Thứ Hai, 11 tháng 3, 2013

Truyện ngắn Đỗ Ngọc Thạch - Trích:


“Vòng một của tôi trị giá 5 triệu đô la”Truyện ngắn  

Truyện ngắn Đỗ Ngọc Thạch - Trích: Bà Ngoại; Bà Nội


Bà Ngoại
Đỗ Ngọc Thạch
Bà Ngoại tôi sinh được bốn người con: mẹ tôi, cậu Thuần, dì Phượng và cậu Phúc.Sau giải phóng Thủ đô, gia đình mẹ tôi và cậu Thuần đều về Hà Nội. Dĩ nhiên là Bà Ngoại ở nhà con trai là cậu Thuần, ở phố Ngô Thì Nhậm. Còn Dì Phượng , cậu Phúc sau đều trở thành nhà giáo, dì Phượng dạy học ở Thị xã Bắc Ninh, cậu Phúc dạy học ở Thị xã Hà Đông. Nếu nhìn về đường con cái thì có thể nói, bà Ngoại tôi đã mãn nguyện, bởi trong thời buổi chiến tranh loạn lạc như thế mà con cái đều trưởng thành và bình an thì thật là quá nhiều may mắn!...

Lúc đó, tôi đã bảy, tám tuổi, đã có thể một mình đi khắp 36 phố phường Hà Nội nên hầu như ngày nào tôi cũng tới thăm bà Ngoại. Lý do nữa để tôi luôn tới thăm bà ngoại là lúc đó, cậu Thuần tôi đã là Dược Sĩ, có xưởng bào chế thuốc mang tên Lê Văn Thuần, hoạt động rất náo nhiệt. Nếu so với những máy móc hiện đại bây giờ thì xưởng bào chế thuốc của cậu Thuần là đồ bỏ, nhưng vào thời điểm lúc đó, nó vào loại có tiếng ở Hà Nội. Xin nhắc lại là sau kháng chiến chống Pháp, dân ta có tới khoảng 80% là mù chữ thì việc cậu tôi đã là Dược sĩ và có xưởng bào chế thuốc riêng thì ở Hà Nội chỉ có vài người.

Những người làm việc ở trong xưởng bào chế đó có rất nhiều các ông cậu của tôi, do ông Ngoại tôi có tới ba bà vợ, bà hai và bà ba thì nhiều con hơn bà cả, tức Bà Ngoại sinh ra mẹ tôi. Ở Xưởng bào chế chơi với các cậu một lúc thì về nhà cậu Thuần thăm bà Ngoại. Không hiểu sao nhu cầu gặp bà Ngoại của tôi nó lại luôn thường trực trong tôi và mặc dù, mỗi lần đến, bà Ngoại chỉ hỏi tôi dăm ba câu rồi lại phải tất bật với mấy đứa cháu con cậu Thuần (Cậu Thuần về Hà Nội mới lấy vợ, là người Hà Nội và sau đó có liên tục bốn người con). Vì vào thời điểm này, mẹ tôi cũng mới sinh thêm người con trai nên nhìn thấy bà Ngoại tất bật với mấy đứa cháu nội, tôi lại nhớ nhiệm vụ của mình là “Vú em” cho cậu em trai, nên chạy vội về nhà, không thì no đòn (Khi bố tôi đi làm về, thấy quần áo tã lót của em tôi chưa dọn sạch là “xuất chưởng” tới tấp, không cần hỏi tại sao?).

Ông Ngoại tôi có tới ba vợ, có nghĩa là tôi có tới ba bà Ngoại. Ở quê tôi, các bà vợ sau của ông Ngoại (và cả ông Nội) đều gọi là bà Trẻ. Các người con của hai bà Trẻ đều từ lứa tuổi tôi và trở lên trên khoảng hơn chục tuổi nữa. Hai bà Trẻ đều có nhiều con hơn bà Ngoại vì thế có thể nói bên họ Ngoại của tôi rất đông, tôi thường bị nhầm lẫn hoài vì lâu lâu mới gặp nhau một đôi lần vào những dịp giỗ chạp hoặc Tết nhất. Song, tôi có một nhận xét chung là tất cả đều rất yêu kính bà Ngoại và những người con của hai bà Trẻ đều hao hao giống bà Ngoại. Khi ông Ngoại tôi “đi về với Tổ Tiên”, cả cái đại gia đình ấy như ong vỡ tổ, mọi người tứ tán, phiêu dạt bốn phương trời …Nhưng chỉ một thời gian sau, ba bà cùng với tiểu gia đình của mình đều dần ổn định theo cách riêng của mình. Những người con của Bà Trẻ Thùng (tức bà Hai) cũng về Hà Nội gần hết, chỉ có Bà Trẻ Hào và người con trai cả là “bám trụ” ở quê, làm nông dân trăm phần trăm!

*

Bà Ngoại tôi có tên rất đặc biệt: Sái Thị Tích. Lúc đó, tôi đã nghiện Tam quốc diễn nghĩa của ông La Quán Trung (*) nên cứ nghĩ chắc họ Sái của bà có quan hệ với họ Sái trong Tam Quốc diễn nghĩa, một họ lớn ở Kinh Châu! Một lần, tôi hỏi bà Ngoại: “Họ Sái của bà có liên quan gì đến họ Sái ở Kinh Châu không?”. Bà Ngoại ngạc nhiên nhìn tôi rồi hỏi: “Tại sao cháu lại hỏi vậy?”. Tôi nói: “Tại cháu thấy ở Việt Nam chủ yếu là các họ Lê, Lý, Trần, Nguyễn…Cho nên những người họ Tào, họ Gia Cát, họ Uông, hoặc họ Sái như bà thì thế nào cũng là từ Trung Quốc di dân qua Việt Nam!”. Bà Ngoại cười rồi nói: “Cháu nghĩ đúng đấy! Họ Sái (**) của bà chính là xuất xứ từ họ Sái ở Kinh Châu (***), ở Việt Nam hiện nay, họ Sái có rất ít”. Tôi liền hỏi: “Vậy bà có biết nói tiếng Trung Hoa không?” – “Sao lại không? Cháu có thích nghe hát bằng tiếng Trung không? Lúc chưa lấy chồng bà rất hay hát”. Nói rồi bà Ngoại mắt ngước lên trời như nhìn về một nơi rất xa, quả là bà đang nghĩ về miền Thảo nguyên bát ngát mênh mông tận chân trời nơi quê hương tổ tiên bà và bà hát: “Kìa bầu trời xanh lớp lớp mây trôi về / In trên tầng mây trắng vó ngựa phi…”. Bà chỉ hát câu đầu bằng lời Việt và sau đó thì hát cả bài bằng tiếng Trung, một thứ tiếng Trung líu lo như chim họa mi, sơn ca cùng hòa điệu! Hát xong, bà nói nhỏ: “Đó là bài hát “Mặt trời không bao giờ lặn trên thảo nguyên”. Những người họ Sái xa xưa chủ yếu sống trên lưng ngựa, màu xanh thảo nguyên là màu họ yêu thích nhất!”. Nghe bà Ngoại nói vậy, tôi mới sực nhớ lại hồi còn ở quê, nhà bà cũng nuôi một đàn ngựa nhỏ và ông cậu Thuần đã được bà Ngoại cho tập phi ngựa từ nhỏ và cậu đã có thể trở thành một kỵ sĩ nếu không đi học Dược để thành Dược sĩ!

Chính vì thường được nghe bà hát bằng  tiếng Trung nên tôi cho rằng tiếng Trung có âm điệu rất hay, chỉ nói mà đã như hát và khi hát thì như là chim ca, như mây bay, như gió thổi! khi lên lớp Năm, tôi đã chọn học lớp có Trung Văn (lúc đó, từ lớp Năm, tức cấp Hai, học sinh đã được học ngoại ngữ gồm hai thứ tiếng: Nga văn và Trung văn). Đến khi học xong phần phát âm, tức là nhìn vào những từ mới, chúng tôi có thể tự đọc được nhờ phần phiên âm bằng tiếng La-tinh ở bên cạnh, thầy giáo Trung văn dạy chúng tôi hát bài “Mặt trời không bao giờ lặn trên thảo nguyên” thì tôi càng thấy rõ hơn bà Ngoại của mình chính là một ca sĩ của Thảo nguyên!

*
Nhiều lúc tôi cứ nghĩ lẩn thẩn: tại sao không thấy bà Ngoại tới nhà tôi chơi, không thấy mẹ tôi và bà ngoại (tức hai mẹ con) ngồi nói chuyện với nhau, cũng không thấy bố tôi và bà ngoại (tức con rể và mẹ vợ) ngồi nói chuyện với nhau? Rồi bà Nội và bà Ngoại, hai người là thông gia mà tôi chưa thấy cùng ngồi nói chuyện với nhau bao giờ? Rồi tôi lại tự trả lời: có lẽ tôi đã không có mặt trong những cuộc gặp gỡ đó?

Có một chuyện đau lòng mà cả hai bên nội, ngoại nhà tôi đều rất ít khi nói đến, đó là cái chết của ông Ngoại tôi trong Cải cách ruộng đất. Ông Ngoại bị qui là địa chủ và ông đã chết tại nơi giam giữ. Cái chết của ông Ngoại dường như là một bí ẩn mà không ai có thể “giải mã” được. Tôi đã hỏi mẹ tôi tới ba lần và hỏi bà Ngoại hai lần nhưng cả hai người đều không nói gì và điều thật kỳ lạ là cả mẹ tôi và bà Ngoại đều “ngâm Kiều” khi thấy tôi thất vọng bỏ đi:

Trăm năm trong cõi người ta,
Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau
Trải qua một cuộc bể dâu,
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng.
Lạ gì bỉ sắc tư phong
Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen.

Chính vì thế mà cho đến tận bây giờ, tôi vẫn thuộc những câu mở đầu Truyện Kiều ấy. Nhưng về sau này, mỗi khi nhớ đến bà Ngoại, tôi lại “ngâm Kiều” như Người và chỉ dừng lại ở mấy câu sau:

Phong lưu rất mực hồng quần
Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê
Êm đềm trướng rủ màn che,
Tường đông ong bướm đi về mặc ai.
*
Bà Ngoại “đi gặp ông Ngoại” vào một chiều Mùa Đông u ám… Trước khi “đi”, bà Ngoại không kịp nói gì với con cháu vì khi bà mở cửa ra ngoài ban-công để phơi đồ thì Tử Thần đã cưỡi một cơn gió mạnh ào tới và đem bà đi vĩnh viễn! Chắc là ông Ngoại tôi có chuyện gì đó rất hệ trọng cần gặp bà Ngoại gấp?

Không hiểu sao, từ khi bà Ngoại “ra đi”, tôi mới phát hiện ra mẹ tôi, và cả cậu Thuần nữa, rất giống bà Ngoại. Giống đến nỗi mỗi khi nhìn vào mẹ tôi, tôi lại thấy bà Ngoại thấp thoáng khi ẩn khi hiện trên gương mặt mẹ: một khuôn mặt phúc hậu và đôi mắt hiền từ nhưng nhìn lâu thì thấy thăm thẳm u buồn!./.

Sài Gòn, tháng 7-2010

(*) La Quán Trung: Tác giả Tam quốc diễn nghĩa, bản dịch của Phan Kế Bính qua hiệu đính của cụ Bùi Kỷ được phát hành năm 1959 (NXB Phổ thông, Hà Nội) là bản dịch tốt nhất, tính văn học thể hiện cao nhất. Bản dịch được NXB Đại học và Giáo dục chuyên nghiệp Hà Nội tái bản năm 1987.

(**) Họ Sái:
Vị vua đầu tiên của nhà Chu, Chu Vũ Vương  phong chức tước, địa vị và đất đai cho những người em trai của mình. Người em trai thứ năm là Cơ Độ được phân cho phần đất ngày nay thuộc huyện Thượng Thái , Trú Mã Điếm, Hà Nam, Trung Quốc và trở thành Thái Thúc Độ. Con trai của ông, Cơ Hồ (Thái Trọng Hồ), thiết lập kinh đô tại Thượng Thái.
Thái Thúc Độ cùng hai người em khác của Chu Vũ Vương là Hoắc Thúc Xử và Quản Thúc Tiên được phong ở những vùng đất xung quanh Vũ Canh, con vua Trụ nhà Thương để làm "tam giám" coi chừng Vũ Canh. Nhưng cả 3 vị tam giám lại nghe theo Vũ Canh, nổi loạn chống lại nhàChu. Cuối cùng họ đều bị Chu Công dẹp yên. Vũ Canh và Quản Thúc Tiên bị giết; Thái Thúc Độ và Hoắc Thúc Xử bị đi đày. Tuy nhiên, nước Thái của ông không bị xoá bỏ và phong cho người khác như nước Vệ của Quản Thúc. Con ông vẫn được tập tước.
Thời kỳ đầu, Thái cùng các nước Lỗ, Tống từng xuất binh tấn công nước Trịnh. Năm 684 TCN, sau khi phát sinh mâu thẫn với nước Sở, vua Sở Văn Vương đã xuất quân bắt sống Thái Ai hầu và biến Thái trở thành một nước chư hầu của mình. Cho tới năm 531 TCN, Sở đã một lần tiêu diệt Thái, nhưng sau đó ba năm thì Thái Bình hầu lại giành được độc lập và di chuyển kinh đô tới Lữ Đình (nay là huyện Tân Thái ) vào năm 528 TCN. Năm 506 TCN, Thái cùng Ngô tấn công Sở, tiến tới tận Dĩnh Đô. Năm 493 TCN, do bị Sở bức bách, Thái Chiêu hầu phải di chuyển kinh đô tới Châu Lai , ngày nay là huyện Phượng Đài , địa cấp thị Hoài Nam, tỉnh An Huy, tại khu vực gọi là Hạ Thái . Năm 447 TCN, vua Sở Huệ Vương xâm chiếm nước Thái và lãnh thổ của nó trở thành một phần phía bắc của Sở.
Những người cai trị nước Thái còn sót lại đã di cư xuống phía nam tới sông Dương Tử vào khu vực hiện nay gọi là Thường Đức (tỉnh Hồ Nam) và định cư tại khu vực gọi là Cao Thái , nhưng nhà nước suy tàn này đã bị tiêu diệt hoàn toàn sau đó khoảng 80 năm.
Với sự phổ biến của họ đối với mọi giai cấp trong thời kỳ nhà Tần, được thành lập năm 221 TCN, nhiều người có tổ tiên trước đây là thần dân nước Thái đã lấy họ Thái hay Sái để nhớ về cố quốc của họ.
Kể từ khi nước Thái biến mất, các hậu duệ của họ đã có 2 cuộc di cư lớn. Trong cuộc nổi dậy của Hoàng Sào năm 875 vào cuối thời kỳ nhà Đường  (618-907), thị tộc họ Thái/Sái đã di cư tới các tỉnh Quảng Đông và Phúc Kiến. Cuộc di cư lớn thứ hai diễn ra khi người trung thành với nhà Minh là Quốc Tính gia (Trịnh Thành Công, 1624-1662) đưa các tướng họ Sái/Thái cùng gia đình họ sang đảo Đài Loan trong thế kỷ 17. Kết quả là hiện nay các họ Thái/Sái là phổ biến hơn cả tại những khu vực này.
(***) Họ Sái ở Kinh Châu: Theo Tam Quốc Diễn Nghĩa thì Lưu Kỳ ban đầu được cha đẻ là Lưu Biểu rất yêu quý vì tướng mạo rất giống cha nhưng sau khi Lưu Biểu lấy lẽ là Sái thị thì lại quay ra thích con đẻ của Sái thị là Lưu TôngLưu Biểu nhất nhất nuông chiều Sái thị nên Kỳ ngày càng bị cha xa lánh. Ở Kinh Châu họ Sái nhân thế cũng nắm hết quyền hành (anh em Sái Mạo) thế nên Lưu Kỳ tính tình vốn đã bạc nhược nên phải dựa vào Lưu BịLưu Bị bèn bày kế cho Lưu Kỳ hỏi Gia Cát Lượngkế sách yên thân. Ban đầu Gia Cát Lượng không chịu nhưng sau Kỳ dùng mẹo lừa Gia Cát lên lầu và rút thang không cho xuống khi ấy Gia Cát mới chịu bày kế cho Kỳ. Gia Cát khuyên Kỳ không nên ở lại Kinh Châu. Kỳ nghe theo, bèn nhân cơ hội Thái thú Giang Hạ là Hoàng Tổ bị Tôn Quyềnmưu sát thì xin Lưu Biểu về coi Giang Hạ. Khi cha là Lưu Biểu hấp hối Kỳ có về Kinh Châu nhưng bị bọn Sái Mạo không cho gặp. Lưu Biểu mất bọnSái Mạo đưa cháu của mình là Lưu Tông lên làm Kinh Châu mục. Khi Tào Tháo đánh đến Tân Dã bọn Lưu Tông Sái Mạo ra hàng Tào TháoLưu Kỳchạy về Giang Nam theo Lưu Bị. Sau khi Tào Tháo thua trận ở Xích Bích,Lưu Bị phong Lưu Kỳ làm Thứ sử Kinh Châu, qua năm thì mất.
Đỗ Ngọc Thạch

 
Bà Nội
Đỗ Ngọc Thạch
“Chúng ta không được lựa chọn quê hương;
Nhưng ngay từ khi sinh ra, quê hương đã lựa chọn chúng ta”(R.G)

1.

Tôi sinh ra ở  “Miền Trung  du xa tắp / Có sông Thao bồi đắp phù sa / Có đồi chè bốn mùa xanh ngắt / Cứ xuân về lại nở thêm hoa” – đó là những câu thơ của Mẹ tôi. Những năm kháng chiến chống Pháp, mẹ là giáo viên tiểu học. Tôi được học để biết đọc, biết viết là do mẹ dạy và những dòng chữ đầu tiên tôi tập viết là những câu ca về quê hương như Sông Thao nước đục người đen / Ai lên Vũ Ẻn thì quên đường về!...Tôi chỉ được sống ở quê 6 năm (từ lúc tôi sinh ra cho đến hết năm 1953), nhưng những gì còn lưu giữ trong ký ức của tôi thì không ít và không bao giờ phai mờ, bởi nó rất đẹp và ấn tượng!...

Nhà ông Nội tôi ở xã Bà Triệu, huyện Thanh Ba. Còn nhà ông Ngoại ở xã Tân Phong, huyện Hạ Hòa. Mẹ tôi sinh ra tôi ở quê Ngoại, nhưng mới được chục ngày, Bà Nội tôi sang bế tôi lên mà nói: “Ôi, thằng cháu đích tôn của Bà phải về với Bà chứ!” Thế rồi Bà Nội bế tôi đi nhanh như gió, làm cho mẹ tôi phải chạy theo, về tới nhà mới kịp! Ở nhà Bà Nội được một tuần thì Bà phải đi Hà Nội và một vài nơi khác để liên hệ mối bán hàng (Lúc đó, Bà Nội sản xuất chè và giấy bản) thế là Bà Ngoại lại cho người sang đón tôi về bên Ngoại! Cứ như thế, từ lúc tôi mới sinh ra cho tới lúc một tuổi, tôi cứ bị Bà Nội và Bà Ngoại  giằng co qua lại không ngừng (Có lẽ vì thế mà kể từ lúc rời quê về Hà Nội học lớp Một, năm 1954, cho tới lúc 60 tuổi, tôi bị Con Tạo quăng quật đủ kiểu đủ cách, khắp nơi khắp chốn: 10 năm học Phổ thông thì chuyển trường, chuyển lớp 12 lần, đang học đại học thì nhập ngũ là bộ đội Ra-đa, lăn lộn khắp đồng bằng Bắc Bộ lại vào chiến trường Khu Bốn ác liệt, khi đi làm thì chuyển tới chuyển lui những Bảy cơ quan!). Việc giằng co giữa Bà Nội và Bà Ngoại chỉ lắng dịu khi mẹ tôi sinh thêm người em trai lúc  tôi mới được hơn một tuổi, như thế gọi là “đẻ năm một”! Dĩ nhiên là tôi ở với Bà Nội, em trai tôi ở với Bà Ngoại, hai người chị gái tôi cũng được “đẻ năm một”, ở với Bà Ngoại từ trước!...

Phải nói rằng Bà Nội tôi có sức khỏe rất tốt, là người nhanh nhẹn, làm việc gì cũng như gió cuốn, lúc mới ở xưởng giấy đã thấy ở xưởng chè, cứ như con thoi! Bà chỉ đạo sản xuất cũng rất nhịp nhàng, linh hoạt, hàng sản xuất ra tới đâu tiêu thụ hết tới đó!... Khi tôi mới Ba tuổi, bà luôn dắt tôi đi theo, thực ra là tôi phải chạy theo mà không bao giờ kịp, lúc thì ở đồi chè, lúc thì qua đồi gió (trồng cây gió để làm giấy bản, còn gọi là giấy gió)! Có lẽ vì suốt ngày “chạy” theo Bà Nội trong “khu công nghiệp” sản xuất giấy và chè (trà) và những quả đồi mênh mông nên thể lực của tôi cũng rất tốt: năm tuổi tôi đã bơi vượt sông Thao và điều cơ bản là tôi không bao giờ ốm đau, bệnh tật này nọ, mặc dù Ông Nội tôi là “Đại phu” Đông Y, bố tôi là Bác sĩ nhưng hầu như tôi không mấy khi phải dùng tới thuốc men gì, cho đến tận bây giờ, khi tôi đã ngoài 60 tuổi!


2.

Quãng  thời gian tôi sống với Bà Nội ở quê (từ 1948 đến 1953) là lúc Bà Nội tôi trên dưới 40 tuổi, độ tuổi sung mãn của đời người. Nếu nói theo ngôn ngữ bây giờ, bà Nội tôi là nhà Doanh nghiệp thuộc nhóm “Vừa và nhỏ” và “mô hình kinh tế” mà bà thực hiện lúc đó khá phổ biến ở xã hội hiện đại khoảng chục năm trở lại đây: vừa là chủ trang trại, vừa là nhà sản xuất, tận dụng và phát huy thế mạnh của đất đai và cây trồng bản địa…làm giàu trên chính quê hương! …

Ông Nội tôi lúc đó hành nghề Đông Y, tên hiệu là Đại Đạo. Song, việc bốc thuốc chữa bệnh của ông Nội không phải là nguồn thu nhập chính, thậm chí có tháng còn lỗ vốn vì con bệnh mà nghèo khó thì ông không bao giờ lấy tiền! Thỉnh thoảng, tôi có vào “Y Viện” của ông và hỏi xin tiền ông mua quà thì ông bảo mở hộc bàn ra mà lấy, nhưng khi tôi kéo hộc bàn ra thì chỉ có mấy đồng chinh, giống như tiền kẽm bây giờ có mệnh giá thấp nhất! Tôi đem chuyện đó nói với Bà thì bà cười nói: “Nếu lúc nào cháu cần mua quà, cứ nói với bà, bà cho! Ông cháu còn phải xin tiền bà đó!” Sau này tôi mới biết, toàn bộ chi tiêu của “Y Viện” từ A đến Z đều do bà lo hết!...Cũng có khi ông gặp con bệnh giàu, họ trả công hậu hĩnh, ông lại về Hà Nội đến phố Thuốc Bắc lấy thuốc và đi phố K.T hát Cô Đầu! Bà biết nhưng không nói gì! Đối với việc học hành của bố và chú tôi ở Hà Nội, bà cũng “khoán trắng” cho bố tôi quản lý, chăm sóc ông em và tự “chăm sóc” mình, hàng tháng, hai kỳ bà đem tiền và “quà quê” về  Hà Nội cho hai anh em mà không kiểm tra xét nét xem hai người ăn ở, học hành ra sao, bởi bà rất tin tưởng những người con trai của mình! Và bố tôi đã không phụ lòng tin của bà, ông học rất tốt…

*

Trong những năm kháng chiến chống Pháp, quê tôi thuộc vùng “quân ta” kiểm soát. Chính vì thế thỉnh thoảng lại phải đối mặt với những trận Càncủa quân Pháp. Nói đến chữ Càn thì tất cả những người dân Việt Nam đã từng sống qua “chín năm kháng chiến trường kỳ gian khổ” đều không thể quên bởi tính chất tàn bạo của nó: lính Pháp (thường gọi là lính Âu-Phi, do có cả người châu Âu và người châu Phi da đen) được tùy nghi “giết sạch, đốt sạch”! Vì thế, mỗi khi có tin “Giặc Pháp đi Càn” là Bà Nội lại dắt tôi chạy vào rừng cọ hoặc lên Trại ở đồi chè, đồi gió!

Khi đi Càn, lính Pháp thường thao tác bốn hành động cơ bản: bắn giết đàn ông, hãm hiếp đàn bà, vơ vét của cải (kể cả gà vịt, dê lợn, trâu bò) và cuối cùng là đốt nhà! (Ở những nơi có lực lượng du kích vũ trang mạnh (như du kích Đường số 5 – tuyến đường Hà Nội đi Hải Phòng) thì còn có chuyện chống càn, nhưng không hiểu sao quê tôi hơi ít chuyện chống càn!?) Vì thế, mỗi khi chúng tôi chạy càn trở về thì nhà cửa chỉ còn là đống tro tàn trên cái nền nhà trơ trụi! Những lúc ấy, tôi thấy Bà không nói gì, cùng những người làm “thu dọn bãi chiến trường”, và chỉ hai ngày sau, tôi lại được ở “Nhà mới”! Tuy lúc đó, tôi mới bốn, năm tuổi nhưng những hình ảnh tàn bạo về việc “càn quét” của quân Pháp vẫn còn in đậm trong ký ức…Việc viết về giai đoạn kháng chiến này, đã có các nhà văn lứa Nguyễn Khải viết rất hay, tôi chỉ viết về vài chuyện của Bà Nội…
Hôm ấy, ánh nắng bình minh rực rỡ đang tràn ngập khắp rừng cọ, đồi chè, nương ngô, nương sắn…thì bỗng nghe tiếng súng rộ lên từng tràng ở làng bên. Làng tôi đang yên bình bỗng như ong vỡ tổ! Mọi khi, việc quân Pháp đi càn thường được báo trước một hoặc hai giờ. Nhưng hôm ấy hình như làng không được thông báo gì, cho nên hoàn toàn bất ngờ! Mọi người nhốn nháo dắt díu nhau, bồng bế trẻ con, cõng khiêng người già… chạy về phía rừng cọ. Rừng cọ khá rộng và nhiều gai góc cản đường nên thường quân Pháp không vào, vì vậy rừng cọ trở thành nơi lánh nạn của làng mỗi khi quân Pháp đi càn. Muốn tới rừng cọ, phải qua một cánh đồng vừa trồng lúa vừa trồng rau mầu khá rộng…Khi dân làng chạy tới quãng giữa cánh đồng thì có bốn thằng lính Âu-Phi, hai da trắng, hai da đen, đứng ở rìa làng, đã nhìn thấy đám người đang chạy về phía rừng cọ và hô nhau đuổi theo. Vừa chạy đuổi theo, bốn thằng lính vừa bắn từng tràng khiến có vài người hoảng sợ nằm rạp xuống đất, rồi lại vọt lên chạy tiếp. Cứ vài ba lần như thế, khi đám dân làng chạy hết cánh đồng, tới bìa rừng thì bốn thằng lính đuổi kịp. Cả bốn thằng đều đeo súng Tom-son (loại súng tiểu liên quân Pháp thường dùng lúc đó) và đồng loạt xả súng vào đám người đang chạy vào bìa rừng. Lập tức, có tám người ngã xấp xuống đất, trong đó có bốn cô gái, hình như bị bắn vào chân, đang ôm chân rên la. Bốn người đàn ông nằm bất động, không biết đã chết hay chỉ giả chết? 

Trừ tám người bị trúng đạn nằm ở bìa rừng cọ, tất cả số dân làng còn lại đã tản vào trong rừng cọ mênh mông và bí hiểm. Cũng giống như mọi khi, tôi và Bà Nội dừng lại ở sát mép rừng, sau một bụi cây tổng hợp cả sim, mua, mâm xôi, v.v… Từ bụi cây này, tôi có thể quan sát rõ vạt bìa rừng có tám người bị trúng đạn vừa rồi! Bốn người đàn ông vẫn nằm bất động. Bốn người đàn bà , hai người đã ngoài năm mươi tuổi, còn hai người chỉ là hai cô bé khoảng trên mười tuổi. Hai thằng lính da trắng đến bên hai cô gái, còn hai thằng lính da đen đến bên hai bà già, nhanh như hổ đói vồ mồi, nhào tới để thỏa mãn thú tính! Theo phản xạ tự nhiên, tôi trố mắt kinh ngạc và la lên một tiếng thất thanh! Và, tôi thật khó mà tin nổi, bà tôi, tay cầm cây gậy tre vẫn dùng làm đòn gánh khi chạy càn hoặc đi xa, lướt đi như gió thổi và tôi chỉ kịp nghe bốn tiếng rắc kỳ lạ - loại âm thanh không có tiếng ngân, thì đã thấy bốn thằng lính Âu-Phi đổ vật xuống thành bốn cái xác chết!...

Bà Nội biết đánh Côn từ bao giờ? Tôi chưa kịp hỏi thì Bà Nội đã nhanh chóng sơ cứu cho bốn người đàn bà suýt bị làm nhục và cùng với họ đào một cái hố lớn bên cạnh bụi cây mà chúng tôi vừa đứng, quăng xác 4 thằng lính Âu – Phi vào. Sau khi vùi kín bốn cái xác, tôi còn thấy bà trồng lên trên “nấm mồ 4 tên” một bụi sim nhỏ. Tôi nghĩ, chỉ sau hai, ba tháng là bụi sim này sẽ thành một bụi sim khổng lồ!...

*
Chuyện Bà Nội dùng tuyệt kỹ của Côn thuật đánh trúng huyệt Bách hộicủa bốn thằng lính Âu-Phi  chưa làm tôi hết thán phục Bà thì lại xảy ra một chuyện cũng ly kỳ không kém.  Hôm đó, Bà Nội đang dắt tôi đi thăm đồi chè thì có người đến báo tin: Ông Nội qua huyện Đoan Hùng chữa bệnh cho một người quen thì lại bị “bệnh lạ” tấn công, đang nằm bẹp gí ở nhà người quen. Nghe nói vậy, Bà Nội liền vào “Y Viện” của ông, lấy một số loại thuốc, một bộ kim châm rồi bảo tôi đi cùng, đeo cái túi thuốc cho bà. Đến nơi, Bà thấy ông Nội nằm rên hừ hừ thì bắt mạch và bảo tôi đi sắc thuốc. Trong khi chờ sắc thuốc, có gần chục người cả bệnh cũ và mới, biết tin ông tôi tới đây thì đến xin khám bệnh. Tôi không ngờ bà Nội đã giải quyết hết! Chủ nhà thấy vậy thì rất mực cung kính và lại còn đi thông báo cho người lân cận đến xin khám bệnh nữa! Qua hai ngày, sức khỏe ông Nội đã trở lại bình thường, bà trả cho ông gần chục con bệnh mới tới và bảo tôi cùng đi về, ở nhà còn rất nhiều việc!

Hai bà cháu đi tới khu rừng trám thì bất ngờ có hai thằng ăn mặc kiểu lục lâm chặn đường, đòi tiền mãi lộ. Bà Nội nói mới đi thăm bệnh về, không có tiền, thì một thằng nhăn nhở cười, nói: “Không có tiền thì có tình! Bà chịu làm vợ chúng ta một canh giờ thì ta tha mạng cho cả hai bà cháu!”. Thằng kia vừa dứt lời thì cái gậy đòn gánh trên vai bà vụt biến thành câyCôn lợi hại: Chỉ thấy nó ngã lăn kềnh ra đất, hai tay ôm hạ bộ quằn quại! Thằng đồng bọn thấy vậy thì bỏ chạy không dám  ngoái đầu nhìn lại!...

 Chúng tôi tiếp tục đi. Tôi lại hỏi bà biết đánh Côn từ bao giờ, Bà nói: “Lúc nhỏ, bà theo Mẹ đi buôn muối, từ vùng biển Đồ Sơn, Thái Bình đi tuốt lên tận mạn ngược Lào Kai, Hà Giang… Những người buôn muối thường bị bọn cướp chặn đường nên ai cũng có vài miếng võ phòng thân!” Tôi lại hỏi: “Sao bà không tiếp tục đi buôn muối?” Bà nói: “Lần ấy, mẹ của bà bị sốtngã nước, tưởng chết, may mà gặp ông Nội cháu, lúc đó còn trẻ tuổi mà y thuật đã rất giỏi, đã cứu được. Thế là bà lấy ông cháu để trả cái ơn cứu mạng! Lấy ông cháu rồi thì ở nhà phụ giúp ông chữa bệnh, người bệnh nhiều lắm!” Tôi lại hỏi mấy câu liền mà tôi đã định hỏi từ rất lâu: “Thế bà và ông có yêu nhau không? Sao ông cứ ở “Y viện” không mấy khi về nhà bà là làm sao? Cái bà ăn ở luôn trong “Y viện” của ông có phải là “Vợ lẽ” của ông không?” Bà Nội liền ngắt lời tôi: “Có những câu hỏi cháu phải tự tìm lấy câu trả lời! Cháu cứ lớn nhanh lên, khi nào cháu có vợ, có con thì cháu sẽ không phải hỏi bà nhiều như thế!”. Tôi im lặng không hỏi nữa và chợt nghĩ, sao mẹ tôi cũng có nhiều điểm giống bà là chẳng bao giờ kêu ca, phàn nàn hay nói gì về chồng mình, và điều kỳ lạ là chẳng hề bộc lộ tình cảm với chồng, và tôi chưa bao giờ thấy mẹ và bố, cũng như ông và bà nói chuyện với nhau?

3.

Sau giải phóng Thủ đô 1954, gia đình tôi và cả chú tôi đều về Hà Nội, Bà Nội lúc thì ở nhà Bố tôi, lúc thì ở nhà ông chú. Hình như hai anh em bố tôi và ông chú luân phiên nhau chăm sóc bà Nội và ông Nội. Lúc đó, Bà Nội còn người con gái Út , tôi gọi là cô, lấy chồng là Chủ tịch một Xã ở huyện Phù Ninh, là còn ở quê, cho nên thỉnh thoảng bà lại về quê ở với cô con gái út. Mỗi lần bà ở quê ra, lại thấy bà khỏe mạnh ra nhiều, chắc là do bà lao động ruộng đồng nhiều. Nhưng Bố tôi và ông chú không cho như thế là tốt, tức không nên để bà lao động vất vả nữa, nên lại đón bà về Hà Nội ở với ông chú, hoặc gia đình tôi đang ở đâu thì đón bà về đó. Xét về đạo hiếulà phải chăm sóc mẹ lúc tuổi già, thì bố tôi và ông chú làm như vậy là đúng. Nhưng bà Nội là con người của Lao động, cụ thể hơn là Lao động nông thôn, nên việc tách bà ra khỏi môi trường nhà quê quen thuộc của bà là biến bà thành một người khác. Thỉnh thoảng bà lại nói: “Ngồi không nó ngứa chân, ngứa tay lắm! Bà thấy nhớ đồi chè, đồi gió… nhớ tất cả! Cái xóm Trại thật đẹp, không biết bây giờ thế nào?” Và rồi, nỗi nhớ ấy nó gậm nhấm, hành hạ bà, biến bà thành một người khác, đến nỗi khi tôi lớn lên, đi bộ đội về mà bà không nhận ra thằng cháu Đích tôn luôn được Bà cưng chiều nhất ngày xưa!...

Những ngày tháng cuối đời, bà Nội và ông Nội mới sống gần nhau, nhưng ông Nội đã lẫn chín phần, còn Bà Nội thì cũng lẫn tới năm, sáu phần. Ông không tự chủ khi đại, tiểu tiện, vì thế thường bị bà đánh thẳng tay! Những lúc bắt gặp cái cảnh bi hài kịch ấy, tôi thường nghĩ: cuộc đời con người ta bị bàn tay Con Tạo chia cắt ra thành nhiều khúc và giữa các khúc chẳng hề có mối liên hệ nào cả!...Và cho đến hôm nay, nhìn lại cuộc đời mình, tôi thấy suy nghĩ ấy rất đúng!.../.

Sài Gòn, tháng 10-2009
Đỗ Ngọc Thạch
Ngày đăng: 09.10.2009


Nguồn: vanchuongviet.org


www.vanchuongviet.org/index.php%3Fcomp%3Dtacgia%26actio...
Đỗ Ngọc Thạch ... Tổng số tác phẩm: 133. Đứa bé tật nguyền và nàng tiên áo trắng (truyện ngắn). Đại gia và siêu mẫu chân dài (truyện ngắn). Đấu trường 100 ...


Ba chìm bảy nổi (truyện ngắn)
Ba Lần Thoát Hiểm (truyện ngắn)
Bà Nội (truyện ngắn)
Bà Ngoại (truyện ngắn)
Bác Sĩ Thú Y (truyện ngắn)
Báo hiếu (truyện ngắn)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét