đường Đau khổ” của tôi có đi qua phố Tràng Thi, ở đó có Thư viện Quốc gia là nơi tôi thường vào đọc sách từ thời còn là sinh viên. Thư viện của Viện Văn học cũng khá đủ sách phục vụ công tác nghiên cứu, song đến Thư Viện Quốc gia vẫn là cái thú riêng của không ít người làm công tác nghiên cứu văn học nói riêng và văn hóa - khoa học nói chung. Tôi thuộc diện của những người “Coi thư viện là nhà”, không những ban ngày mà cả ban đêm cũng chui vào Thư viện, ăn trưa, thường là cả ăn chiều ở Thư viện thì không gọi là nhà thì gọi là gì?
Đến Thư viện Quốc gia còn có một đối tượng, tuy không nhiều nhưng bao giờ cũng có, đó là những học sinh phổ thông Hà Nội (nhà ở gần Thư viện) sắp thi vào Đại học và những người Hà Nội đi “chinh chiến” đó đây giờ được trở về muốn thi vào Đại học. Người con gái mà tôi nói rất đặc biệt tên gọi Tiểu Hà, là học sinh phổ thông nhưng kỳ thi trước vì lý do đặc biệt phải bỏ thi, nên năm sau thi lại, gọi là “Thí sinh tự do”, cũng thường vào đọc sách, ôn thi ở Thư viện. Và chính tại đây – Thư viện Quốc gia – tôi đã gặp Tiểu Hà…
3.
Bữa ăn trưa của tôi (và phần lớn những người khác thời đó – mà người ta gọi là “thời Bao cấp”) tại Thư viện thường là một cái bánh mỳ (không nhân hoặc có nhân – tùy người) hoặc cơm nắm cơm đùm đạm bạc, có vài người còn huy động cả binh chủng “ngô khoai sắn”,(và nếu ở tại Cơ quan cũng thế). Chúng tôi ăn trưa ở những băng ghế đá ngoài sân Thư viện, khá rộng và cũng đẹp như Công viên. Không biết mọi người thế nào, chứ tôi thì ăn xong chỉ thấy đói hơn lúc chưa ăn! Để giải quyết vấn đề này, tôi thường tới thùng nước công cộng của Thư viện uống cho tới lúc bụng căng như bụng cóc!...
Hình như có người “theo dõi” việc sài nước của công quá trớn đó của tôi, và một lần tôi vừa uống xong gần chục ca nước thì có tiếng nói sau lưng: “Thái quá bất cập! Anh mà uống nước nhiều như thế rất có hại!” Tôi giật mình quay lại và càng kinh ngạc hơn khi trước mặt tôi là một cô gái có khuôn mặt rất giống với nhân vật Ac-si-nha trong phim “Sông Đông êm đềm” (dựng theo tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Sô-lô-khôp) mà tôi rất có ấn tượng khi xem bộ phim này…Tôi chưa kịp hết ngạc nhiên thì cô gái biến mất, trước khi biến mất còn để lại cho tôi một “nụ cười sáng lóa sau vành môi ẩm ướt”! Không biết cô gái cười vì cái gì, chắc là bộ dạng của tôi lúc đó tức cười lắm?
Cô gái có khuôn mặt rất giống nhân vật Ac-si-nha đó chính là Tiểu Hà, cô gái Hà thành rất đặc biệt mà tôi đã nói ở trên!
Tiểu Hà đặc biệt vì ba lý do: 1/ cái tên Tiểu Hà gợi cho ta một cô bé xinh xắn, nho nhỏ nhưng cô lại già trước tuổi có đến gần chục tuổi, vì thế tôi hơn Tiểu Hà gần chục tuổi nhưng tôi có cảm giác như ngang tuổi nhau! 2/ Tiểu Hà đã cùng mẹ chăm sóc người bố nằm một chỗ suốt 5 năm trời rồi lại một mình chăm sóc song thân năm năm nữa khi mẹ cô cũng không thể đi lại được! 3/ Nhà nghèo, lại phải chăm sóc bố, mẹ bệnh tật nhưng Tiểu Hà rất chăm học và có một sự hiểu biết rất sâu rộng, mặc dù cô mới tốt nghiệp Trung học, chưa thi vào đại học, nhưng thực ra cô đã tự học xong chương trình bộ môn Lịch sử của Đại học Sư phạm…
4.
Theo thói quen, trưa hôm sau, tôi lại uống căng một bụng nước! Lần này thì cô gái tới nhẹ nhàng cầm lấy cái ca khỏi tay tôi và nói: “Anh không được uống nước nhiều như thế, máu anh sẽ bị loãng và tai biến sẽ ập đến bất cứ lúc nào!” Trời đất! Đây là lần đầu tiên tôi nghe nói như vậy! Tôi thoáng hoảng sợ và chắc điều đó thể hiện rõ trên nét mặt tôi và khiến cô gái mỉm cười – lại là nụ cười sáng lóa sau vành môi ẩm ướt!...Tôi đang lúng túng không biết nói gì thì một ông thầy học của tôi ở Khoa Văn ĐHTH tới uống nước, thấy tôi đứng trước cô gái thì nói: “Cậu quen Tiểu Hà đấy à?” Tôi ngập ngừng chưa biết trả lời ra sao thì cô gái – Tiểu Hà nói: “Dạ! Ngày nào em tới Thư viện cũng gặp anh ấy đang uống nước!...” Ông thầy cười, nói: “Thì ra là người quen cả! Cô Hà đánh máy xong tập bản thảo ấy chưa? Có bản thảo mới , mai tới nhà tôi lấy nhé!...” Khi ông thầy đi rồi, Tiểu Hà nói: “Em vẫn thường đánh máy thuê kiếm tiền. Ông thầy của anh nhiệt tình kiếm bản thảo cho em lắm, anh có ông thầy thật là tốt bụng, tính giá cao hơn những người khác!” Tôi lại thêm ngạc nhiên về Tiểu Hà!...
Có nhiều người tới thùng nước công cộng uống nước, chúng tôi đi ra khoảng sân rộng, tiếp tục nói chuyện về đề tài đánh máy. Tôi nói với Tiểu Hà: “Kiếm tiền bằng đánh máy chữ phải siêu lắm vì tiền công rất rẻ mạt. Bà Chung đánh máy ở cơ quan tôi đánh máy cả mười ngón tay, nghe cứ như mưa rào, mà mỗi ngày cũng chưa tới ba chục trang! Tiểu Hà đánh máy kiếm tiền đã lâu chưa, mỗi ngày được bao nhiêu?” Hà cười nhỏ nhẹ, nói: “Em đã phải đánh máy kiếm tiền năm năm rồi, từ khi mẹ em nằm liệt giường. Cả bố và mẹ em đều làm nghề dạy học, đều đánh máy thuê kiếm tiền như một nghề thứ hai!... Giờ đối với em là nghề chính!” Lần này thì tôi ngạc nhiên hết sức bởi với tôi, tự nuôi mình mình mà cũng thấy khó khăn, trong khi Tiểu Hà lại phải gánh một gánh nặng ngoài sức tưởng tượng!...
Thế là từ đó, tôi gặp những bạn học cũ đang làm việc ở các nhà xuất nhận bản thảo về đưa cho Hà đánh máy. Đánh máy cho nhà xuất bản thì tiền công rẻ hơn đánh máy cho cá nhân nhưng có đều và được đọc sách trước thiên hạ! Chính điều thú vị có màu sắc lãng mạn đó đã giúp cô gái có thêm sức mạnh và lòng kiên nhẫn để ngày ngày đêm đêm ngồi bên máy chữ ghép những con chữ vô hồn thành cuộc đời với biết bao sắc màu, âm thanh kỳ ảo!... Lúc đó, tôi cũng thường đánh máy chữ nhưng chỉ ở trình độ “mổ cò” và đánh máy bài viết của mình mà thôi. Vì thế, khi nhìn Tiểu Hà đánh máy, tôi thấy không khác gì nghệ sĩ đàn piano! Chính cái cảm giác đó đã giúp tôi “tiến bộ” rất nhanh về tốc độ đánh máy và chỉ sau một tháng “học mót” cách đánh máy của Hà, tốc độ đánh máy của tôi không thua các tay thợ chuyên nghiệp, nghe tiếng máy chữ cũng như …mưa rào mùa hạ!
5.
Nhà Tiểu Hà ở ngay trên đường Quốc Tử Giám, phía bên phải nếu tính cho người đang đi vào Văn Miếu. Dãy phố này trước đây yên tĩnh dưới những tán cây bàng mát vào mùa hè, buồn về mùa đông, sau này người ta mới mở hàng quán buôn bán ì xèo và nhiều nhất là những đại lý vé số. Con đường qua nhà Tiểu Hà nằm trên tuyến đường tôi vẫn ngày ngày đi qua, như đã nói trên. Song, từ khi quen biết Tiểu Hà, con đường này là điểm dừng thứ hai của tôi sau Thư viện Quốc gia, và cũng là điểm dừng khá lâu. Bởi những lúc rảnh rỗi, thường là viết xong một bài nghiên cứu gì đó, tôi lại tự thưởng cho mình được đến …ngắm Tiểu Hà! Gọi là ngắm nhưng thực ra tôi thường làm một việc gì đó phụ giúp công việc đánh máy của Tiểu Hà, chẳng hạn như đọc cho Tiểu Hà đánh máy, sửa lỗi bản đã đánh máy, hoặc những lúc Tiểu Hà phải chăm sóc bố, mẹ thì ngồi vào bàn gõ máy chữ như …điên!
Tôi đến nhà Tiểu Hà càng thường xuyên hơn khi nói chuyện với ông bố của Tiểu Hà (sức khỏe ông rất kém nên rất ít nói chuyện với khách đến nhà), tôi mới được biết ông đã từng là giáo viên của trường Phổ thông cấp 2 – 3 Lương Ngọc Quyến khi còn dạy học ở Thái Nguyên. Năm 1961, gia đình tôi ở Thị xã Thái Nguyên, tôi học lớp Năm ở trường này, còn ông chỉ dạy ở khối cấp Ba. Tuy thế, từ đó tôi vẫn gọi ông là thầy và phụ với Tiểu Hà trong việc chăm sóc ông. Ông bố Tiểu Hà là một thanh niên Hà Nội gốc, học giỏi và đầy nhiệt huyết. Tốt nghiệp Khoa Sử Đại học Sư phạm, ông đã tình nguyện đi dạy ở miền Núi, một phong trào rất sôi động của Thanh niên Thủ đô lúc đó đã để lại dấu ấn trong bài thơ “Lên miền Tây” của nhà thơ Bùi Minh Quốc: Tuổi hai mươi khi hướng đời đã thấy / Thì xa xôi gấp mấy cũng lên đường!…Ông đã đi hầu hết những huyện miền núi đầy gian khổ của tỉnh Thái Nguyên như Phú Lương, Đại Từ, Võ Nhai…Ai đã ở Thái Nguyên đều biết câu ca buồn: Những người lử khử, lừ khừ /Chẳng ở Đại Từ thì ở Võ Nhai – đó là nói về những người bị bệnh sốt rét! Và chàng thanh niên Hà Nội bố của Tiểu Hà bây giờ đã không thoát được căn bệnh “lưu truyền” đó, chuyển về thị xã Thái Nguyên được vài năm thì bệnh tái phát, trầm trọng hơn, suýt lấy mạng ông! Vợ ông, cũng là con gái Hà Nội, cũng là giáo viên đã đồng hành với ông “trên từng cây số”, tuy không dính bệnh sốt rét như chồng nhưng do cuộc sống kham khổ và khóc thương chồng nhiều mà sức khỏe suy kiệt dần!...
Những lúc đầu óc minh mẫn, tỉnh táo, ông bố của Tiểu Hà rất thích bàn luận về các nhân vật lịch sử nổi tiếng cổ kim Đông Tây…
Nghe ông nói chuyện, lịch sử như sống lại rất sinh động, với đủ sắc màu vừa rất thực lại cũng rất kỳ ảo! Chẳng hạn như ông bảo, Tại sao La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp không chịu ra giúp Tây Sơn Nguyễn Huệ? Tại vì ông đã biết Tử Vi của Nguyễn Huệ, Huệ đoản mệnh. Còn việc Huệ ra Bắc “phò Lê diệt Trịnh” thì không đánh cũng thắng bởi đối thủ đã tự hủy diệt!...Hoặc có một nhân vật lịch sử “công nhiều mà tội cũng không đáng chết” nhưng lại nhận cái chết bi thảm là Nguyễn Hữu Chỉnh!...Chỉnh phò giúp Nguyễn Huệ khi mới ra Bắc, lại “mai mối mát tay” cho Huệ với công chúa Ngọc Hân, đó là một kỳ nữ của Bắc Hà, đáng lẽ phải được ghi công đầu, vậy mà…bị “thay ngựa giữa đường”!...Không chỉ hiểu sâu sắc về lịch sử, ông giáo còn là một nhà thơ chưa xuất đầu lộ diện. Ông gần như thuộc hết các nhà thơ lớn của Việt Nam và thế giới, ông đã làm rất nhiều thơ nhưng hầu như không còn giữ bản viết tay nào, bởi ông nói, những cái gì đáng nhớ thì nó sẽ ở mãi trong đầu ông! Song, những lúc ông muốn đọc thơ của ông cho tôi nghe thì sức khỏe ông lại có vấn đề! Thật đáng tiếc!...
6.
Việc tôi đến nhà Tiểu Hà dày hơn đã gặp phải một “lực cản” hoàn toàn bất ngờ đối với tôi. Kề sát nhà của Tiểu Hà là một nhà Đại lý vé số. Đứng tên chủ đại lý vé số và cũng thường ngồi bán vé số là một người khó đoán tuổi, có cái lưng nổi một cục to tướng, mà người ta gọi là “Lưng gù”. Tôi thường không nhìn qua nhà Lưng gù vì chỉ muốn mau chóng vào gặp Tiểu Hà. Một hôm, tôi nhận được tờ giấy học trò, có viết mấy dòng như sau: “Kính gửi Thạch Tiên sinh! Tôi đã điều tra kỹ lý lịch Tiên sinh, biết Tiên sinh đang làm việc ở Viện Văn học, một cơ quan Nhà nước danh giá. Tiên sinh là người đọc sách Thánh hiền, vậy mong Tiên sinh xử sự như một người có văn hóa: Bông hoa Tiểu Hà đã “có chủ”, chính là Tôi - Lưng gù tật nguyền đáng thương! Xin Tiên sinh đừng lui tới nhà Tiểu Hà nữa! Chúc Tiên sinh mọi sự tốt lành! Ký tên: Lưng gù Quadimodo!” Đọc đến chữ cuối cùng, tôi như chân tay rụng rời! Hắn tự nhận là Quadimodo có nghĩa là hắn đã yêu Tiểu Hà từ lâu, đơn phương nhưng quyết liệt! Rõ ràng là tôi không thể “đấu súng” với hắn, “sự nghiệp” của tôi mới bắt đầu, chẳng lẽ chỉ “Bùm” một cái là tan thành mây khói!
Tôi đưa ngay lá thư của Lưng gù cho Tiểu Hà, Tiểu Hà nhìn tôi dở khóc, dở cười, lúng túng một hồi rồi mới nói được: “Xem chừng Lưng gù này còn dữ dội, mãnh liệt hơn cả Quadimodo trong tiểu thuyết “Nhà Thờ Đức Bà Paris”! Có chuyện này là em chưa kể cho anh nghe, nhân đây em xin nói luôn: Ngay từ khi mẹ em bị bệnh nặng, Lưng gù đã cho bà Mối mai sang xin cưới em và nói sẽ phụng dưỡng bố mẹ em thật tốt cho đến ngày cuối cùng của cuộc đời! Em thật bất ngờ và rất sợ, nhưng không biết làm thế nào? Bố, mẹ đều bảo khất đến khi nào em thi đỗ vào Đại học sẽ bàn tới chuyện đó. Đây chỉ là kế hoãn binh tạm thời chứ chưa có cách nào dứt khoát. Lưng gù vui vẻ nhận lời và ngày ngày “canh chừng” em như Cai ngục! Hễ ai tới nhà em nhiều và có ý tán tỉnh yêu đương là hắn gửi giấy dọa giết. Hắn cũng định dọa giết anh nhưng bố em bảo anh là học trò cũ của ông hồi ở Thái Nguyên nên hắn mới viết thư giọng điệu nhẹ nhàng, lịch sự như vậy đấy!” May mà tôi đã biết kỹ Quadimodo trong tiểu thuyết nên bình tĩnh suy nghĩ về Quadimodo có thực ở cuộc đời này. Nghĩ đến nát óc không tìm ra được một kế sách nào khả thi, trừ kế cuối cùng trong cái “cẩm nang” Tam thập lục kế: Tẩu vi thượng sách! Nhưng Tẩu như thế nào thật không đơn giản bởi tình cảm của tôi với Tiểu Hải mới ở giai đoạn “Tình trong như đã mặt ngoài còn e !” mà thôi!...
Tôi buồn quá, và bỗng phát hiện ra rằng có quá nhiều chuyện thường chỉ có ở trong tiểu thuyết lại cứ đeo bám tôi hoài! …Tôi đem chuyện Quadimodo hỏi ông Đỗ Văn Hỷ, chuyên gia về văn học Trung Quốc của Viện, cũng rất giỏi Tử vi tướng số, thì ông Hỷ nói: “Anh hùng không qua được ải Mỹ nhân! Nếu cậu tự cho mình là anh hùng thì sẽ chết vì người đẹp, còn nếu cậu là tiểu nhân thì cậu sẽ thắng cái anh chàng Quadimodo Lưng gù đó!” Tôi nói: “Anh nói thế cũng như chưa nói gì? Vấn đề là em có nên tiếp tục đeo bám cô nàng hay “nhường” cho thằng Lưng gù?” Ông Hỷ cười: “Tớ làm sao mà trả lời thay cho cậu được? Thần Tử Vi đứng trước Thần Ái tình cũng bó tay chào thua khi bị Mũi tên vàng của Thần Ái tình bắn trúng!” Nghe ông Hỷ nói vậy, tôi chán nản hết sức, đi bách bộ từ Văn Miếu tới Hồ Hoàn Kiếm đến chục lần mà vẫn chưa nghĩ ra một ý hay nào! Khi tới trước cổng Thư viện Quốc gia, nhìn vào trong sân, thấy Tiểu Hà đang ngồi trên một băng ghế đá như chờ đợi ai, tôi vội đi vào. Lúc tôi vừa ngồi xuống bên cạnh Tiểu Hà như mọi lần thì người nổi da gà khi thấy ở trên một băng ghế đá khác khuất sau một lùm cây, Quadimodo Lưng gù đang ngồi thu lu bất động, mắt nhìn về phía chúng tôi lạnh băng!...
7.
Trưởng Ban Lý luận của tôi có người bạn làm cấp Trưởng phòng ở Sở Văn hóa – TT tỉnh Khánh Hòa, bạn học của tôi cũng làm ở đó, vì thế ông muốn tổ chức cho cả Ban đi Nha Trang, theo “chính danh” là đi thực tế cơ sở. Những năm đầu giải phóng mà tổ chức được một chuyến đi dài ngày vào Miền Nam nói chung (Nha Trang nói riêng) là rất kỳ công…Lúc đó, các thành phố ở miền Nam nói chung và thành phố biển Nha Trang nói riêng vẫn là “vùng đất lạ” đối với người miền Bắc, vì thế việc đi Nha Trang một tháng trời đã giúp tôi “lùi xa mà nhìn rõ hình thế núi non”, tức nhìn lại “vấn đề Lưng gù” một cách tỉnh táo và sáng suốt. Cuối cùng, sau đúng một tháng ở Nha Trang, tôi đã rút ra được cách đối nhân xử thế trong trường hợp phải đối mặt với “vấn đề Lưng gù”: cứ để sự việc phát triển, vận động một cách tự nhiên, không can thiệp thô bạo! Cụ thể hơn là chờ thời gian trả lời! Câu này cũng là một luận điểm quan trọng trong Lý luận văn học nói riêng và văn hóa – nghệ thuật nói chung: Thời gian là vị quan Tòa công minh nhất!...
Và quả nhiên, Thời gian đã đưa cho tôi một đáp án thật…phũ phàng: Khi chuyến tàu Thống Nhất từ Nha Trang vừa về tới Hà Nội, tôi chưa về nhà ngay mà tới nhà Tiểu Hà (Từ Ga Hà Nội về nhà tôi ở Giảng Võ thì đi qua đường phố có nhà của Tiểu Hà) thì chỉ thấy hai người y tá mặc áo Blu trắng toát đang canh chừng bố và mẹ của Tiểu Hà! Những hình ảnh như thế quá quen thuộc đối với tôi (bố mẹ tôi đều làm nghề Y và thường là gia đình tôi ở luôn trong khu tập thể của Bệnh viện) và như báo tin cho tôi biết rằng: bệnh tình của song thân Tiểu Hà có vấn đề! Tôi chưa kịp hỏi gì thì một cô Y tá đưa cho tôi một mảnh giấy. Tôi mở ra và đọc ngay: “Gửi anh Th.!...Em không thể cưỡng lại định mệnh, tức phải cưới Lưng gù để anh ta lo hậu sự cho song thân! Chúng ta không nên gặp nhau nữa! Em: Tiểu Hà!” Khi thấy tôi đã đọc xong thì cô Y tá nói: “Thực ra bố mẹ của Tiểu Hà đã chết, nhưng chưa phát tang để tiến hành “Cưới chạy tang”, mọi người đang làm đám cưới ở nhà hàng Phú Gia!... Anh có vào chào hai ông bà thì vào đi rồi về ngay! Tiểu Hà có nhờ tôi nói thêm với anh như vậy!...”
Tôi không còn nhớ cảm giác của mình lúc đó như thế nào, nhưng chắc là bộ mặt vốn đã khá nhàu nát của tôi lúc đó kỳ dị lắm, khiến cho cô Y tá nói xong thì bật khóc! Không biết cô Y tá khóc vì thương cảm cho tôi hay cho Tiểu Hà?
8.
Ngay ngày hôm sau, tôi cho tất cả quần áo, đồ dùng cá nhân của tôi vào cái ba-lô Con Cóc từ thời đi lính còn giữ lại và đến thẳng phòng làm việc của tôi ở Viện Văn học, tức đêm đêm tôi sẽ ngủ ngay trên bàn làm việc. Và thế là từ đó, tôi không còn ngày ngày đi trên tuyến đường từ đường Giảng Võ qua Văn Miếu Quốc Tử Giám đến Hồ Hoàn Kiếm để tới cơ quan ở đường Lý Thái Tổ nữa! Tuyến đường vừa mới như là mạch máu trong cơ thể bỗng chốc trở thành “Con đường đau khổ”!
Thời gian lại đem đến cho tôi một đáp án mới của cuộc đời: Tôi không làm việc ở Viện Văn học nữa mà chuyển về Tạp chí Nghiên cứu Nghệ thuật ở đường Đê La Thành (đối diện với Nhạc viện Hà Nội). Như thế tuyến đường Từ Văn Miếu đến Hồ Hoàn Kiếm có thể được xóa đi vĩnh viễn, tôi sẽ thoát khỏi sự ám ảnh vì cứ phải cố tránh “Con đường đau khổ” mỗi khi đi từ cơ quan ở Lý Thái Tổ về nhà ở Giảng Võ! Nhưng thực ra, sự ám ảnh này không hề buông tha tôi và cứ như là “ngựa quen đường cũ”, thỉnh thoảng đôi chân vạn dặm của tôi lại vô tình (hay cố ý) đưa tôi đi qua nhà Tiểu Hà. Và sự đời trớ trêu ở chỗ, lần nào tôi đi ngang qua nhà Tiểu Hà cũng đều nhìn thấy Nàng, nhưng trong những cảnh huống khiến trái tim tôi thêm tan nát, chẳng hạn như cảnh tượng sau: Tiểu Hà vừa đi làm về , còn đứng ngoài hiên, thì người chồng Lưng gù đã từ bàn vé số bật dậy, nhanh như vượn, nhào tới ôm chặt lấy Tiểu Hà rồi hôn hít lên khắp người Tiểu Hà, không chừa chỗ nào!...
Sài Gòn, 2008-2009
Đỗ Ngọc Thạch
Đường Văn : nguồn: phongdiep.net |
TƯỚNG CƯỚP HOÀN LƯƠNG - Truyện ngắn của Đỗ Ngọc Thạch
TƯỚNG CƯỚP HOÀN LƯƠNG
Truyện ngắn của Đỗ Ngọc Thạch
l.
Khi còn làm việc ở Sở Văn hóa Thông tin của một tỉnh miền cao nguyên đất đỏ, tôi thường đi xuống các huyện (đi cơ sở) và đi họp ở Sài Gòn bằng xe ô tô (loại xe TOYOTA) với ông Giám đốc Sở. Đi đường dài tất xảy ra nhiều chuyện không thể lường trước, cũng giống như câu thành ngữ “Đi đêm nhiều tất có ngày gặp ma”.
Sau này, nhớ lại mới thấy sao những lúc ấy mình không biết sợ là gì khi biết bao hiểm nguy, tai biến luôn rình rập. Chẳng hạn như khi đi qua đèo An Khê, một bên là vách núi dựng đứng, một bên là vực thẳm sâu hun hút như miệng con quái vật khổng lồ. Có đến ba lần, khi xe đang vượt đèo, tôi đã nhìn thấy những cái xe xấu số đang lăn xuống vực y như những cảnh tai nạn có rất nhiều trong các phim hành động của Mỹ, Hồng Kông… Những lúc ấy, tôi nhìn tất cả những người trong xe (thường là người lái xe, ông Giám đốc Sở và một, hai người nữa) thì thấy ai cũng lặng thinh như tượng nhưng bên thái dương (nơi có tóc mai) thì rịn ra những giọt mồ hồi, không biết là nóng hay lạnh? Hình như có tiếng nói rất nhỏ của ông Giám đốc Sở: “Cầu Bồ Tát…”. Người lái xe có lẽ đã nói câu này rất nhiều trước khi khởi hành nên mím môi và cầm chắc tay lái! Còn những va quẹt lẻ tẻ và “suýt” đụng vào những xe khác đang lưu thông thì nhiều vô kể, nó xảy ra thường xuyên giống như ai cũng không ít lần vấp ngã hoặc ăn cơm mà nghẹn nấc hoặc cắn phải lưỡi! Nhưng chuyện gặp cướp đường mà tôi sẽ kể dưới đây thì chỉ xảy ra một lần (mới chỉ tính những khi có tôi đi trong xe) và ông Giám đốc đã tuyên bố ngay sau đó là “Không hề xảy ra chuyện bị cướp đường” nên hầu như tôi cũng như đã quên luôn. Nhưng, như có một nhà văn bậc thầy về truyện ngắn đã nói đại ý, trí nhớ như cái Rây Thần, nó cho qua đi tất cả những chuyện vụn vặt và chỉ giữ lại những hạt vàng, đó là những “Hạt Vàng ký ức”. Những năm qua tuổi 60, những ký ức của tôi thường hiện về rất nhiều, trong đó có chuyện gặp cướp đường. Tôi nghĩ hẳn đây là một “Hạt Vàng ký ức” nên viết thành cái truyện ngắn này…
2.
Lần ấy, có một cuộc họp về văn hóa, văn nghệ các tỉnh khu vực phía nam, do tỉnh Cửu Long đăng cai. Đoàn chúng tôi gồm có ông Giám đốc Sở VH-TT, một chuyên viên bên Ban Tuyên huấn của tỉnh và tôi (lúc đó đang phụ trách công tác xuất bản và Tạp chí Văn nghệ của Sở, chưa có Hội Văn nghệ như bây giờ). Đi họp thì có ba người và đi chơi thì có một người, tức bà vợ ông Giám đốc, muốn xuống Sài Gòn “đổi gió”. Tổng cộng trên xe có 5 người, ngồi vừa khít hai hàng ghế: bà giám đốc ngồi phía trước, cạnh lái xe, ông Giám đốc, người của Ban Tuyên huấn và tôi ngồi ở hàng ghế sau (đây là “đội hình” phổ biến mỗi khi đi họp do Trung ương triệu tập). Hôm ấy, không hiểu sao, tôi lại “ngứa mồm” tranh luận với ông Ban Tuyên huấn hết chuyện nọ qua chuyện kia, và không biết bao giờ mới ngừng khi trước mặt bỗng xuất hiện một cây tre dài chắn ngang đường và ở hai đầu cây chắn là bốn người mặc đồng phục kiểu kiểm lâm, hai người cầm hai đầu cây tre còn hai người đeo tiểu liên AK trước bụng, đứng bên cạnh.
Khi xe chỉ còn cách cây chắn khoảng 30 mét, người lái xe dừng xe và nhìn ông Giám đốc như muổn hỏi phải xử trí thế nào? Ông Giám đốc nói: “Cậu xuống xem sao?”. Tôi vụt nghĩ: cho dù là đội kiểm soát cơ động cũng phải dựng cây chắn đàng hoàng chứ không thể cầm tay như thế, hơn nữa, nhìn thoáng qua tướng tá bọn này giống như cướp đường chứ không phải kiểm lâm? Tôi nói nhanh với Giám đốc: “Bọn này giống như cướp đường, ta nên ào qua là xong!”. Giám đốc nói: “Không thể manh động, chúng nó bắn theo hỏng xe thì sao?”. Thấy người lái xe chần chừ, giám đốc lại giục xuống xe xem sao! Người lái xe cầm theo mấy thứ giấy tờ như lệ thường mỗi khi qua trạm kiểm soát rồi xuống xe, đi tới chỗ chắn đường. Khi người lái xe đi được chục mét thì bọn kia bỏ cây chắn xuống mép đường rồi cùng tiến lại phía người lái xe, hai thằng có súng thì một tay cầm báng súng, một tay nâng nòng súng về phía trước như sẵn sàng nhả đạn!
Khi bốn thằng tới sát người lái xe, tôi đã nhìn thấy rất rõ: ba thằng da mặt nửa đen nửa nâu như người dân tộc, tuy mặc đồng phục kiểm lâm nhưng bộ dạng lớ ngớ, lóng ngóng chứ không oai phong đạo mạo như các chiến sĩ kiểm lâm. Ngay cả một thằng đeo súng cũng không có dáng dấp lính chiến gì cả và điều này mới quan trọng: khẩu súng thi thoảng lại đung đưa trước bụng mỗi khi nó thò tay gãi lưng, gãi gáy nhưng không thấy lấp lánh ánh thép mà đen sì như súng gỗ của mấy đoàn kịch! Tôi thầm nghĩ, đeo súng gỗ đi ăn cướp thì quả là coi thường thiên hạ quá! Thằng còn lại thì từ khuôn mặt cho đến bộ dạng đều giống như những tay anh chị trong đám giang hồ hảo hán, lại còn đeo mắt kiếng đen nhìn càng ngang tàng, dữ tợn! Tôi lại nghĩ; bọn này đúng là cướp đường giả dạng kiểm lâm! Vừa nghĩ tới đó thì vang lên tiếng thằng đeo mắt kiếng đen: “Chúng tao là băng cướp “Tia chớp” khét tiếng giết người trong chớp mắt! Trái lời hoặc chậm trễ là bắn bỏ!...Bây giờ lái xe vào trong khu đồi kia, nhanh lên!”. Nòng khẩu súng AK lấp lánh ánh thép chĩa thẳng vào ngực người lái xe khiến anh ta lẳng lặng làm theo…
Tất cả những người trong xe không ai nói gì và như đang hướng cả cái nhìn vào bốn tên cướp. Còn tôi, vụt nhớ đến câu “Tùy cơ ứng biến” và câu “Nhất biến ứng vạn biến”! Và câu này nữa: những cái gì phải đến ắt sẽ đến!
Đoạn đường chúng tôi bị chặn không biết thuộc địa phận tỉnh nào mà hoang vắng đến rợn người, hai bên đường là đồi hoang miên man, chỉ có những lùm cây dại lúp súp cao không quá đầu người. Khi người lái xe đưa cái TOYOTA tới một bãi đất rộng có trải sẵn một tám vải bạt lớn thì thằng đeo mắt kiếng đen (Từ đây gọi là Tướng cướp vì nó đã lộ nguyên hình là Tướng cướp) quát lớn: “Đem tất cả hành lý, đồ đạc trên xe xuống để vào tấm vải bạt trên bãi đất! Tất cả tiền bạc, đồng hồ, đồ trang sức cũng phải cống nạp, không chừa một đồng, một món!”. Tất cả im lặng, lầm lũi làm theo hiệu lệnh của thằng Tướng cướp như là cùng một ý nghĩ: đến nước này thì đành bỏ của chạy lấy người chứ biết làm sao?
Không hiểu sao, hình ảnh hình ảnh người khuyết tật tay chân co quắp, lèo khoèo mà vẫn phải đi bán vé số ở bến xe Liên tỉnh mà tôi mới gặp tuần trước bỗng vụt hiện lên trước mắt tôi! Như là có sự điều khiển của ma quỷ (hay thần linh?), tôi chui ra khỏi xe với bộ dạng như thằng khoèo bán vé số ở bến xe Liên tỉnh, di loanh quanh bên cái TOYOTA và cái mồm thì làm bộ méo xẹo, phát ra những âm thanh ú ớ! Thằng Tướng cướp thấy tôi như vậy thì hỏi người lái xe: “Nó làm sao thế?”. Người lái xe nhìn tôi rất nhanh và nói: “À, nó bị tật nguyền từ nhỏ. Nghe nói ở Thành phố có người chữa khỏi, thử đem xuống xem sao!”. Thằng Tướng cướp tới sát bên tôi, nhìn tôi bằng ánh mắt thương cảm rồi nói: “Tao cũng có người anh ruột bị tật nguyền như thế này! Tội nghiệp!”. Có lẽ vì vậy mà nó rất tin là tôi bị tật nguyền và lấy trong túi ra một quả xoài đưa cho tôi! Trong khi nó vỗ vai tôi biểu lộ tình cảm thân mến thì tôi lại nghĩ làm sao để đoạt được khẩu súng AK trên tay nó?
Khi tất cả hành lý đã xếp thành một đống trên tấm vải bạt, bà vợ ông giám đốc nói: “Chúng tôi đã nộp đủ tiền mãi lộ rồi, thả người đi chứ?”. Thằng Tướng cướp cười hề hề rồi nói: “Chưa đủ! Bây giờ mới là lúc tới đoạn hấp dẫn nhất của cuốn phim “Cướp đường” này!...Thoát y vũ! Xin mỹ nhân trình diễn một màn thoát y vũ để bọn cướp đường vô học chúng tôi được mở rộng tầm mắt!”. Thằng Tướng cướp nói xong thì nhìn chòng chọc vào bà vợ ông giám đốc khiến người đẹp sợ run rồi bất ngờ múa màn thoát y như trong phim Mỹ khiến cả bốn thằng cướp đứng ngây ra như tượng!
Xong màn thoát y vũ, thằng Tướng cướp chỉ vào người của Ban Tuyên huấn, nói: “Thằng kia, vào nhảy điệu Lambada với người đẹp đi!”. Vừa nghe nói vậy, ông người của Ban Tuyên huấn tức thì nhào tới ôm chầm lấy bà vợ ông Giám đốc và tức thì bị bà vợ ông Giám đốc đẩy mạnh ngã lăn quay! Thằng tướng cướp thấy vậy thì la to: “Không phải như thế! Để tao nhảy cho mà xem!” Dứt lời, thằng tướng cướp nhào tới người đẹp! Được hai bước, khẩu AK lủng lẳng trước bụng làm cho thằng Tướng cướp thấy vướng víu và rất nhanh, nó lấy khẩu AK ra và treo vào cổ tôi, làm như tôi là cái giá súng của nó! Khi khẩu AK chạm bịch bịch vào bụng tôi, dường như hơi thép lạnh của khẩu súng đã làm tôi bừng tỉnh: một tay cầm lấy báng súng, một tay kéo quy-lát nghe roạt roạt và thét lớn: “Tất cả đứng im! Nhúc nhích là bắn bỏ!”. Thằng Tướng cướp thốt giật mình, đứng khựng rồi quay ngoắt lại, trố mắt nhìn tôi kinh ngạc! Song, chỉ chưa đầy một phút bàng hoàng, thằng Tướng cướp gầm lên rồi nhào tới tôi như hổ vồ mồi! Nói thì chậm làm thì nhanh, khi thấy thằng Tướng cướp lao tới, tức thì tôi kéo cò súng, hai tiếng nổ ù tai và hai viên đạn bay ra khỏi nòng súng, cắm phập vào đùi thằng Tướng cướp khiến nó đổ vật xuống đất!
*
Những tưởng là tôi sẽ không bao giờ gặp lại thằng Tướng cướp hôm đó, nhưng bởi vì “quả đất tròn” nên năm năm sau, tôi đã gặp lại người xưa song không phải như cảnh cũ. Lúc này, tôi không còn làm việc ở Sở VHTT của cái tỉnh cao nguyên đất đỏ đó nữa mà về Sài Gòn sống kiểu “Giang hồ vặt”. Khi tôi đang làm việc cho một tờ báo ở Sài Gòn thì bất ngờ gặp lại một người bạn học cũ, mới nhận chức TBT một tờ báo ngành. Tuy là báo ngành nhưng có rất nhiều chủng loại: tuần ba số, số cuối tuần và cả nguyệt san, tức báo tháng. Còn nội dung thì không chỉ là chuyện “nội bộ” trong ngành mà có đủ mọi chuyện cuộc đời, cổ kim đông tây, trên trời dưới biển không thiếu chuyện gì. Người bạn đưa cho tôi mấy số báo mới ra nhờ góp ý và mời cộng tác. Tôi mới lật các trang báo xem lướt qua thì thấy có một cái truyện nhiều kỳ đáng chú ý, viết về chuyện hoàn lương của những người đã từng dính vòng lao lý, trong đó có một kỳ viết về một tướng cướp chuyên chặn cướp những người đi qua những khu đường vắng. Câu chuyện chặn xe của tên tướng cướp này được kể lại gần giống như chuyện đã xảy ra với chuyến xe của chúng tôi đã nói trên, chỉ khác ở đoạn kết là: bà vợ ông Giám đốc đã dùng mỹ nhân kế, cùng nhảy điệu Lambada với tên tướng cướp rồi tới khi tên tướng cướp đê mê trong vòng tay nóng bỏng của mỹ nhân mới ra tay hạ thủ, cùng với sự trợ giúp của người lái xe!
Tôi nghĩ ngay rằng tác giả của cái chuyện dài kỳ về đề tài “Hoàn lương” này chính là tên tướng cướp ngày xưa, liền gọi điện thoại hỏi người bạn về tác giả của loạt truyện dài kỳ? Người bạn nói tác giả đúng là một tướng cướp hoàn lương và nói thêm: Không những anh ta đã hoàn lương mà hoàn lương rất tích cực, bây giờ anh ta không chỉ là cây bút viết truyện ký, phóng sự rất hấp dẫn về đề tài xã hội mà viết về các vấn đề chuyên sâu của ngành cũng không thua kém các chuyên gia lâu năm trong ngành. Sắp tới, báo của tớ sẽ thành lập cơ quan thường trực ở Phía nam, sẽ giao cho anh ta phụ trách!
*
Chỉ ba tháng sau, tôi nhận được điện thoại của người bạn mời đến dự lễ khai trương của cơ quan thường trực phía Nam của tờ báo của ông ta, mà Lê Nguyễn Tân Báo, người Trưởng đại diện chính là tướng cướp của băng cướp “Tia chớp” ngày xưa. Khi tiệc rượu đã gần tàn, tôi hỏi Trưởng đại diện Tân Báo: “Ông có thể kể cho tôi nghe về lai lịch cái chân què của ông được không?”. Tân Báo: “Từ khi tôi lành vết thương đến nay, chưa có ai hỏi tôi câu hỏi như thế. Bây giờ có xu hướng “quên đi quá khứ để hướng tới tương lai” nên tôi cũng muốn quên đi vì sao tôi đã bị hai viên đạn găm vào chân. Nhưng mỗi khi vết thương cũ đau nhức, tôi lại nhớ như in cái hình ảnh người bắn tôi lúc ấy: đó chỉ là một người tật nguyền và có vẻ như tâm thần nữa. Chính nhờ hai phát đạn này mà tôi đã làm lại cuộc đời, đã có cuộc sống mới… Cuộc đời thật nực cười: cái ông sếp của tôi, người được xã hội trọng vọng lại đẩy tôi vào con đường giết người cướp của, vì ông đã đã cưỡng bức người vợ trẻ xinh đẹp của tôi. Còn cái người tật nguyên, tâm thần kia lại giúp tôi trở lại cuộc sống lương thiện!”.
Nghe Tân Báo nói vậy, tôi thấy chẳng cần thiết phải nói cho anh ta biết sự thật về cái người tật nguyền lại tâm thần đó. Mới đây, tôi nghe người bạn nói, hai vợ chồng anh ta cùng vài người bạn nữa, hùn vốn lập ra một nhà an dưỡng cho những người tật nguyền, với ngụ ý muốn tìm gặp lại người tật nguyền đã bắn hai phát đạn AK trúng vào chân anh ta ngày ấy. Như thế thì lại càng không nên nói rõ sự thật ra làm gì, bởi anh ta, Tân Báo, tức Tướng cướp băng cướp “Tia chớp” đã tin chắc chắn rằng người khiến anh ta hoàn lương chính là một người tật nguyền và tâm thần! Nhưng như thế sẽ có người hỏi tôi, tác giả truyện ngắn này, vậy tại sao lại có cái truyện ngắn này? Xin nói ngay, mới hôm qua, tôi nhận được Mail của người bạn báo tin: Tân Báo đã bị một băng cướp nhí tấn công và bắn chết tại chỗ khi đến nhìn ngắm lại nơi đã xảy ra vụ cướp do anh ta thực hiện ngày xưa!...
Sài Gòn, 6-5-2011
Đỗ Ngọc Thạch
nguồn: phongdiep.net
Nhãn: truyện ngắn
Nhãn: truyện ngắn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét