Thứ Sáu, 23 tháng 8, 2013

Sartre và văn học

Sartre và văn học - Đỗ Ngọc Thạch





4phuong.net/ebook/47161967/sartre-va-van-hoc-2.html
Đỗ Ngọc Thạch. Thứ đến, lý thuyết này là lý thuyết duy nhất ban cho con người một phẩm giá, đó là lý thuyết duy nhất không lấy con người làm đối tượng.


Sartre Và Văn Học. 2

Đỗ Ngọc Thạch

Thứ đến, lý thuyết này là lý thuyết duy nhất ban cho con người một phẩm giá, đó là lý thuyết duy nhất không lấy con người làm đối tượng. Toàn bộ thuyết duy vật có tác dụng là coi tất cả mọi người, và kể cả chính mình, như những đối tượng, tức là như một tập hợp các phản ứng được quy định, không khác gì với tập hợp các tính chất và các hiện tượng cấu tạo nên một cái bàn, một cái ghế, hay một hòn đá. Chúng tôi muốn thiết lập chính xác giới con người (règne humain) như một tập hợp các giá trị phân biệt với giới vật chất (règne matériel). Nhưng tính chủ thể mà chúng ta đạt đến như là chân lý ở đây không phải là tính chủ thể hoàn toàn mang tính cá nhân, vì chúng tôi đã chứng minh rằng trong cái cogito, người ta không chỉ tự nhận ra chính mình, mà còn nhận ra những người khác. Trái với triết học Descartes, đối lập với triết học Kant, qua cái Tôi tư duy (Je pense) chúng ta tự mình đạt đến chính mình bằng cách đối diện với người khác và với chúng ta, người khác cũng chắc chắn như chính chúng ta. Như vậy, qua cái cogito, con người trực tiếp đạt đến chính mình và cũng nhận ra tất cả những người khác, và con người nhận ra những người khác như là điều kiện cho sự hiện hữu của mình. Con người nhận thấy rằng mình không thể nào tồn tại (theo nghĩa người ta nói mình là cao thượng, là độc ác, hay là ghen tuôn) nếu không có những người khác thừa nhận mình như vậy. Để đạt được một chân lý nào đó về mình, tôi cần phải thông qua người khác. Người khác là cần thiết cho sự hiện hữu của tôi, và cũng rất cần thiết cho sự nhận thức của tôi về bản thân. Trong những điều kiện ấy, từ trong tâm tý, khi tôi phát hiện ra chính mình thì đồng thời tôi phát hiện ra người khác, như là một tự do được đặt đối diện tôi, suy nghĩ về tôi và chỉ muốn ủng hộ hay chống đối tôi. Như vậy, ngay lập tức chúng tôi phát hiện ra một thế giới mà chúng tôi gọi là “tính liên chủ thể” (intersubjectivité), và chính trong thế giới ấy mà con ủng hộ hay chống đối tôi.
Ngoài ra, nếu ta không thể tìm được ở mỗi người một bản chất phổ quát được gọi là bản tính người, thì dù sao cũng có một tính phổ quát người của thân phận (condition). Không phải ngẫu nhiên mà các nhà tư tưởng ngày nay sẵn sàng nói về thân phận con người hơn là bản tính của nó. Về thân phận, họ hiểu một cách ít nhiều rõ ràng là toàn bộ những giới hạn tiên nghiệm phác họa nên cái tình thế (situation) nền tảng của con người trong vũ trụ. Những tình thế lịch sử luôn biến đổi: con người có thể sinh ra đã là nô lệ trong một xã hội dị giáo, hay xã hội của lãnh chúa phong kiến hay xã hội vô sản. Cái không biến đổi, đó là tính tất yếu con người phải tồn tại trong thế giới, phải lao động, sống chung với những người khác, và chết đi trong thế giới ấy. Những giới hạn này không mang tính chủ quan hay khách quan, hay đúng hơn, chúng có một mặt khách quan và một mặt chủ quan. Là khách quan vì những giới hạn này chúng ta có thể bắt gặp và nhận biết ở bất cứ đâu ; là chủ quan vì chúng được con người nghiệm sinh, và không tồn tại nếu con người không nghiệm sinh chúng - tức là con người không tự do xác định bản thân trong sự hiện hữu có những giới hạn của mình. Và cho dù những dự phóng (projet) là khác nhau, ít ra là không một dự phóng nào hoàn toàn xa lạ với tôi, vì chúng có vẻ hệt như một cố gắng vượt qua những giới hạn này, đẩy lui chúng, phủ nhận chúng, hay hòa giải với chúng. Do đó, mọi dự phóng, dù là dự phóng mang tính cá nhân, đều có một giá trị phổ quát. Mọi dự phóng, ngay cả dự phóng của người Trung Hoa, của người Ấn Độ hay của người da đen (nègre) là có thể hiểu được đối với người châu Âu. Nói rằng “là có thể hiểu được” thì điều ấy muốn nói lên rằng người châu Âu năm 1945 có thể vượt ra khỏi một tình thế mà mình tiếp nhận, hướng đến những giới hạn theo cùng một phương cách để có thể tái lập (refaire) trong mình sự dự phóng của người Trung Hoa, của người Ấn, hay của người châu Phi. Trong mỗi một dự phóng đều có tính phổ quát theo nghĩa mọi dự phóng là có thể lĩnh hội với tất cả mọi người. Điều đó tuyệt nhiên không có nghĩa là dự phóng này đã định nghĩa rốt ráo về con người, mà có nghĩa là dự phóng có thể được tìm thấy lại. Luôn luôn có một phương cách hiểu được người đần độn, trẻ em, người nguyên thủy hay người xa lạ, miễn là ta có đầy đủ những chỉ dẫn. Theo nghĩa này, chúng ta có thể nói rằng có một tính phổ quát của con người, nhưng tính phổ quát không có sẵn mà nó luôn luôn được kiến tạo nên. Tôi kiến tạo cái phổ quát ấy bằng cách tự mình lựa chọn ; tôi kiến tạo nó bằng cách hiểu dự phóng của mọi người khác, của bất cứ thời đại nào. Cái tuyệt đối ấy của sự lựa chọn không thủ tiêu tính tương đối của mỗi một thời đại. Những gì mà người hiện sinh vẫn hằng quan tâm chứng minh đó là mối liên hệ giữa cái tính chất tuyệt đối của sự dấn thân tự do, qua đó mỗi người thực hiện hóa mình bằng cách hiện thực hóa một kiểu hình nhân loại - sự dấn thân luôn luôn có thể lĩnh hội với bất cứ thời đại nào hay với bất cứ ai - và tính tương đối của tổng thể văn hóa có thể rút ra từ một sự lựa chọn như thế. Ta cần phải làm nổi bật cùng một lúc tính tương đối của thuyết Descartes và tính chất tuyệt đối của sự dấn thân của Descartes. Theo nghĩa này, nếu muốn các bạn có thể nói rằng mỗi một người trong chúng ta đều làm nên cái tuyệt đối bằng việc hít thở, ăn, ngủ hay bằng hành động theo cách nào đó. Không có sự khác biệt nào giữa tồn tại một cách tự do - tồn tại với tư cách là dự phóng, với tư cách là sự hiện hữu đã chọn được bản chất chất của mình - và tồn tại tuyệt đối ; và không có sự khác biệt nào giữa tồn tại như một tuyệt đối được định vị theo thời gian, tức là được định vị trong lịch sử, và tồn tại có thể lĩnh hội một cách phổ biến.
Điều đó không hoàn toàn đã giải quyết xong sự bác bỏ chủ thể luận. Thực vậy, sự bác bỏ này vẫn còn mang nhiều hình thức. Hình thức thứ nhất như sau: người ta nói với chúng tôi: “Vậy thì anh có thể làm bất cứ điều gì cũng được” ; và người ta diễn đạt câu nói này theo nhiều cách khác nhau. Trước hết, người ta buộc tội chúng tôi là vô chính phủ ; tiếp theo người ta tuyên bố: Các anh không thể phán xét những người khác, vì không có lý do nào để ưa chuộng một sự phóng này hơn một dự phóng khác ; và cuối cùng người ta có thể nói với chúng tôi rằng : Tất cả đều tùy tiện trong những gì anh lựa chọn, anh đưa bằng tay này những gì mà tay kia anh vờ đón nhận. Cả ba ý kiến bác bẻ này đều rất nghiêm trọng. Trước hết, ý kiến thứ nhất: “Anh có thể chọn lựa bất cứ thứ gì” là không chính xác. Sự lựa chọn là khả hữu theo một nghĩa nào đó, và điều không khả hữu đó là không có sự lựa chọn nào. Lúc nào tôi cũng có thể lựa chọn, nhưng tôi phải biết rằng nếu tôi không lựa chọn, thì tôi vẫn còn sự lựa chọn. Cho dù là có vẻ hoàn toàn hình thức, nhưng điều này có một tầm quan trọng rất lớn cho việc vạch ranh giới giữa sở thích riêng (fantaisie) và ý thích thất thường (caprice). Nếu đúng là trước một tình thế, chẳng hạn như tình thế tôi là một tồn tại giới tính có thể có quan hệ tính giao với một tồn tại thuộc giới tính khác, có thể có con cái, tôi buộc phải lựa chọn một thái độ, và dù sao đi nữa tôi chịu trách nhiệm về một sự lựa chọn mà trong khi tôi cam kết với chính mình thì nó buộc tôi cam kết với toàn thể nhân loại. Cho dù không một giá trị tiên nghiệm nào quy định sự lựa chọn của tôi, thì sự lựa chọn này không quan hệ gì đến ý thích thất thường ; và nếu ai đó tin là nhận thấy ở đây cái lý thuyết của Gide về hành vi vô cớ (l’acte gratuit), tức là người ta không thấy sự khác biệt rất lớn giữa học thuyết này với học thuyết của Gide. Gide không biết thế nào là một tình thế, và “hành vi” ở ông chỉ đơn thuần là ý thích thất thường. Trái lại, đối với chúng tôi, con người tìm thấy mình trong một tình thế được tổ chức, ở đó anh ta được nhập thân vào chính mình. Bằng sự lựa chọn của mình mà anh ta nhập thân vào toàn thể nhân loại, và anh ta không thể né tránh việc phải lựa chọn. Cho dù còn độc thân hay phải lập gia đình mà không có con cái, hoặc phải lập gia đình và sẽ có con cái ; cho dù có làm gì đi nữa, thì anh ta cũng không thể không chịu trách nhiệm toàn bộ trước vấn đề này. Chắc chắn là anh ta đã lựa chọn mà không quy chiếu đến những giá trị tiền lập, nhưng sẽ không có công bằng nếu quy cho anh ta là kẻ thất thường. Đúng hơn, chúng tôi nói rằng cần phải so sánh sự lựa chọn đạo đức với sự kiến tạo một tác phẩm nghệ thuật. Và ở đây, chúng tôi cần dừng lại ngay để nói rõ rằng chúng tôi không bàn đến đạo đức mỹ học, vì những người chống đối chúng tôi rất không trung thực khi trách cứ chúng tôi về chính điều đó. Ví dụ mà chúng tôi đã chọn ra chỉ là một sự so sánh. Nó nói rằng có bao giờ người ta trách cứ một nghệ sĩ nào đó khi vẽ tranh là đã không theo những quy tắc được xác lập một cách tiên nghiệm? Có bao giờ người ta nói bức tranh nào là bức tranh mà người nghệ sĩ phải vẽ? Dĩ nhiên, không có bức tranh nào được xác định phải vẽ, người nghệ sĩ phải lao vào việc kiến tạo nên bức tranh của mình, và bức tranh phải vẽ đó chính xác là bức tranh anh ta sẽ vẽ. Anh ta hiểu rõ rằng không có những giá trị mỹ học tiên nghiệm, mà chỉ có những giá trị được nhận thấy sau đó trong bố cục bức tranh, trong các quan hệ giữa ý chí sáng tạo và kết quả [của sáng tạo]. Không ai có thể nói tương lai của hội họa sẽ ra sao. Ta chỉ có thể nhận định hội họa khi nó được thực hiện. Nó có quan hệ thế nào với đạo đức? Chúng ta đang tồn tại trong cùng một tình thế có tính sáng tạo. Chúng ta không bao giờ nói về tính vô cớ của một tác phẩm nghệ thuật. Khi chúng ta nói về một bức tranh sơn dầu củaPicasso [9], chúng ta không bao giờ nói rằng nó là vô cớ ; chúng ta hiểu rất rõ rằng ông tự kiến tạo mình đúng như là ông đang tồn tại trong cùng lúc ông vẽ tranh, rằng toàn bộ tác phẩm của ông được sáp nhập vào đời sống của ông. Điều đó cũng tương tự trên bình diện đạo đức. Điểm chung giữa nghệ thuật và đạo đức là trong cả hai trường hợp, chúng ta đều có sự sáng tạo và sự phát minh (invention). Chúng ta không thể quyết định một cách tiên nghiệm về những gì phải làm. […] Con người làm ra chính mình. Trước hết, con người không phải là thứ sẵn có, anh ta làm ra chính mình bằng cách lựa chọn đạo đức của mình, và áp lực của những hoàn cảnh (circonstances) khiến anh ta không thể không lựa chọn một đạo đức. Chúng tôi chỉ định nghĩa con người qua sự dấn thân. Vì vậy, việc trách cứ chúng tôi về sự vô cớ trong việc lựa chọn là phi lý. Thứ hai, người ta nói với chúng tôi rằng: “Anh không thể phán xét những người khác”. Câu ấy có mặt đúng và cũng có mặt sai. Nó đúng với nghĩa là mỗi khi con người lựa chọn sự dấn thân và dự phóng của mình bằng tất cả lòng thành và sự sáng suốt, cho dù dự phóng ấy sẽ như thế nào chăng nữa, thì đối với con người, không thể có việc ưa thích dự phóng này hơn dự phóng khác. Nó đúng theo nghĩa chúng ta không tin vào sự tiến bộ (progrès); sự tiến bộ là một sự cải thiện ; con người luôn là như thế trước một tình thế đang biến chuyển và sự lựa chọn vẫn luôn là sự lựa chọn trong một tình thế.
…Và ngoài ra, tôi có thể đưa ra một phán xét đạo đức. Khi tôi tuyên bố rằng tự do, qua từng hoàn cảnh cụ thể (****), không thể có mục đích nào khác ngoài việc nó muốn tự mình thể hiện, nếu một khi con người đã nhận ra rằng nó đặt ra những giá trị trong tình trạng bị bỏ rơi, nó không còn muốn là một sự vật nữa, đó là tự do với tư cách là nền tảng của tất cả các giá trị. Điều đó không có nghĩa là con người muốn tự do trong sự trừu tượng. Nó chỉ đơn giản nói rằng những hành vi của con người thực lòng [với mình], với tư cách là ý nghĩa cuối cùng, là tìm kiếm tự do xét như là tự do. Một người gia nhập vào nghiệp đoàn nào đó, cộng sản hay cách mạng, muốn những mục đích cụ thể ; những mục đích này bao hàm một ý chí trừu tượng về tự do ; nhưng tự do này muốn tỏ ra trong sự cụ thể. Chúng ta muốn tự do vì tự do và qua từng hoàn cảnh đặc thù. Và trong khi muốn tự do, chúng ta phát hiện ra rằng tự do [của chúng ta] hoàn toàn phụ thuộc vào tự do của những người khác và tự do của những người khác phụ thuộc vào tự do của chúng ta. Thật vậy, tự do với tính cách là sự định nghĩa về con người không phụ thuộc vào người khác, nhưng khi có sự dấn thân, tôi buộc phải muốn cùng một lúc tự do của tôi và tự do của những người khác, tôi chỉ có thể lấy tự do của tôi làm mục đích nếu tôi cũng lấy tự do của những người khác làm mục đích. Do đó, trên bình diện sự xác thực toàn diện, khi tôi thừa nhận rằng con người là một tồn tại mà ở đó bản chất được hiện hữu đi trước, và con người là một tồn tại tự do mà trong những hoàn cảnh khác nhau nó chỉ có thể muốn tự do của nó, đồng thời tôi nhận ra rằng tôi chỉ có thể muốn tự do của những người khác. Như vậy, nhân danh ý chí tự do ấy, được bao hàm bởi chính tự do, tôi có thể hình thành những phán xét về những ai cứ lo trốn tránh sự vô cớ hoàn toàn của sự hiện hữu và sự tự do toàn diện của họ.[…] Như vậy, các bạn thấy rằng sự trách cứ thứ hai này vừa đúng lại vừa sai. Người ta có thể chọn lựa bất cứ thứ gì nếu đó là trên bình diện của sự dấn thân tự do (engagement libre).
…Sự bắt bẻ thứ ba như sau : anh nhận bằng tay này những gì anh cho đi bằng tay khác ; tức là xét đến cùng thì các giá trị không phải là nghiêm túc, vì chính anh đã lựa chọn chúng. Về điều này, tôi chỉ có thể nói rằng tôi rất tiếc vì quả đã có chuyện như vậy ;  nhưng nếu tôi đã thủ tiêu Thượng đế ngôi Cha, thì rất cần có ai đó để phát minh ra các giá trị. Cần phải coi các sự vật như chúng đang tồn tại. Và hơn nữa, nói rằng chúng tôi phát minh ra các giá trị không có nghĩa nào khác hơn ngoài nghĩa này : đời sống không hề có ý nghĩa, nó là tiên nghiệm. Trước khi các bạn sống thì đời sống là hư vô, mà chính các bạn đã ban cho nó một ý nghĩa, và giá trị không phải là cái gì khác ngoài ý nghĩa mà các bạn đã chọn. Qua đó các bạn thấy rằng ta có thể sáng tạo nên một cộng đồng người.[...] …người hiện sinh không bao giờ lấy con người làm mục đích, vì con người luôn luôn được tạo ra.
…Nhưng thuyết nhân bản còn có một nghĩa khác, và ý nghĩa nền tảng của nó là như sau : con người lúc nào cũng ở ngoài bản thân mình, chính trong việc tự dự phóng và mải miết bên ngoài bản thân mình, con người làm cho mình hiện hữu, và mặt khác chính trong việc theo đuổi những mục đích siêu việt mà con người mới có thể hiện hữu. Con người, trong khi là sự vượt bỏ ấy và chỉ chọn lấy những đối tượng có quan hệ đến sự vượt bỏ ấy, là trái tim, là trung tâm của sự vượt bỏ ấy. Không có một vũ trụ nào khác ngoài vũ trụ người, vũ trụ của tính chủ thể người. Mối liên hệ ấy của sự siêu việt, như là yếu tố cấu thành của con người - không theo nghĩa Thượng đế là siêu việt, mà theo nghĩa sự vượt bỏ -, và của tính chủ thể người, theo nghĩa con người không khép kín vào bản thân mình mà luôn hiện diện trong vũ trụ người, đó chính là điều chúng tôi gọi là thuyết nhân bản hiện sinh. Thuyết nhân bản và chúng tôi nhắc nhở con người rằng không có một kẻ lập luật nào khác ngoài chính con người, và chính trong tình trạng bị bỏ rơi con người sẽ tự mình quyết định ; và vì chúng tôi chỉ ra rằng không phải bằng cách quay về với bản thân, mà luôn luôn bằng cách tìm kiếm bên ngoài mình một mục đích, mà mục đích này là một sự giải phóng hay một sự hiện thực hóa đặc thù nào đó mà chính con người sẽ hiện thực hóa mình xét như là con người.
Theo một vài suy nghĩ nào đó, ta thấy rằng không có gì bất công hơn những sự chống đối mà người ta đã làm đối với chúng tôi. Thuyết Hiện sinh không gì khác hơn là một nỗ lực rút ra tất cả các hệ quả từ một lập trường vô thần vững chắc. Nó không hề tìm cách dìm con người vào sự tuyệt vọng. Nhưng nếu ta gọi sự tuyệt vọng là toàn bộ thái độ vô tín ngưỡng như [quan niệm của] người Công giáo thì thuyết Hiện sinh xuất phát từ sự tuyệt vọng nguyên thủy (désespoir originel).
Thuyết Hiện sinh thực sự không phải là một thuyết vô thần theo nghĩa nó tận lực chứng minh rằng Thượng đế không hiện hữu. Đúng hơn, nó tuyên bố rằng : cho dù Thượng đế có hiện hữu thì cũng chẳng có gì thay đổi cả ; đấy là quan điểm của chúng tôi. Không phải chúng tôi tin Thượng đế hiện hữu, mà chúng tôi cho rằng vấn đề không phải là sự hiện hữu của ngài. Con người cần tìm lại chính mình và tin chắc rằng không có gì có thể cứu con người ra khỏi bản thân mình, đó có phải là một chứng cứ có hiệu lực về sự hiện hữu của Thượng đế? Theo nghĩa này, thuyết Hiện sinh là một thuyết lạc quan, một học thuyết hành động, và chỉ vì ngụy tín, chỉ vì sự lẫn lộn cái tuyệt vọng của riêng họ với cái tuyệt vọng của chúng tôi, mà những người Công giáo mới có thể gọi chúng tôi là những kẻ không hy vọng”.
Chú thích cho bài “Chủ nghĩa Hiện sinh là một chủ nghĩa nhân bản”:
(*) GS Đỗ Đức Hiểu - chuyên gia hàng đầu về văn học Phương Tây - có cuốn "Phê phán văn học hiện sinh chủ nghĩa" (NXB Văn học H.1978). Tuy nhiên, trong những chuyên đề về văn học hiện sinh, văn học phi lý của ông tại Khoa Ngữ văn (trường ĐH Tổng hợp Hà Nội) mà chúng tôi được thọ giảng (năm 1972) thì không hề có ý  phê phán. Có thể hiểu cuốn sách đó là ‘’nhiệm vụ chính trị’’ mà ông phải thực hiện - ‘thân bất do kỷ’. Điều đó giải thích vì sao sau này ông gạt cuốn sách đó ra khỏi danh sách tác phẩm của mình khi làm tuyển tập tác giả. Không riêng gì cuốn sách của GS Đỗ Đức Hiểu, một thời gian khá dài, tất cả những gì thuộc về ‘Phương Tây’ đều bị coi là ‘Tư sản phản động’ cần phải phê phán. Chẳng hạn như trong cuốn « Từ điển triết học giản yếu » (NXB ĐH & Trung học chuyên nghiệp, H.1987) và cuốn « Từ điển thuật ngữ văn học » (NXB Giáo dục, H.1992) đều phê phán chủ nghĩa hiện sinh và văn học hiện sinh mạnh mẽ: « ...Trong quá trình phát triển, lộ rõ tính chất phản tiến bộ (đối lập với những mặt tích cực của các triết học tư sản duy lý của Descartes, Hegel..., công kích chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử) » (TĐ triết học giản yếu, tr.198) ; « ...Các khái niệm ‘dấn thân’ và ‘nhập cuộc’ mà các nhà hiện sinh chủ nghĩa thường nói tới chỉ là sự diễn đạt quan niệm và hành động tự do sáng tạo ra ‘con đường riêng của mình’ như một sự cần thiết phải lựa chọn bản thân mình trong những ‘tình huống bên bờ vực thẳm’ đầy bi kịch, bất chấp tiêu chuẩn đạo đức , không tính động cơ, hiệu quả... » (TĐ thuật ngữ văn học, tr.53).
(**) Chủ nghĩa Tự nhiên: khái niệm chỉ một phương pháp sáng tạo nghệ thuật trong mĩ học và văn học, xuất hiện ở Châu Âu và Hoa Kì vào nửa cuối thế kỉ 19. CNTN chủ trương tái hiện một cách "trung thành với tự nhiên" một mảng hiện thực nào đó, chú trọng đến tính quy luật của môi trường tự nhiên, hoàn cảnh vật chất, quy luật tâm sinh lí, bệnh lí, nhưng không loại trừ bản chất xã hội, lịch sử của chúng. CNTN đặc biệt chú ý đến cái dạng vật thể của con nguời và các sinh hoạt vật chất của nó nhất là sinh hoạt sinh lí, giới tính. Trong lịch sử nghệ thuật, văn học, CNTN là một trào lưu nghệ thuật xuất hiện và phát triển mạnh ở Châu Âu, chủ yếu ở Pháp với người khởi xướng và đại diện tiêu biểu là E. Zola (**1). (**1) Émile Zola (1840 - 1902): nhà văn Pháp. Sống ở Provence; năm 18 tuổi, lên Paris; sống nghèo khổ. Viết báo rồi viết tiểu thuyết. Năm 1868, khởi thảo đề cương bộ tiểu thuyết "Rugông Macqua". Trong gần một phần tư thế kỉ, Zôla hoàn thành bộ tiểu thuyết lớn này, gồm 20 tập, kể về "Lịch sử tự nhiên và xã hội của một gia đình dưới Đế chế II", in lần lượt từ 1871 đến 1893. Các quyển nổi tiếng hơn cả: "Cái bụng Pari", "Quán rượu", "Nana", "Giecminan", "Đất". Ngoài ra ông còn viết một số quyển sách lí luận về tiểu thuyết: "Tiểu thuyết thực nghiệm" (1880), "Những nhà tiểu thuyết tự nhiên chủ nghĩa" (1881).
(***) Réalité, trong nghĩa rộng, không chỉ có thế giới vật chất, có cả hiện tượng người, hiện tượng tư duy. Nhiều tác giả, kể cả Sartre, để cho rõ nghĩa, dùng khái niệm réalité humaine: thực thể người.
(****) Sartre viết rất nhiều bài ngắn trong nhiều lĩnh vực: phê bình, tiểu luận, bút chiến, đề tựa sách, v.v… NXB Gallimard gom lại theo đề tài, in thành một bộ sách với tựa chung Situation 1,2,3... TừSituation liên quan tới khái niệm triết của Sartre trong L'Être et le Néantliberté en situation  (tự do trong và mặc dù hoàn cảnh) với nghĩa Không có Tự Do tuyệt đối. Con người luôn luôn và chỉ có thể tự do đối với một hoàn cảnh cụ thể nào đó. Nhưng, ngược lại, do “bản chất” người của nó, nó không thể không tự do. Đây là một nội dung cơ bản trong cuộc tranh luận nổi tiếng giữa Sartre và Camus (Lettre à Camus - Thư gửi Camus, Situation 4).
[1] René Descartes (1596-1650): nhà triết học người Pháp, được mệnh danh là cha đẻ của triết học hiện đại, vì đã đi tiên phong trong việc lật bệ nền triết học Aristote kinh viện, thúc đẩy sự phát triển của một thứ khoa học mới trên nền tảng quan sát và thực nghiệm. Vận dụng phương pháp hoài nghi, ông loại bỏ mọi tri thức bề ngoài được rút ra từ quyền uy, cảm giác và lý tính để từ đó dựng lên những nền tảng tri thức luận mới trên cơ sở của trực quan rằng ông hiện hữu khi ông đang suy tưởng. Điều này ông phát biểu rõ trong tuyên ngôn: “Cogito, ergo sum” (“Tôi tư duy, vậy tôi tồn tại”). Ông cũng phát triển một thuyết nhị nguyên siêu hình học, và thuyết này phân biệt triệt để giữa tinh thần (bản chất của nó là suy tưởng) và vật chất(bản chất của nó là quảng tính trong ba chiều). Siêu hình học của Descrtes là siêu hình học duy lý, dựa trên sự thừa nhận các ý niệm bẩm sinh về tinh thần, vật chất và Thượng đế. Hegel đã từng nhận định: Descartes là người đầu tiên đặt Tôi vào trung tâm của triết lý với tư cách là chủ thể của tư duySartre đề cao cống hiến của Descartes trong ý tưởng: con người là tự do. [2] Gottfried Wilhelm von Leibniz (1646-1716) là nhà triết học, toán học người Đức. [3] Denis Diderot (1713-1784) là nhà văn, nhà triết học và nhà bách khoa thư người Pháp, là người sáng lập và chủ trì bộEncyclopédie (1750)một công trình rất quan trọng cho sự phát triển của phong trào Khai minh ở Pháp. [4] Voltaire (1694-1778), tên thật là Franois-Marie Arouet, là nhà văn, nhà triết học người Pháp, biểu tượng của thời kỳ Khai minh.  [5] Francis Ponge (1899-1988) là nhà viết tiểu luận và nhà thơ người Pháp. Câu  “Con người là tương lai của con người” được Sartre trích dẫn trên nằm trong bài viết “L'Homme et les choses”(Con người và các sự vật, Poésie 44, juillet-octobre 1944).  [6] André Paul Guillaume Gide (1869-1951) là nhà văn Pháp, đoạt giải Nobel văn học năm 1947. [7] Valentin Louis Georges Eugène Marcel Proust (1871-1922) là nhà văn Pháp, tác giả bộ tiểu thuyết nổi tiếng Đi tìm thời gian đã mất (1913-1927);  [8] Jean-Baptiste Racine (1639 - 1699), thường được biết tới với tênJean Racine là một nhà viết kịch nổi tiếng của sân khấu Pháp thế kỉ 17. Với rất nhiều vở bi kịch xuất sắc, Racine cùng với Pierre Corneille (1606-1684) được coi là hai nhà kịch tác gia cổ điển vĩ đại nhất nước Pháp.  [9] Pablo Ruiz Picasso (1881-1973) là họa sĩ và nhà điêu khắc Tây Ban Nha, một đại diện tiêu biểu trong trường phái lập thể trong hội họa và điêu khắc.
*
Xuất hiện sau J-P. Sartre bốn năm nhưng ngay lập tức tác phẩm của Albert Camus ảnh hưởng rộng rãi và sâu sắc đến đời sống trí tuệ Châu Âu giai đoạn sau Thế chiến Thứ 2. Đề tài trong sáng tác của ông là sự tha hóa và tồn tại phi lí của đời người, kêu gọi con người tìm lối thoát trong tinh thần và hành động tranh đấu chống bất công. Người xa lạ (1942) của Camus đã gây chấn động đời sống văn học Pháp. Với ngôn ngữ trong sáng, biểu cảm, tác phẩm thể hiện cảm xúc của cả một thế hệ trước câu hỏi về hệ thống giá trị của cuộc sống và  lòng khát khao tìm kiếm ý nghĩa cũng như mục đích của đời sống. Camus cũng là đại diện tiêu biểu của kịch phi lí.Trong tiểu luận triết học Huyền thoại Sisyphe (1942), Camus so sánh sự phi lí của tồn tại đời người với hành động của Sisyphetrong thần thoại và đã phát triển thuyết đạo đức mới dưới hình thức lí giải luận điểm cơ bản của chủ nghĩa hiện sinh về sự phi lí của tồn tại. Sau chiến tranh, chủ nghĩa hiện sinh chi phối đời sống trí tuệ Paris. Camus lúc này đã trở thành một trong những nhà văn hàng đầu nước Pháp; ông xuất bản cuốn Dịch hạch (1947), hình ảnh tượng trưng cho cái chết và tội ác, sau đó là vở kịch Caligula, tiếp tục phát triển trào lưu văn học phi lí và chủ nghĩa hiện sinh.
Trong Người nổi loạn (1951) Camus tuyên chiến với tất cả các hệ tư tưởng ngăn cản tự do của con người. Năm 1956, ông viết cuốnSa đọa khai thác đề tài tội lỗi và ăn năn. Năm 1957, Camus được trao giải Nobel văn chương ở tuổi 44, bởi “đóng góp to lớn vào văn học, góp phần soi rọi giá trị của lương tâm con người” (13).Ba năm sau, vở kịch cuối cùng Những người quỷ ám của ông chuyển thể từ tiểu thuyết Lũ người quỷ ám của F. Dostoevski được công diễn. Năm 1960, giữa thời kì sung sức với nhiều dự định sáng tạo, Camus mất trong một tai nạn xe hơi ở miền Nam nước Pháp. Sau khi Camus qua đời, sáng tác của ông tiếp tục gây ra những cuộc tranh cãi sôi nổi, nhưng ông vẫn được coi là một trong những nhân vật sáng giá của thời đại. Camus thất vọng trước sự tha hóa của con người, nhưng vẫn kiên trì tìm lối thoát ra khỏi sự phi lí của kiếp nhân sinh. Người ta gọi Camus là  “nhà đạo đức học đã nâng những vấn đề luân lí lên thành vấn đề triết học”.
 Sài Gòn, tháng 1-2011
Tài liệu tham khảo: Nguyễn Văn Dân: Văn học phi lý - NXB Văn hóa Thông tin, 2002. - Jean-Paul Sartre: L'Existentialisme est un humanisme  (Chủ nghĩa Hiện sinh là một Chủ nghĩa nhân bản): bản dịch của Đinh Hồng PhúcQu' est ce que la littérature? (Văn học là gì?) - (Nguyên Ngọc dịch, NXB. Hội Nhà văn - H.1999); L'Être et le Néant (Tồn tại và Hư vô), 1943, NXB Gallimard, Pháp; Situation I đến X, 1973-1976. -Phan Huy Đường: Jean-Paul Sartre - Nỗi đam mê làm người trong thế kỷ 20. -Đỗ Đức Hiểu: Phê phán văn học hiện sinh chủ nghĩa (NXB Văn học H.1978); -Lịch sử văn học Pháp (5 tập) - đồng chủ biên. NXB Thế giới- 1990, 1992. - Đổi mới phê bình văn học (Phê bình - Tiểu luận). NXB Khoa học Xã hội và NXB Mũi Cà Mau, 1999. -Thi pháp hiện đại (Phê bình - Tiểu luận). NXB Hội Nhà văn, 2000.

Chú thích:

[I] Chủ nghĩa hiện sinh ((Existentialismlà từ dùng để nói về nghiên cứu của một nhóm các triết gia cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20, những người mà tuy khác nhau về học thuyết nhưng có chung niềm tin rằng tư duy triết học xuất phát từ chủ thể con người - không chỉ là chủ thể tư duy, mà là cá thể sống, cảm xúc, và hoạt động. Trong chủ nghĩa hiện sinh, xuất phát điểm của cá nhân được đặc tả bởi cái từng được gọi là "thái độ hiện sinh" (the existential attitude), hay một tình trạng mất định hướng và bối rối khi đứng trước một thế giới có vẻ như vô nghĩa và phi lý. Nhiều nhà hiện sinh cũng đã coi triết học hàn lâm hoặc triết học hệ thống truyền thống, ở cả phong cách cũng như nội dung, là quá trừu tượng và tách biệt khỏi trải nghiệm cụ thể của con người. Các triết gia hiện sinh khi dùng từ hiện sinh là họ muốn nói tới sự hiện tồn của con người. Họ không quan tâm gì đến sự tồn tại của thế giới vật chất. Khi đề cập đến sự hiện tồn của con người là họ muốn nói đến sự hiện hữu của từng cá thể đặc thù, chứ không phải tất cả loài người. Vấn đề của con người, trong cái nhìn của họ, là phải trở nên có ý thức đầy đủ về bản ngã chân thực của mình trong hoàn cảnh đặc thù mà hắn ta tìm thấy chính mình đang ở trong đó. Vấn đề cơ bản này không thể giải quyết bằng tư duy thuần lý và những ý tưởng trừu tượng về bản chất con người. Những qui luật phổ quát và những khái niệm chung chung không thể minh giải nổi vấn đề của con người hoàn toàn độc đáo, cụ thể, đặc thù. Không có những tiền lệ hay cẩm nang hướng dẫn hắn trên con đường khó nhọc và đầy lo âu là trở thành chính mình. Các nhà tư tưởng hiện sinh cho rằng thông qua “công trình” này, với sự kinh hãi và khắc khoải của nó, con người có thể có được sự nhận thức sâu xa và chắc chắn về thực tại - cái mà các triết gia truyền thống gọi là “hữu thể” - hơn bất kỳ phân tích lý lẽ trừu tượng, riêng lẻ nào có thể mang lại. Chân lý chỉ có thể chiếm hữu được bởi nhà tư tưởng hiện sinh trong hoàn cảnh cá nhân của hắn, chứ không bởi tư duy khách quan tách rời với cuộc hiện sinh của nhà tư tưởng. Sứ mệnh trở thành bản ngã của chính mình đòi hỏi sự quyết định, cam kết, “dấn thân”. Chính nhờ quyết định mà con người đạt tới sự hiện hữu tự thức, chứ không đơn thuần nhờ những lý tưởng cao vời hay những ý định tốt đẹp. Xem thêm nội dung của CNHS trong bài Chủ nghĩa Hiện sinh là một chủ nghĩa nhân bản.
[II]  Simone de Beauvoir (1908 - 1986) là một nhà văn và nhà triết học người Pháp theo Trường phái Thuyết hiện sinh, Thuyết bình đẳng giới. Bà viết các tiểu thuyết, chuyên đề về triết học, chính trị và các vấn đề xã hội, các bài luận, tiểu sự, tự truyện. Hiện nay bà được biết đến nhiều nhất với các tác phẩm tiểu thuyết trừu tượng, một tác phẩm phân tích về sự áp bức phụ nữ và đề tài bình đẳng giới.
(1) Jean-Paul Sartre (1905-1980): Nhà văn, nhà triết học Pháp. Sartre học tại trường Sư phạm Paris (École normale supérieure ), trở thành giáo sư triết học tại Le Havre năm 1931. Trong thời gian này Sartre làm quen với Simone de Beauvoir, một nhà văn lớn sau này trở thành học trò và bạn đời của ông. Năm 1932, ông theo học triết học của Edmund Husserl (1*) và Martin Heidegger (1**). Sau khi tiếp tục dạy ở Le Havre và ở Lyon, Sartre dạy ở trường trung học Pasteur ở Paris trong thời gian 1937-1939. Cuối thập niên 1930 Sartre bắt đầu viết những tác phẩm lớn của đời mình, trong đó có La Nausée (Buồn nôn, 1938), Le Mur (Bức tường, 1939), là những cuốn sách tiêu biểu cho dòng văn học phi lý đã giúp Sartre trở thành một trong những nhà văn hóa lớn nhất của nước Pháp thời kỳ này.
Khi Thế Chiến Thứ Hai bùng nổ, J. P. Sartre bị động viên vào ngày 2/9/1939. Sartre bị quân Đức Quốc Xã bắt vào tháng 6-1940 tại và bị giữ làm tù binh 9 tháng. Tới tháng 4 -1941, ông được thả ra vì mắt kém và sức khỏe suy nhược. Sau đó J. P. Sartre dạy học tại trường trung học Pasteur ở ngoại ô Paris, rồi chuyển về trường trung học Condorcet…Trong thời gian này, 3 cuốn sách ra đời: "Tồn tại và Hư Vô" (L'Être et le Néant-1943), " Ruồi" (Les Mouches-1943) và vở kịch "Xử Kín" (Huis-clos -1944). L' Etre et le Néant  đã khiến cho nền triết học của J. P. Sartre được đưa lên hàng đầu của các cuộc thảo luận trí thức sau Thế Chiến Thứ Hai. Trong tác phẩm triết học ban đầu này, J.P. Sartre đã coi con người là các thực thể, họ tạo nên thế giới của riêng họ bằng cách nổi loạn chống lại giới quyền lực và chấp nhận các trách nhiệm cá nhân vì các hành động của họ, mà không cần sự giúp đỡ của xã hội, của niềm tin tôn giáo hay đạo đức cổ truyền. Tác giả cũng cho rằng sự hiện hữu của con người mang đặc tính hư vô do khả năng chối bỏ và nổi loạn. Các tiểu thuyết và các vở kịch của J.P. Sartre đã diễn tả niềm tin theo tác giả, rằng tự do và nhận trách nhiệm cá nhân là các giá trị chính trong đời sống và các cá nhân phải trông vào các khả năng sáng tạo của chính mình hơn là nhờ cậy các chính quyền xã hội hay tôn giáo. Vở kịch đầu tiên của Sartre, "Ruồi" (Les Mouches) đã cứu xét các chủ đề về cam kết và trách nhiệm.Tác giả đã dùng truyền thuyết cổ Hy Lạp trong đóOrestes đã giết chết các thủ phạm sát hại Agamemnon và như vậy đã giải phóng người dân của thành phố khỏi gánh nặng tội phạm. Theo quan điểm hiện sinh của Sartre, chỉ người nào chọn trách nhiệm hành động trong một hoàn cảnh đặc biệt như của Orestes, là người đã xử dụng hữu hiệu nền tự do của chính mình. Trong vở kịch thứ hai, "Xử Kín" (Huis-clos), một người đàn ông chỉ yêu mình, một người đàn bà đồng tính luyến ái, một người đàn bà bị chứng cuồng dâm, tất cả sẽ phải bắt buộc sống trong một căn phòng nhỏ sau khi chết, và vào cuối vở kịch, họ còn là các kẻ nô lệ cho các đam mê của họ sau khi nhận thức được rằng "Địa Ngục là các kẻ khác" (L' Enfer, c' est les autres).  Năm 1941, Sartre trở về Paris tiếp tục dạy học, viết văn, kết bạn với Albert Camus. Nhưng đến năm 1952, tình bạn giữa hai người tan vỡ do bất đồng quan điểm. Tuy nhiên, cuộc tranh luận của Jean-Paul Sartre với Albert Camus nổi tiếng văn đàn đương thời không chỉ vì cả hai đều là văn tài mà còn thể hiện tính cao thượng của tình bạn. Bài Réponse à Albert Camus  (Trả lời Albert Camus) thể hiện tiêu biểu tình bạn của Sartre trong văn chương: hiểu và đánh giá đúng Camus cả về con người, hành động, tư tưởng, văn chương. Có lẽ ít khi Camus được đọc một bài viết về mình hay, sâu sắc như trong bài viết của Sartre. Và Camus đã nói về Sartre: Đối với chúng tôi ông đã từng là - và nay mai vẫn có thể lại là - sự kết hợp tuyệt vời của một con người, một hành động, một tác phẩm. Trong bài đó, Sartre giải thích vì sao Camus đạt đến một đỉnh cao của văn chương Pháp cũng như vì sao Camus đi vào ngõ cụt, thành nhân vật long trọng, hình thức, ngay trong văn chương. Sau cuộc tranh luận này, trong 2 số của Tạp chí Thời Mới (Les Temps Modernes), một nhà văn tường thuật lại nhận xét của Camus về Sartre. Nhà văn nọ, người ủng hộ Camus, chống Sartre, gặp Camus trong một quán café ở Paris, lôi chuyện ấy ra bàn. Camus nói: con người này [Sartre] có một điều gì ma quái (diabolique) nhýng không bao giờ hạ lýu (bassesse). Khi Camus chết, Sartre viết một bài rất hay, chân tình. Mối quan hệ của hai người đặc biệt đến mức, khi nói đến Sartre, không thể không nhắc đến Camus; cũng vậy, khi nói đến Camus, không thể không nhắc đến Sartre.
L'Être et le Néant (Tồn tại và hư vô, 1943là công trình triết học chính của  J.P. Sartre, đã trở thành thánh kinh với lớp trẻ trí thức Pháp. Trọng tâm triết lí của Sartre trong toàn bộ sáng tác là con người tự do đánh giá ý nghĩa cuộc đời mình, tự chịu trách nhiệm về những hành động của mình. Tồn tại và hư vô là sự tổng hợp quan điểm chính của Sartre về cuộc sống. Chủ nghĩa nhân đạo hiện sinhmà J. P. Sartre truyền bá trong tiểu luận nổi tiếng Chủ nghĩa hiện sinh là chủ nghĩa nhân bản cũng được thể hiện rõ trong tiểu thuyết bộ ba Les chemins de la liberté (Những con đường của tự do, 1945-1949). Tác phẩm nói về các nhân vật bị dằn vặt vì những lựa chọn, những nguyên tắc, những đòi hỏi và sự khao khát tự do; và chính trong hành trình đến với tự do hay chối bỏ tự do là điều kiện cho sự hiện hữu của các nhân vật này. Tác phẩm này là một tiếp cận ít lý thuyết và nhiều thực tế hơn, giúp cho nhiều người hiểu rõ chủ nghĩa hiện sinh. Cũng trong thời gian này, sau Thế chiến Thứ Hai, Sartre nghiên cứu chủ nghĩa Marx, thành lập tạp chí Thời mới(Les temps modernes), tuyên truyền các ý tưởng cách mạng, hoạt động xã hội, cùng với B. Russell thành lập ủy ban chống tội ác chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam. Ông tin tưởng rằng bên trong văn chương và triết học vốn đã có chính trị, theo chức năng, nếu không phải là theo nội dung. Ông mang niềm tin rằng một tác gia hay một nghệ sĩ phải tạo nên hy vọng làm thay đổi trật tự xã hội, vì vậy ông đã dấn thân, viết nhiều để bênh vực cho các cuộc tranh đấu, nhất là chống lại chế độ thuộc địa của nước Pháp tại châu Phi.  Những năm cuối đời J. P. Sartre bị mù, tình trạng sức khỏe của ông suy kém dần, cuốn Phê Phán (The Critique) và cuốn Kẻ ngu đần của gia đình (L' idiot de la famille), tiểu sử phân tích về Gustave Flaubert, đều chưa hoàn thành. Jean Paul Sartre qua đời vào ngày 15/4/1980 tại Paris vì bệnh phổi và được an táng trong Nghĩa Trang Montparnasse ở Paris. Đám tang của Sartre có hơn 50.000 người tham dự.
Tác phẩm tiêu biểu: La Nausée (Buồn nôn, 1938), tiểu thuyết; Le Mur (Bức tường, 1939), truyện; L'Être et le Néant (Tồn tại và hư vô, 1943), tác phẩm triết học; Les Mouches (Ruồi, 1943), kịch; Huis clos(Xử Kín, 1944), kịch; La putain respectueuse (Con đĩ biết lễ nghĩa, 1946), kịch; L'existentialisme est un humanisme (Chủ nghĩa hiện sinh là chủ nghĩa nhân bản, 1946), tiểu luận;  Văn Chương là gì?(Qu' est ce que la littérature?,1947), tiểu luận; Các hoàn cảnh(Situations, 1947-1965);  Les chemins de la liberté (Những con đường của tự do, 1945-1949), tiểu thuyết; Le Diable et le Bon Dieu(Ác Quỷ và Thượng Đế) (Chúa của Ky-tô giáo),1951, kịch; Saint Genet, comédien et martyr (Thánh Genet, kịch sĩ và người tử vì đạo,1952), phê bình Jean Genet; Critique de la raison dialectique(Phê phán lí trí biện chứng, 2 tập, 1960), khảo luận; Chủ nghĩa hiện sinh và các cảm xúc của con người (Existentialism and Human Emotions, 1957); Les Mots (Lời nói, 1964), hồi ký.
(1*) Edmund Husserl (1859-1938): là nhà toán học, triết gia người Đức, tác giả của Hiện tượng học - đã có ảnh hưởng lớn và kéo dài với nhiều biến thể khác nhau đối với giới học thuật châu Âu thế kỷ 20. Chuyên khảo xuất bản lần đầu của Husserl, cuốn Philosophy of Arithmetic (Triết học về Số học), xuất bản năm 1891. Trong cuốn này, Husserl kết hợp các năng lực toán học, tâm lý học và triết học của mình để gắng đặt một nền tảng tâm lý học cho số học. Sau đó Husserl đã phát triển phương pháp triết học của mình và trở nên nổi danh cho đến tận ngày nay: đó là Hiện tượng học (Hiện tượng luận)Edmund Husserl đã có nhiều đóng góp quan trọng cho hầu hết mọi lĩnh vực triết học và đã dự báo các ý niệm trung tâm của các bộ môn họ hàng với nó như Ngôn ngữ học, Xã hội học và Tâm lý học nhận thức (tri nhận). Hiện tượng học của Husserl và những suy nghiệm của Heidegger đã tạo nên cơ sở cho sự hình thành một tư tưởng triết học mới và làm bùng nổ một trào lưu văn học mới của thế kỷ 20 - triết học hiện sinh. Trong đó, người đại diện tiêu biểu làJ.P. SartreHusserl đã khẳng định: “Hiện tượng học là một môn khoa học, là quan hệ giữa các môn khoa học khác nhau. Nhưnghiện tượng học đồng thời lại là, và trước hết là một phương pháp và thái độ: thái độ tư duy triết học đặc biệt và phương pháp triết học đặc biệt”. Đó là trực tiếp quan sát thế giới bên ngoài, nhìn nhận thế giới một cách chính xác. Cách nhìn nhận thế giới theo quan điểm “Quay về với bản thân sự việc” là phương pháp hoàn nguyên. Trong đó, hoàn nguyên của hiện tượng học bao gồm hoàn nguyên tiên nghiệm và hoàn nguyên bản chất. Phương pháp hoàn nguyên tiên nghiệm là cách thức thay đổi quan điểm lập trường đối với thế giới bên ngoài.  Hiện tượng học không dựa vào tiêu chuẩn của bất cứ khoa học nào, mà là dựa vào tiêu chuẩn của mình để quyết định lựa chọn - vứt bỏ hay bảo lưu - các vật thực thể và phi thực thể. Kết quả của một loạt việc gạt bỏ nói trên đưa chúng ta đến lĩnh vực ý thức thuần túy thuộc về thế giới quan niệm. Phương pháp hoàn nguyên tiên nghiệm chỉ là cách thức chứ chưa phải là bản thân việc nghiên cứu. Việc nghiên cứu giữa nhận thức và đối tượng được nhận thức cần phương pháp hoàn nguyên bản chất. Điều này có nghĩa là phải nắm bắt đối tượng sau đó mới nắm bắt bản chất đối tượng. Tương ứng với phương pháp hoàn nguyên bản chất là hoạt động trực quan. Hoạt động trực quan nâng cấp dần từ cảm tính lên bản chất. Theo Husserl, đó là sự biến đổi của tưởng tượng tự do thoát ra khỏi vật “sự thật” đạt tới vật “bản chất”. Quá trình biến đổi của tưởng tượng đó phức tạp và chúng ta có thể tự do tạo ra những biến dạng trong quá trình tưởng tượng. Tuy có sự đa dạng và biến đổi nhưng việc nắm được bản chất lại phụ thuộc vào sự nhận biết tính thống nhất. Điểm cốt lõi trong triết thuyết của Husserl cũng tương tự như Kant (1*1), đó là cái tôi tư duy. Nhưng điều làm nên sự khác biệt căn bản và đó cũng là tiền đề để sau Husserl hình thành nhiều trường phái triết học và lý luận ảnh hưởng đến nhân loại là phương pháp luận. So với Kant, cách tư duy của Husserl là động, tức mọi giá trị không phải là bất biến hay đã được định vị cụ thể mà các giá trị chỉ được thiết lập trong quá trình hoàn nguyên ở mỗi người.
(1*1) Emmanuel Kant (1724-1804) là nhà triết học Đức, có ảnh hưởng rất lớn đối với toàn bộ triết học Tây phương hiện đại. Khái niệm Không gian và Thời gian của Kant cơ bản vẫn là khái niệm phổ cập trong văn hóa Tây Âu ngày nay. Kant có kiến thức vững vàng trong nhiều ngành khoa học thời ông: toán, vật lý, v.v… Những nhà vật lý hiện đại có quan điểm rất khác về Không gian - Thời gian. Trong bài Le temps, son cours et sa flèche, nhà vật lý Étienne Klein (1*2) viết về vấn đề này như sau: “…vật lý không tìm cách giải đáp vấn đề “bản chất” của thời gian … Nó tìm cách tốt nhất để biểu hiện thời gian, và đó là một vấn đề hoàn toàn khác. Thực ra, những nhà vật lý đã biến thời gian thành một khái niệm hữu dụng (concept opératoire) tuy họ không định nghĩa được nó một cách chính xác…”.
(1*2) Stephen Klein là một nhà vật lý người Pháp, sinh năm 1958. Ông là một cựu sinh viên của trường Ecole Centrale Paris và kiếm được một Master của vật lư lư thuyết . Sau đó, ông hoàn thành một tiến sĩ triết học của khoa học và kiếm được một habilitation giám sát nghiên cứu (HDR). Ông đã dạy cho một số năm vật lý lượng tử và vật lý hạt tại Ecole Centrale Paris, và hiện đang là giáo sư Triết học Khoa học . Ông chuyên về các vấn đề của thời gian trong vật lý, và tác giả của nhiều cuốn sách phổ biến. Ông là thành viên của Hội đồng tư vấn của Viện Diderot .   Etienne Klein còn nói: “Không có gì khác biệt hơn giữa cách làm việc của khoa học và cách làm việc của nhân văn. Một đằng, triết học chẳng hạn, thiên về thuần suy tưởng, thuần khái niệm; một đằng, khoa học chú tâm vào lý thuyết và thực nghiệm”.
(1**) Martin Heidegger (1889-1976), là triết gia người Đức, chịu ảnh hưởng của triết học Brentano (1**1), sau khi nghiên cứu, ông quyết định tìm hiểu ý nghĩa của khái niệm tồn tại và cấu trúc bản thể của tồn tại người. Heidegger từng là học trò và là trợ giảng choHusserl, sau đó đã kế tục Husserl dạy triết học tại đại học tổng hợp Freiburg. Một số tác phẩm tiêu biểu của Heidegger: Sein und Zeit (Tồn tại và thời gian, 1927), “ Kant và vấn đề siêu hình học”; “Nhập môn siêu hình học” (1935)…Heidegger có ảnh hưởng lớn đến toàn bộ nền triết học châu Âu. Là môn đệ của Husserl, nhưng Martin Heidegger không đi theo con đường của Husserl mà cũng không phải là người theo triết học hiện sinh. Có thể nói, Heidegger là chiếc cầu nối giữa hiện tượng học và triết học hiện sinh. Bởi vì Heidegger không dựa trên toàn bộ lý luận của Husserl về hiện tượng học tiên nghiệm mà chỉ cải tạo phương pháp hiện tượng học và vận dụng vào việc phân tích sinh tồn. Heidegger đã đặt câu hỏi: cái gì mà nhờ nó mọi vật hiện thể mới trở thành hiện thể? Cách đặt vấn đề của Heidegger khác với các quan điểm triết học trước đó nhìn về con người theo cách tồn tại hiện có của vật thể; mà theo ông điều cần quan tâm là xem sự tồn tại không phải là một vật thể cũng không phải là một hiện thể.
Heiderger với học thuyết Bản thể luận đã khẳng định “tồn tại người mới là đối tượng của triết học”.  Bản thể luận củaHeidegger là học thuyết về tồn tại con người, về cấu trúc của tồn tại con người. Heidegger cho rằng, triết học Châu Âu trước đó chỉ đặt ra vấn đề hiện hữu nói chung và sự hiện hữu tối cao là Chúa, chứ không đặt ra vấn đề: thông qua cái gì mà tất cả mọi sự hiện hữu mới có thể là hiện hữu? Tức là triết học truyền thống đã không đặt ra vấn đề tồn tại ngườiHeidegger cho rằng tồn tại người là xuất phát điểm, là hiện thực đầu tiên có tính thứ nhất. Khác các hiện hữu khác, tồn tại người là một hiện hữu ý thức được sự hiện hữu của chính mình, tức là có khả năng nhận thức, khả năng tự hỏi về vấn đề hiện hữu. Tồn tại không phải là các sự vật và nó cũng khác hiện hữu. Tồn tại người là nền tảng, là nguồn gốc của toàn bộ hiện hữu. Nếu đối tượng nghiên cứu của bản thể luận truyền thống là vật thể, hay cao hơn nữa là Chúa trời thì đối tượng nghiên cứu của bản thể luận chính là tồn tại. Theo Heidergertồn tại chính là cái định đoạt sự vật như là sự vật, là cái trên cơ sở đó sự vật đã được hiểu. Trong các vật thể, con người là một loại đặc biệt. Sự đặc biệt đó, theo Heiderger là do trong sự tồn tại của con người có sự hiện diện sự hiểu biết về tồn tại. Chỉ trong sự tồn tại của con người mới tiềm ẩn một sự hiểu biết về tồn tại. Nó thể hiện trong cách sống của con người, trong cách con người liên hệ với các vật thể khác. Heidegger phân biệt hiện hữu là khác với tồn tại, hiện hữu là một cái gì đó được hình thành và có được bằng một cách nào đó. Bản thân hiện hữu có tính hữu hạn và tính đặc thù. Hiện hữu có nền tảng là tồn tại ngườiHiện hữu là đối tượng của các khoa học tự nhiên (vật lý, hóa học…) và các khoa học xã hội nhân văn (sử học, xã hội học, nhân học…), trong khi đó chỉ có tồn tại người mới là đối tượng của triết học.
 (1**1) Franz Brentano (1838-1917): nhà triết học người Áo, có vai trò trung tâm trong sự phát triển triết học của châu Âu trung tâm đầu TK 20. Nổi tiếng với những tác phẩm về Triết học, Tâm lý học, đặc biệt là ý niệm về tính ý hướng cho triết học đương đại. Là người có phong cách nghiêm ngặt cũng như luận điểm cho rằng triết học phải được thực hiện bằng những phương pháp chính xác giống như các khoa học, nên Brentano thường được xem như một người tiên phong của cả phong trào Hiện tượng học lẫn truyền thống Triết học Phân tích.
(2) Albert Camus (1913 -1960) là một nhà văn, triết gia người Pháp. Cùng với Jean-Paul Sartre, Albert Camus là đại diện tiêu biểu nhất của chủ nghĩa hiện sinh. Ông là tác giả của các tiểu thuyết nổi tiếng L'Étranger (Người xa lạ), La Peste (Dịch hạch). Albert Camus được trao tặng Giải Nobel Văn học năm 1957 vì các sáng tác văn học của ông đã “đưa ra ánh sáng những vấn đề đặt ra cho lương tâm loài người ở thời đại chúng ta”. Nhiều tác phẩm của Camus đã được dịch ra tiếng Việt, riêng Người xa lạ có tới 6 bản dịch của 6 dịch giả…Gia đình của Abert Camus sống ở thủ đô Alger và trong thời gian học tập ở đây, ông bắt đầu tìm hiểu Friedrich Nietzsche (2*). Sau khi tốt nghiệp trung học, Camus học triết học ở Đại học Alger... Sau một thời gian làm báo ở Alger, năm 1938, Albert đến Paris làm biên tập cho tờ Paris-Soir. Năm 1942, Camus phát hành cuốn tiểu thuyết L'Étranger (Người xa lạ) và tiểu luận Le Mythe de Sisyphe (Huyền thoại Sisyphe), trong đó ông đã trình bày những tư tưởng triết học của mình. Sisyphe là một nhân vật trong thần thoại Hy Lạp bị trừng phạt phải lăn một hòn đá lớn lên núi dốc, khi đến đỉnh hòn đá lại rơi trở xuống chân dốc, cứ thế Sisyphe tiếp tục lăn lên rồi rơi xuống theo một chu kỳ vĩnh cữu. Theo hệ sự phân loại của riêng Albert, các tác phẩm đó thuộc “thời kỳ phi lý” (cycle de l'absurde), cùng với các vở kịch Le Malentendu (Ngộ nhận, 1944) và Caligula(1945). Năm 1943, ông làm việc cho nhà xuất bản Gallimard rồi làm chủ biên tập báo Combat (Chiến đấu), cũng trong năm này ông gặp và kết bạn với Jean-Paul Sartre. Những tác phẩm tiếp theo của Camus thuộc “thời kỳ nổi loạn” (cycle de la révolte), trong đó nổi tiếng hơn cả là La Peste (Dịch hạch, 1947), kế đến là L'Homme révolté (Người nổi loạn, 1951). Trong tiểu luận triết học Người nổi loạn, Camus đã trình bày tất cả các hình thức nổi loạn (siêu hình, chính trị và nghệ thuật...) qua mọi thời đại. Ông miêu tả con người cảm nhận sâu sắc sự phi lý của cuộc sống, luôn muốn nổi dậy, chống lại nỗi khốn khổ của kiếp người, nhưng cuối cùng vẫn không có lối thoát, mọi cố gắng đều hoàn toàn vô ích.
(2*) Friedrich Wilhelm Nietzsche (1844 -1900): nhà triết học người Phổ, bắt đầu sự nghiệp như là một nhà ngữ văn học và viết nhiều bài phê bình về tôn giáo, đạo đức, các vấn đề văn hóa và triết học. Các tác phẩm của Nietzsche nổi bật với phong cách thường mang tính ẩn dụ và nhiều nghịch lý hơn là mức độ thông thường của các bài luận triết học. Nietzsche không được đánh giá cao bởi những người đương thời trong suốt cuộc đời của ông, nhưng đầu thế kỉ 20, ông đã được giới trí thức ở Đức, Pháp và Anh công nhận. Sau Thế chiến thứ 2, triết gia Walter Kaufmann (8) bắt đầu một cố gắng bền bỉ nhằm khôi phục lại danh tiếng của Nietzsche trong các nước nói tiếng Anh, và vào nửa sau của thế kỉ 20 Nietzsche đã được xem là một nhân vật quan trọng có ảnh hưởng lớn trong triết học hiện đại. Trực tiếp và gián tiếp (thông qua Martin Heidegger), Nietzsche đã ảnh hưởng đến thuyết hiện sinh (existentialism), chủ nghĩa hậu hiện đại (postmodernism), phân tâm học (psychoanalysis) và nhiều tư tưởng theo sau đó. Nietzsche đã có một tuyên bố nổi tiếng rằngChúa đã chết (Gott ist tot), và cái chết này hoặc dẫn đến chủ nghĩa quan điểm cấp tiến (perspectivism) hoặc buộc người ta phải đối diện với thực tế rằng chân lý đã luôn luôn mang tính quan điểm (perspectival).

(3) Văn học phi lý: …Văn học phi lý đã tạo nên một cú sốc khi Jean-Paul Sartre phá vỡ tính logic của các sự kiện thời gian, dường như con người hoàn toàn bị mù lẫn trong thời gian (E. IonescoNữ ca sĩ hói đầu) và không gian (E. IonescoNhững chiếc ghế), hoàn toàn mất phương hướng, lạc loài, vô vọng trong cả không gian và thời gian (S. Beckett, Chờ Godot). Trong vở kịchNữ ca sĩ hói đầutính phi lý của sự tồn tại cũng như sự vô nghĩa lý trong đời sống tinh thần của nhân vật được biểu hiện rõ qua sự phi lý của thời gian, trình tự thời gian tuyến tính của tất cả các sự kiện không chỉ bị đảo lộn mà còn hoàn toàn bị phá vỡ. Các nhân vật nói năng một cách hết sức phi lý bởi vì họ chẳng ý thức được mình nói gì, một đời sống tình thần rỗng tuếch, nhạt nhẽo, tê liệt mọi năng lực cảm xúc và nhận thức được biểu hiện qua những lời lẽ hoàn toàn vô nghĩa, vô cảm khi họ nói về mình cũng như những người khác. Khái niệm “phi lý” được các nhà hiện sinh nhưJ.P.Sartre, A.Camus đề cập, và dần xuất hiện trên các sân khấu thể nghiệm, kịch tiền phong hồi thập niên 50-60 của thế kỷ trước, với vở Nữ ca sĩ hói đầu của E.Ionesco (3*) và Chờ Godot của Samuel Beckett (3**). Sau vở diễn này, mấy năm sau thì Beckett được trao giải Nobel, với ngợi ca là “các sáng tác của ông sử dụng những dạng thức mới của tiểu thuyết để biến đổi sự nghèo khổ, túng quẫn của con người hiện đại thành niềm hạnh phúc tột cùng”.

(3*) E.Ionesco (1912 - 1994): Cùng trong xu thế phản kháng xã hội, kịch thế kỉ 20 cũng phát triển mạnh với nhiều trường phái như kịch tàn bạo, kịch Dada kịch siêu hình, kịch chính trị, kịch siêu nhiên …trong đó là nổi lên hàng đầu là trào lưu kịch phi lí xuất hiện và phát triển mạnh vào đầu thập niên năm mươi. Thời gian tồn tại của kịch phi lí chỉ vẻn vẹn mười năm, với bốn đại diện Jean Genet (1910 - 1986), E.Ionesco, S.Beckett  Adamov (1908 - 1970). Song trào lưu này đã mang lại cho sân khấu một luồng gió mới và đặc biệt là những cách tân  nghệ thuật táo bạo, đã ảnh hưởng không nhỏ tới kịch tác gia đương đại và dư âm của nó còn kéo dài mãi về sau
(3**) Samuel Barclay Beckett (1906 -1989), nhà văn, nhà soạn kịch Ailen. Tác phẩm đầu tay viết bằng tiếng Anh, sau 1945 chủ yếu viết bằng tiếng Pháp. Cùng với E. Ionesco,  S. Beckett trở thành cây bút nổi tiếng trong trào lưu kịch phi lí ở Pháp. Tác phẩm phản ánh tâm trạng bi quan tuyệt vọng về thân phận con người. Giọng điệu vừa hài hước vừa bi đát. Giải thưởng Noben (1969). Samuel Becketthọc ở trường Cao đẳng ở Dublin, khoa Văn học Hiện đại; học tiếng Pháp, tiếng Ý tại học viện Trinity tại Dublin. Tốt nghiệp, Beckett dạy học ở Belfast, sau đó đến Paris. Đề tài về tính chất phi lí của sự tồn tại xuyên suốt toàn bộ sáng tác về sau của Beckett. Mặc dù tiểu thuyết chiếm chỗ quan trọng trong sáng tác của Samuel Beckett nhưng làm ông nổi danh thế giới lại là vở kịch En atttendant Godot(Chờ Godot, 1946). Cùng với thể loại kịch hoàn toàn mới - bị tước bỏ ý nghĩa và hành động kịch - Beckett đã đưa triết học hiện sinh chủ nghĩa lên sân khấu và gây sự kích động mạnh mẽ trong công chúng và cả giới phê bình. Fin de partie (Tàn cuộc chơi) là vở kịch thành công lớn thứ hai của ông. Di sản của Samuel Beckett khá đồ sộ, gồm khoảng 20 vở kịch, 8 tiểu thuyết, 5 tập truyện ngắn, 7 tập sách viết ngắn, 6 tuyển tập thơ, 4 cuốn tiểu luận, 5 tác phẩm dịch và nhiều chương trình phát thanh, truyền hình, phim... Ở Việt Nam, kiệt tác kịch phi lý được nhắc tới nhiều nhất là Chờ Godot (En attendant Godot) được dịch và xuất bản lần đầu tiên năm 1969 - trước khi Samuel Beckett đoạt giải Nobel.
 (4) Franz Kafka Franz Kafka (1883 - 1924) là một trong những nhà văn lớn của thế kỉ 20. Tác phẩm của  Kafka - rất nhiều chưa hoàn thành và phần lớn xuất bản sau khi ông mất - đã trở thành những tác phẩm có tầm ảnh hưởng bậc nhất của văn học phương Tây.  Các tác phẩm nổi tiếng: tiểu thuyết ngắn Die Verwandlung (Hóa thân-1915); và các tiểu thuyết chưa hoàn thành Der Prozess (Vụ án-1925), Das Schloß (Lâu đài -1926)…    (5) Fedor Mikhailovitch Dostoievski (1821-1881) là một đại văn hào Nga, có ảnh hưởng đến nhiều nhà văn và nhà triết học. Về mặt tư tưởng, ông cũng được coi là một trong những người góp phần quan trọng cho sự hình thànhthuyết Hiện sinh. Tác phẩm chính: Tội ác và hình phạt (1866),Chàng ngốc (1868), Lũ người quỷ ám (1871), Anh em nhà Karamazov (1880). Dostoievsky nói: “Nếu Thượng đế không hiện hữu, mọi sự đều được phép.”  Đấy chính là điểm xuất phát của thuyết Hiện sinh.
(6) Soren Kierkegaard (1813-1855): là triết gia và là nhà thần học người Đan Mạch thế kỷ 19. Phần lớn nội dung các tác phẩm của Kierkegaard chú ý vào các vấn đề tôn giáo. Kierkegaard chọn lựa phương cách để độc giả tự khám phá thông điệp và ý nghĩa các tác phẩm của ông, bởi vì “đây là một việc khó khăn, nhưng chỉ có sự khó khăn mới có thể truyền cảm hứng cho những tâm hồn cao thượng”. Do đó, nhiều người đã tìm cách giải thích Kierkegaard như là người có khuynh hướng hiện sinh, tân chính thống, hậu hiện đại, chủ nghĩa cá nhân, v.v…
(7) Gabriel Marcel (1889-1973): nhà triết học, phê bình văn học, nhà soạn kịch người Pháp, đại diện phái Kitô giáo trong  triết học  hiện sinh. (8) Walter Arnold Kaufmann (1921-1980): Triết gia người Đức, ông còn là một nhà thơ nổi tiếng… (8*) Paul Johannes Tillich(1886-1965) là nhà Thần học người Mỹ gốc Đức.  (9) Martin Buber(1878 - 1965): nhà thần học và triết gia người Do Thái sinh tại Áo. Ông là lãnh tụ tinh thần của người Do Thái sống ở Đức trước Thế Chiến 2 và trình bày triết học tôn giáo nhiều ảnh hưởng của ông trong tác phẩm nổi tiếng nhất I and Thou (Ta và Ngươi; 1922).  (10) Karl Theodor Jaspers (1883-1969) là nhà tâm thần học và triết học người Đức, đại diện cho triết học hiện sinh Kitô giáo.  (11) Francis Jeanson (1922-2009): triết gia Pháp.
(12) Tuyên dương của Viện Hàn lâm Thụy Điển do Anders Osterling, Thư ký thường trực Viện Hàn lâm Thụy Điển đọc trong lễ trao giải Nobel Văn chương cho Albert Camus năm 1957 (trích):
“…Camus cũng là đại diện của tư trào triết học có tên là Chủ nghĩa Hiện sinh (Existentialism), một triết thuyết xác định vị trí con người trong vũ trụ bằng cách khước từ mọi giá trị cá nhân, và thấy trong cái cá nhân đó chỉ có sự vô lý . Thuật ngữ “vô lý” thường xuất hiện trong trước tác của Camus, đến độ ta có thể coi “vô lý” là chủ đề xuyên suốt mọi tác phẩm của ông, phát triển trong toàn bộ các hệ quả lô-gích và đạo đức trên các cấp bậc tự do, trách nhiệm và mọi điều thống khổ sinh ra từ đó. Cái huyền thoại Sisyphus, kẻ vĩnh viễn lăn tảng đá lên đỉnh núi để rồi từ đó lại lăn xuống, ở một trong các tiểu luận của Camus trở thành biểu trưng ngắn gọn của đời người. Nhưng theo cách diễn giải của Camus, tận đáy lòng Sisyphus lại thấy thỏa mãn sung sướng vì thử thách đó. Với Camus, điều quan trọng chẳng còn là chuyện biết đời đáng sống hay không đáng sống, mà là cách con người phải sống cuộc đời đó, với toàn bộ những thống khổ gây ra từ nó.[…] nếu ta đi vào những sáng tác mà trong đó, bằng cách sử dụng một nghệ thuật có văn phong trong sáng đến mức hoàn toàn kinh điển và sự tập trung cao độ, ông thể hiện những vấn đề đó khéo đến mức các nhân vật và hành động làm cho tư tưởng ông sống động trước mắt chúng ta mà không cần đến một lời bình của tác giả. [...] Cá nhân Camus đã vượt xa chủ nghĩa hư vô. Những suy tư nghiêm túc và khắc nghiệt của ông về sứ mệnh phục hồi không ngưng nghỉ mọi thứ gì đã bị hủy hoạivà sứ mệnh đem lại công bằng trong một thế giới bất công khiến ông trở thành nhà nhân văn song vẫn không quên tôn thờ sự cân đối và cái đẹp kiểu Hy Lạp …[…]Tích cực và vô cùng sáng tạo, Camus nằm ở tâm điểm chú ý của giới văn chương ngay cả bên ngoài nước Pháp. Được kích thích từ một sự dấn thân thực thụ về đạo đức, ông hiến toàn bộ đời mình để tìm câu trả lời cho những câu hỏi lớn của Đời, và chắc chắn khát vọng đó của ông phù hợp với mục đích lý tưởng mà Giải Nobel này có là vì nó. Phía sau lời khẳng định không ngừng của ông về tính vô lý của thân phận con người hoàn toàn không phải là sự phủ định sạch trơn không xây dựng. Cách nhìn sự vật này được bổ sung trong ông bằng một sức thúc đẩy mạnh mẽ vô cùng, một lời kêu gọi không bao giờ dứt hướng tới ý nguyện kích thích con người nổi loạn chống lại sự vô lý, và vì lẽ đó mà tạo ra được giá trị”.
Diễn từ của Albert Camus (trích) : “…Đồng thời, vai trò của nhà văn cũng không được tách khỏi những nhiệm vụ khó khăn. Phải định nghĩa về vai trò nhà văn, ngày nay anh ta không thể là kẻ phục vụ những con người làm nên lịch sử, mà anh ta phải phục vụ những con người tuân thủ lịch sử. Nếu không, anh ta sẽ bị cô độc và bị tước mất nghệ thuật.
…Không cá nhân nào trong chúng ta đủ lớn để thực hiện sứ mệnh đó. Nhưng trong mọi hoàn cảnh đời mình, dù chưa có tiếng tăm hay tạm thời nổi tiếng, dù bị vứt trong gông xiềng chuyên chế hay đã có chút tự do thể hiện, nhà văn có thể bắt gặp lại tình cảm của cái cộng đồng sống sẽ biện minh cho anh ta, với điều kiện duy nhất là nhà văn cố hết sức chấp nhận thực hiện hai gánh nặng làm nên sự cao quý của nghề văn là: phụng sự chân lí và phụng sự tự do. Do chỗ cái nghiệp nhà văn là tập hợp sao cho được nhiều con người nhất, cái nghiệp ấy cũng không cho nhà văn thích nghi với dối trá và nô dịch, những thứ ngự trị ở đâu thì lại làm đẻ ra những nỗi cô đơn. Cho dù cá nhân chúng ta có què quặt tới mức nào, thì sự cao quý của nghiệp văn vẫn luôn luôn đâm rễ vào hai cam kết khó giữ là: khước từ nói dối những gì ta biết, và cưỡng lại sự áp bức. […] Hơn hai mươi năm sống trong một lịch sử điên loạn, chết không được cứu vớt, sống như tất cả mọi người cùng tuổi với tôi trong những cơn co quắp của thời đại, tôi đã ðýợc nâng ðỡ bằng cái tình cảm kín đáo rằng viết văn là một vinh dự bởi vì hành động này ràng buộc tôi và bó buộc tôi không chỉ vào một việc viết. Hành động này đặc biệt bó buộc bản thân tôi cùng với mọi con người đã trải qua cùng một thời lịch sử ấy phải chia sẻ với nhau một nỗi đau hi vọng. [… ] Dĩ nhiên là mỗi thế hệ đều tưởng mình có nghĩa vụ xây dựng lại thế giới. Có điều là thế hệ của tôi lại biết rằng nó sẽ không xây dựng lại được thế giới ấy. Nhưng nhiệm vụ thế hệ tôi lại to tát hơn, đó là ngăn chặn một thế giới đang bị tàn phá. Thừa hưởng một lịch sử đồi bại, thời kì pha trộn những cuộc cách mạng thất bại, những kĩ thuật đang trở thành điên rồ, những thần linh đã chết và những hệ tư tưởng kiệt sức, thời kì của những quyền lực tầm thường đủ sức hủy diệt nhưng không có sức thuyết phục ai, thời kì trí tuệ tự hạ mình đến mức chỉ để phục vụ cho thù hận và áp bức, cái thế hệ này của tôi, từ những phủ định của chính mình, đã phải dựng xây lại ngay trong bản thân mình và xung quanh mình một chút giá trị gì còn lại đủ để tạo thành niềm kiêu hãnh sống và niềm kiêu hãnh chết.
... Không chắc gì họ có thể hoàn thành được nhiệm vụ mênh mông to tát đó, nhưng chắc chắn là, khắp nơi trên thế giới, thế hệ này đã chấp nhận hai lần thách thức chân lí và tự do, và nếu có phải chết nó cũng biết chết mà không hề oán hận cuộc thách đố ấy. Đồng thời, sau khi đã nói tới sự cao quý của nghề viết văn, tôi muốn đặt nhà văn vào đúng chỗ của họ, chẳng có danh hiệu nào khác hơn là những danh hiệu họ từng chia sẻ với các bạn chiến đấu của mình, dễ tổn thương nhưng cứng đầu cứng cổ, bất công nhưng say mê công lí, xây dựng sự nghiệp trước mắt mọi người mà không hổ thẹn, không kiêu ngạo với ai, không ngừng giằng xé giữa nỗi đau và cái đẹp, để cuối cùng lao vào cuộc thể hiện một nghĩa vụ kép ấy là cố công bướng bỉnh sáng tạo dựng xây ngay trong cái guồng quay hủy diệt của lịch sử.[…] Chân lí là cái bí hiểm, khó nắm bắt, luôn luôn đòi hỏi ta phải chinh phục lấy. Tự do là cái nguy hiểm, khó sống tuy là đầy hứng khởi. Chúng ta phải hướng theo hai mục đích này, vất vả nhưng quả quyết, mặc dù biết trước những sự nản lòng trên con đường dài đến thế…”.
(hết)

Nguồn: http://www.vanchuongviet.org/





Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét