Thứ Ba, 18 tháng 12, 2012

Nguyễn Khuyến - mơ màng cuộc thế cũng cằm bằng



Tiểu luận phê bình - Biên khảo 2 của Đỗ Ngọc Thạch (TP.HCM)

 Đỗ Ngọc Thạch

Phê bình & Tiểu Luận của Đỗ Ngọc Thạch (24, VNCN)

Nguyễn Khuyến - Mơ màng thế cuộc cũng cầm bằng

 nguyen-khuyenNguyễn Khuyến (*) là nhà thơ quen thuộc của đông đảo công chúng văn học trước hết bởi tài học với ba lần đỗ đại khoa, chính vì thế mà người ta gọi ông bằng tên làng Yên Đổ cùng với chiến tích thi cử: Tam Nguyên Yên Đổ. Sự vinh danh đó rất xứng đảng bởi thơ Nguyễn Khuyến có một Tình quê vô bờ bến và có một chùm ba bài thơ viết về quê hương vào loại kiệt tác mà mỗi khi nói đến ông người ta đều thấy lời thơ như đang ngân lên giữa trời thu xanh ngắt mấy tầng cao:


Nguyễn Du và trăng

nguyenduTrong Thơ chữ Hán của Nguyễn Du có bài Ký Huyền Hư tử (Gửi Huyền Hư tử) rất đáng chú ý. Lâu nay người ta vẫn cho rằng Huyền Hư Tử là tên hiệu một người bạn của Nguyễn Du, không rõ tên thật là gì.


Thi trung hữu nguyệt

Thi trung hữu nguyệtLý  Bạch (*) là nhà thơ lớn thời Đường, là một ngôi sao sáng chói trên thi đàn Trung Quốc từ thời nhà Đường đến nay.  Người ta thường gọi ông là Thi Tiên (Trích Tiên Lý Bạch). 

 

Đọc lại Bích Khê

bich-kheSáng tác thời kỳ đầu (từ 1931 đến 1936) của Bích Khê (1) là thơ Đường luật và thể thơ hát nói - phần lời cho ca trù, đăng trên các báo Tiếng Dân, Tiểu thuyết thứ Năm, Người mới...

 
 

Nguyễn Khuyến - Mơ màng thế cuộc cũng cầm bằng

 nguyen-khuyenNguyễn Khuyến (*) là nhà thơ quen thuộc của đông đảo công chúng văn học trước hết bởi tài học với ba lần đỗ đại khoa, chính vì thế mà người ta gọi ông bằng tên làng Yên Đổ cùng với chiến tích thi cử: Tam Nguyên Yên Đổ. Sự vinh danh đó rất xứng đảng bởi thơ Nguyễn Khuyến có một Tình quê vô bờ bến và có một chùm ba bài thơ viết về quê hương vào loại kiệt tác mà mỗi khi nói đến ông người ta đều thấy lời thơ như đang ngân lên giữa trời thu xanh ngắt mấy tầng cao:
Thu  Ẩm
Năm gian nhà cỏ thấp le te,
Ngõ tối đêm sâu đóm lập lòe,
Lưng giậu phất phơ màu khói nhạt,
Làn ao lóng lánh bóng trăng loe.
Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt?
Mắt lão không vầy cũng đỏ hoe.
Rượu tiếng rằng hay, hay chả mấy,
Độ năm ba chén đã say nhè.

Thu  Điếu       
Ao thu lạnh lẽo nước trong veo,
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo.
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí,
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo.
Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt,
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo.
Tựa gối buông cần  lâu chẳng được,
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.
Thu Vịnh
Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao,
Cầu trúc lơ phơ gió hắt hiu.
Nước biếc trông như tầng khói phủ,
Song thưa để mặc bóng trăng vào.
Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái,
Một tiếng trên không ngỗng nước nào?
Nhân hứng cũng vừa toan cất bút.
Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào (**).

Có thể nói Nguyễn Khuyến là nhà thơ kết tụ được nhiều nhất tâm hồn Việt và được đông đảo công chúng văn học thuộc lòng nhiều nhất, có lẽ chỉ sau Nguyễn Du với Truyện Kiều. Nói đến Nguyễn Khuyến, người yêu thơ ông còn có thể đọc ra ngay những bài thơ trào phúng rất thâm thúy của ông như Vịnh Tiến sĩ giấy hoặc Văn tế Ngạc Nhi: (Sau khi Francis Garnier - “dịch ra tiếng ta” là Ngạc Nhi -, bị tử trận ở trận Cầu Giấy năm 1873, Tổng đốc Hà Nội là Trần Đình Túc vâng lệnh triều đình tìm cách hòa hoãn với quân Pháp nên phải tổ chức lễ truy điệu. Nguyễn Khuyến là bậc đại khoa được cử viết bài văn tế này):

Than ôi! Một phút sa cơ, ra người thiên cổ
Nhớ ông xưa: Cái mắt ông xanh, cái da ông đỏ
Cái tóc ông quăn, cái mũi ông lõ
Đít ông cưỡi lừa, miệng ông huýt chó
Ông đeo súng lục-liên, ông đi giày có mỏ
Ông ở bên Tây, ông sang bảo-hộ
Ông dẹp Cờ Đen, để yên con đỏ
Nào ngờ: Nó bắt được ông, nó chặt mất sỏ
Cái đầu ông kia, cái mình ông đó
Khốn-khổ thân ông, đù mẹ cha nó
Tôi: Vâng lệnh quan trên, cúng ông một cỗ
Này chuối một buồng, này rượu một hũ
Này xôi một mâm, này trứng một rổ
Ông có linh-thiêng, mời ông xơi hộ
Ăn uống no say, nằm cho yên chỗ
Ới ông Ngạc Nhi ơi! Nói càng thêm khổ!

Nói đến chuyện “chống Tây” bằng thơ, hầu như ai cũng biết đến bài Hội Tây:
(Hội Tây ở đây chỉ ngày kỷ niệm Cách mạng Pháp thành công 14-7).

Kìa hội thăng bình tiếng pháo reo:
Bao nhiêu cờ kéo với đèn treo.
Bà quan tênh nghếch xem bơi trải,
Thằng bé lom khom nghé hát chèo.
Cậy sức cây đu nhiều chị nhún,
Tham tiền cột mỡ lắm anh leo.
Khen ai khéo vẽ trò vui thế,
Vui thế bao nhiêu nhục bấy nhiêu!
*
Nguyễn Khuyến là người có phẩm chất trong sạch, mặc dù ra làm quan từ nhỏ đến lớn, nhưng nổi tiếng là thanh liêm, chính trực. Nguyễn Khuyến làm quan tất cả hơn 10 năm. Nguyễn Khuyến bất lực vì không làm được gì để thay đổi thời cuộc nên ông xin cáo quan về ở ẩn. Phần lớn cuộc đời của Nguyễn Khuyến là ở thôn quê. Nhiều giai thoại kể về đời sống đời sống và sự gắn bó của Nguyễn Khuyến đối với nhân dân. Sáng tác của Nguyễn Khuyến hầu hết được làm sau lúc từ quan, hiện còn khoảng hơn 400 bài, gồm thơ, văn, câu đối bằng chữ Hán và chữ Nôm. Có bài ông viết bằng chữ Hán rồi tự dịch ra chữ Nôm, cả hai đều rất điêu luyện. Ông là người có tâm hồn rộng mở, giàu cảm xúc trước cuộc sống và gắn bó với thiên nhiên. Thiên nhiên, quê hương luôn gợi cảm hứng thi ca đối với ông. Ông luôn buồn vì cảnh quê nghèo:
Chốn quê

Năm nay cày cấy vẫn chân thua,
Chiêm mất đằng chiêm, mùa mất mùa.
Phần thuế quan Tây, phần trả nợ,
Nửa công đứa ở, nửa thuê bò.
Sớm chưa dưa muối cho qua bữa,
Chợ búa trầu chè chẳng dám mua.
Tằn tiện thế mà không khá nhỉ?
Nhờ trời rồi cũng mấy gian kho.
(Có bản chép: Bao giờ cho hết khỏi đường lo)

Và nhớ hoài cái chợ quê với tất cả vui buồn của nó:
Chợ đồng
(Xưa kia làng Vị Hạ có chợ Và, hàng năm cứ đến ba phiên chợ cuối năm vào ngày 24, 26 và 30 tháng Chạp là phiên chợ Tết  đông người nên phải chuyển ra họp ở cánh đồng mạ phía tây làng, nên gọi là chợ Đồng, nay không còn chợ này nữa).

Tháng chạp hai mươi bốn chợ Đồng,
Năm nay chợ họp có đông không?
Dở trời, mưa bụi còn hơi rét.
Nếm rượu, tường đền[1] được mấy ông?
Hàng quán người về nghe xáo xác,
Nợ nần năm hết hỏi lung tung.
Dăm ba ngày nữa tin xuân tới.
Pháo trúc[2] nhà ai một tiếng đùng.
chú thích:
1. Chợ Đồng họp ngay ở bên cạnh một ngôi đền. Xung quanh đền lại đắp tường đất dày bao bọc, gọi là tường đền.    
2. Trúc đốt trong lửa, có tiếng nổ.
Phần thơ viết về quê hương, đất nước (***) của Nguyễn Khuyến có một vị trí đặc biệt và gần như là cảm hứng chủ đạo trong sáng tạo thi ca của ông, là sự ám ảnh thường trực trong mỹ cảm của nhà thơ:
Cuốc kêu cảm hứng

Khắc khoải đưa sầu giọng lửng lơ,
Ấy hồn Thục đế thác bao giờ?
Năm canh máu chảy đêm hè vắng,
Sáu khắc hồn tan bóng nguyệt mờ.
Có phải tiếc xuân mà đứng gọi,
Hay là nhớ nước vẫn nằm mơ?
Thâu đêm ròng rã kêu ai đó.
Giục khách giang hồ dạ ngẩn ngơ.
Chú thích:
Thục đế: vua nước Thục. Truyền thuyết xưa nói vua nước Thục là Đỗ Vũ, sau khi nhường ngôi cho người khác, lên núi ở ẩn, chết hóa thành chim đỗ quyên, tiếng kêu ai oán nhớ nước cũ.
Đêm đông cảm hoài

Nỗi nọ, đường kia xiết nói năng!
Chẳng nằm, chẳng nhắp, biết mần răng?
Đầu cành, mấy tiếng chim kêu tuyết.
Trước điếm, năm canh chó sủa trăng.
Bảng lảng lòng quê khôn chợp được.
Mơ màng cuộc thế cũng cầm bằng.
Canh gà eo óc đêm thanh thả,
Tâm sự này ai có biết chăng?

*
Nguyễn Khuyến và thể Hát nói
Xem tiếp bài Nguyễn Khuyến tại đây:

Nguyễn Khuyến - Mơ màng thế cuộc cũng cầm bằng

 nguồn: vânnghechunht.net
dongocthach18 viết ngày 18/12/2012

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét