Hai truyện ngắn về Tây Nguyên = Đỗ Ngọc Thạch: Tượng Nhà mồ; Núi Lở
newvietart.com/DONGOCTHACH_saigon.html
Sinh ngày 19-5-1948, tại Phú Thọ. Năm l966 vào học tại Khoa Toán, trường Đại học Tổng hợp HàNội. Từ 12-1966 đến l0-1970 nhập ngũ trong bộ đội Ra-đa.
TƯỢNG NHÀ MỒ
phongdiep.net/default.asp%3Faction%3Darticle%26ID%3D645...
ĐỖ NGỌC THẠCH. Sinh ngày l9-5-1948, tại Phú Thọ. Tốt nghiệp ĐH Tổng hợp ( Khoa Ngữ Văn) năm l976; đã tham gia quân đội 4 năm và làm việc tại các cơ ...
www.vanchuongviet.org/index.php%3Fcomp%3Dtacgia%26actio...
Đỗ Ngọc Thạch ... Kiếm sống (truyện ngắn). Kiếm Sống 2 (truyện ngắn). Lấy Vợ Xấu (truyện ngắn). Lệnh Phải Thi Đỗ (truyện ngắn). Làng nói trạng (truyện ngắn).
Núi lở (truyện ngắn)
Núi lở | |
Đoàn khảo sát, nghiên cứu văn hóa dân gian của chúng tôi đã tiến sâu vào một vùng rừng núi ngút ngàn. Chúng tôi đi ngược theo một con suối có cái tên rất nên thơ : K’tung ! Phong cảnh trên đường đi thật ngoạn mục khiến bao mệt mỏi tan biến hết. Cô gái H’Thi, con gái một nghệ nhân kể Hơ Amon, (Hơ Amon : Một thể loại phôn-cơ-lo tồn tại và lưu truyền bằng phương thức hát kể. Trước đây thường dịch là Trường ca) là người hiểu biết khá sâu về vốn văn hóa dân gian của dân tộc mình, tự nguyện làm người hướng đạo cho chúng tôi, vừa bước đi thoăn thoắt vừa khẽ hát những bài ca trữ tình mà tôi ngỡ như tiếng suối reo, thác đổ, gió ngàn xôn xao !... Đến bài “Đăm ơi đăm” (Anh ơi anh), thì tiếng hát sao mà tha thiết, như tiếng gọi nao lòng :
Ê ! Đăm ơi đăm !...
Ơ ! Anh ơi anh !
Cha đã già rồi !
Ơ ! Anh ơi anh !
Mẹ đã yếu rồi !
Ơ ! Anh ơi anh !
Em mong anh về !
Về đi anh !
Ơ ! Anh ơi anh !...
Tiếng gọi bay theo gió, tan vào ngàn xanh ! Người con trai đi đâu vậy, lầm đường lạc lối chăng ?
Ngừng hát một lúc, H’Thi nói :
- Em có người yêu tên là Đinh Kông . Anh ấy đi học đại học ở xa lắm ! Một lần, nói chuyện với thầy giáo về thơ ca dân gian của người Ba-na, thầy giáo nói trật cả ! Thế rồi thầy trò cãi nhau. Thầy nổi khùng mắng anh ấy : “Mày là thằng mọi, biết gì mà cãi lại tao !”. Thế là anh ấy đánh cái ông thầy ấy, rồi bỏ trốn đi đâu không biết !...
Thì ra vậy ! Trong bài hát của người xưa vẫn có tâm trạng của người hôm nay !...H’Thi lại hát :
Ơ ! Suối ơi ! K’Tung ơi !
Sao suối chảy hoài không hết nước ?
Anh ơi ! Anh yêu ơi !
Sao lòng em không hết buồn !...
Vì sao cô gái Ba-na này lại có nỗi buồn da diết như thế ? Tôi định hỏi thì H’Thi lại nhẹ nhàng nói :
- Em cũng muốn đi học đại học lắm chứ ! Nhưng khi em đang học lớp mười, có một thầy giáo cứ đòi yêu em ! Thầy giáo nói : “ H’ Thi yêu thầy thì thầy sẽ giúp em vào đại học !”. Muốn vào đại học phải yêu thầy giáo à ? Em không đồng ý, thế là thầy giáo cưỡng em, không được, rồi thầy cho em toàn điểm kém ! Em buồn quá, không đi học nữa !...
Mải nói chuyện với H’Thi, chúng tôi đã đi vào một khu nhà mồ từ lúc nào không hay. Những tượng nhà mồ đứng ẩn khuất sau những lùm cây, nhìn từ xa không khác người thật là mấy : trầm mặc, khổ đau ! Các bạn đồng hành của tôi tản ra các nhóm tượng, chụp ảnh, đo đạc, ghi chép rất say mê . Tôi hỏi H’Thi :
- H’Thi có biết những câu chuyện, những bài hát nói về tượng nhà mồ không ?
H’Thi cười, nét mặt thoáng vẻ tư lự rồi nói :
- Có chứ ! Em sẽ kể và hát cho anh nghe. Nhưng anh phải học tiếng Ba-na đi đã. Nghe hát bằng tiếng Ba-na mới hay ! Nhưng, những bài hát về tượng mồ buồn lắm . Để lúc khác. Bây giờ em hát bài vui. Chẳng hạn như bài Hơri ca ngợi buôn làng tươi đẹp. Em hát nhé !
Và H’Thi hát bằng tiếng dân tộc Ba-na của cô. Tôi không biết tiếng Bana, nhưng nghe tiếng hát nhịp nhàng, tình cảm tha thiết ánh lên nhưng nét nhạc vui, và nhìn nét mặt rạng ngời, ánh mắt lung linh của H’Thi tôi đoán đây là một bài Hơri ngợi ca trong sáng…H’Thi ngưng hát, nói nhỏ:
- Lời bài hát có nghĩa là: Quê hương tôi có dòng suối trong xanh, có buôn làng ẩn hiện trong màu xanh của rừng, có sắn, lúa ngô mọc khắp đồi nương!...- H’Thi bỗng đăm chiêu, một nét u buồn như đang lướt trên mặt cô gái. H’Thi khẽ buông tiếng thở dài, nói tiếp – Nhưng bây giờ buôn làng xác xơ lắm anh ạ. Nạn đói đang đe dọa từng ngày!...
Tôi thoáng rùng mình, ngực như bị nén chặt. Tôi chợt nhớ lại một chuyến đi bám càng bà phó chủ tịch tỉnh tuần trước : bà chở đầy xe gạo về tiếp viện cho gia đình ! Nhưng còn những nhà không có người làm trên huyện, trên tỉnh thì sao ? Tôi cũng không hiểu sao những người dân ở mảnh đất sơn thủy hữu tình thế này mà bị nạn đói ? Tôi bỗng nhớ đến những lễ hội được mô tả trong các Hơ Amon : rượu cần ngập cả sông Ba, thịt chất đống cao như núi, dân làng vui chơi nhảy múa thâu đêm !... Tôi đang miên man trong suy tưởng thì H’Thi nói :
- Em sẽ dẫn anh lên đỉnh thác Đrang Đrung. Ở đó có một tượng đá giống hệt hình người, giống như núi Vọng phu của người Kinh ấy !
Bỏ mặc cho các nhà nghệ thuật học đang mải mê quan sát khu tượng nhà mồ, tôi theo H’Thi luồn rừng leo lên đỉnh thác Đrang Đrung. Trong những tài liệu nói về danh lam thắng cảnh của tỉnh, tôi không thấy nói đến cái thác này. Bởi vậy, khi tới đỉnh thác, tôi giật mình kinh ngạc : thác cao gần năm trăm mét, nước đổ trắng xóa nhưng không ầm ào dữ dội mà như dải lụa mềm nhẹ bay. Trên đỉnh thác, bên cạnh một tảng đá lớn bằng cái nhà Rông, có một hòn đá cao hai mét, rất giống như một người ngồi tay chống cằm đau khổ, mặt nhìn vào dòng thác. Ai ngồi đây ? Từ bao giờ vậy ? Đau khổ vì lẽ gì ? Tiếng H’Thi vang bên tai tôi như tiếng thác chảy rào rào :
- Hồi em còn nhỏ, lên đây chơi thì thấy nó chỉ là một tảng đá bình thường. Nhưng khoảng mười năm trở lại đây, càng ngày nó càng giống hình người . Già làng Đinh K’pa nói rằng có một người đã ngồi bên tảng đá cho đến chết, cho nên hồn của người đó đã nhập vào hòn đá, khiến hòn đá dần dần biến thành hình người…
- Ai ngồi chết ở đây vậy ? – Tôi hỏi .
- Em sẽ dẫn anh tới gặp già làng Đinh K’pa, ông lão biết rõ hơn em !...
Tôi đăm đăm nhìn, càng nhìn càng thấy hòn đá giống như người vậy. Rồi, như là hòn đá biến thành người thật, khẽ động đậy rồi vụt đứng dậy ! Tôi giật mình kinh hãi. H’Thi thấy vậy đưa tôi cái bầu rượu đen nhánh, nói :
- Anh uống một hớp đi ! Anh như là bị ma lai nhập ấy !
Tôi cầm bầu rượu, tu một hơi . Men rượu như lửa đốt ! Một cảm giác lạ kỳ lan tỏa khắp người . Nhìn cái tượng đá, nó vẫn ngồi bất động. Nó đang nghĩ gì vậy ? Tôi tiến lại gần , nó đang cúi đầu nhìn xuống thác nước. Có lẽ thác nước biết tượng đá nghĩ gì chăng ?
Mải quan sát tượng đá , giờ tôi mới chú ý đến tảng đá lớn như cái nhà Rông bên cạnh : Nó đứng chênh vênh trên đỉnh thác, như là sắp lăn xuống thác nước . Tôi hỏi H’Thi :
- Tảng đá này đứng chênh vênh như thế bao lâu rồi ? Sao nó chưa lăn xuống thác nước ?
- Già làng Đinh K’pa nói, không biết từ bao giờ. Nhưng có lẽ năm nay nó sẽ lăn xuống để vỡ thành muôn ngàn mảnh !
- Năm nay à ? Làm sao mà tính được ?
- Anh về hỏi già làng ấy. Cái gì ông lão cũng biết !...
H’Thi chưa nói dứt lời thì như là có một tiếng động lớn từ lòng đất vọng lên. Tôi có cảm giác như đất dưới chân mình rung động, tảng đá như khẽ cựa mình ! H’Thi lặng người một lát rồi nói :
- Già làng Đinh K’pa nói, khi nào có tiếng cồng từ lòng đất vọng về thì tảng đá lăn xuống thác !
Đúng rồi, em nghe như là có tiếng cồng ! Có đúng không anh ?
Tôi lắng nghe nhưng lại không thấy gì. Nhìn tảng đá như treo đầu đẳng rồi nhìn xuống chân thác, tôi bỗng giật mình khi thấy một tốp khoảng năm người đang nhởn nhơ ngắm cảnh dưới chân thác. Tôi tập trung nhãn lực nhìn kỹ thì nhận ra đó là đoàn công tác của Sở giáo dục đi cơ sở triển khai nhiệm vụ xóa nạn mù chữ mà tôi gặp ở huyện lỵ mấy hôm trước. Tôi ngạc nhiên lắm khi nhận ra ông trưởng đoàn là thủ trưởng cũ của tôi khi tôi mặc áo lính. Ông ta lúc đi bộ đội mới đang tập viết và không hiểu sao, ông ta không thể viết được vì cứ cầm bút là bút chực rơi ra và khi viết thì ngòi bút đâm thủng cả giấy ! Và tôi càng ngạc nhiên hơn khi H’Thi nói rằng ông ta chính là cái ông thầy đã đòi yêu H’Thi ! Có trời mới hiểu nổi sự xoay vần của tạo hóa sao lại kỳ quặc như vậy ?
H’Thi như là cũng có tâm trạng như tôi : Hết nhìn tảng đá rồi lại nhìn xuống tốp người đang ngắm cảnh dưới chân thác . Tôi nói :
- Liệu tảng đá có thể rơi ngay sau khi có tiếng cồng không ?
H’Thi dáng vẻ bồn chồn, nói :
- Em linh cảm thấy như vậy ! Không biết có kịp báo cho những người ở dưới chân thác biết không ?
- Anh đã nói với họ là ở xã K’Tang của em không có người mù chữ. Vậy sao họ vẫn tới đó ?
- Em cũng không hiểu nữa. Bất cứ có đoàn công tác nào của tỉnh hoặc trung ương về, huyện cũng chỉ xuống xã em !
- Thôi ! Chúng ta chạy xuống báo cho họ lánh đi chỗ khác ngay ! Nghe chừng họ định cắm trại ở đây. Tảng đá mà lăn xuống thì họ bị đè bẹp mất !
H’Thi như sực tỉnh, cô không nói gì, lao vút đi, thoắt cái đã biến vào màu xanh ngút mắt ! Tôi lao theo H’Thi, nhưng chạy được vài bước thì vướng phải sợi dây rừng ngã bật trở lại, khắp người đau ê ẩm. Tôi gượng đau, đứng dậy tính đuổi theo H’Thi nhưng cô đã mất hút sau màu xanh của rừng . Mất người dẫn đường, tôi chẳng khác người mù. Vì vậy, tôi đành tập tễnh quay trở lại đỉnh thác, ngồi xuống bên tượng đá, nhìn xuống chân thác như tượng đá, chốc chốc lại nhìn sang tảng đá chênh vênh, đang như sắp lăn xuống !
Tôi có cảm giác thời gian như ngưng lại, núi rừng như không một tiếng động. Rồi bất chợt, gió ào ào, mưa như thác đổ, cả khu rừng như đang vặn mình, quằn quại ! Trơ vơ trên đỉnh thác, không biết chạy đâu tôi liền ôm chặt lấy tượng đá, mắt nhìn như dán vào tảng đá chênh vênh kia !...
Cái gì phải xảy ra thì đã xảy ra ! Tảng đá đã tách ra khỏi đỉnh thác ! Tôi bàng hoàng nhắm mắt lại và chờ cái tiếng động đáng sợ kia vọng lại ! Nhưng tôi không nghe thấy gì nữa khi chợt vụt lên ý nghĩ : H’Thi có kịp cứu tốp người đi xóa nạn mù chữ kia thoát khỏi nạn núi lở hay không ? Và bản thân H’Thi thì sao ?
* * *
Một tháng sau cái ngày xảy ra vụ núi lở ấy, đoàn khảo sát văn hóa dân gian của chúng tôi trở lại xã K’Tang. Chúng tôi rất buồn vì cô H’Thi, người hướng đạo tuyệt vời của chúng tôi bị bệnh, suốt tháng nay vẫn chưa khỏi, suốt ngày nằm liệt gường, không ăn uống gì được mấy. Già làng Đinh K’pa nói rằng , H’Thi bị Zàng phạt. Hỏi tại sao, nhất định già làng không nói. Song , tôi năn nỉ mãi và nằng nặc đòi đưa H’Thi đi bệnh viện, lúc ấy già làng Đinh K’pa mới nói :
- Hôm ấy, Zàng nổi giận, muốn trừng trị tốp người ở dưới chân thác ấy. Nhưng con H’Thi đã làm trái ý Zàng !...
Nghe già làng Đinh K’pa nói vậy tôi giật mình kinh ngạc : Chẳng lẽ vì cứu tốp người đi xóa nạn mù chữ kia mà H’Thi bị bệnh sao ? Bây giờ mà cũng có chuyện thần linh ứng nghiệm vậy sao ? Già làng Đinh K’pa nói tiếp :
- Anh có biết cái ông thủ trưởng của nhóm người ấy giờ ở đâu không ? Phải tìm ông ta về đây mới có cách chữa bệnh cho con H’Thi !...
Biết ông trưởng đoàn công tác xóa nạn mù chữ ở đâu bây giờ ? Tuy thế, tôi định bụng sẽ dò tìm bằng được ông ta. Song, thật là bất ngờ, ngay ngày hôm sau, khi tôi đến khu vực thác Đrang Đrung thì gặp ông trưởng đoàn ấy. Nhìn thấy tôi, ông ta vui vẻ nói :
- Tớ đang hướng dẫn một nhà báo và các nhà địa chất nghiên cứu hiện tượng núi lở đấy ! Cậu đã đọc báo chưa ? Có bài tường thuật của tớ về vụ núi lở vì tớ là người chứng kiến từ đầu đến cuối mà !...Mà này, có lẽ tớ bỏ nghề xóa nạn mù chữ mà chuyển sang nghiên cứu về núi lở và động đất ! Thú vị lắm !...
Nghe ông ta nói đến đấy, tôi ù cả tai ! Không kịp suy nghĩ gì cả, tôi chạy về tìm già làng Đinh K’pa !.../.
TP.HCM, 1989-2009
| |
Đỗ Ngọc Thạch | |
nguồn:vanchuongviet.org
ĐỖ NGỌC THẠCH
TƯỢNG NHÀ MỒ
Đến Tây Nguyên, tôi bị thu hút vào “những nỗi đau đã hóa đá” – những bức tượng nhà mồ hình người ôm mặt đau khổ, có ở rất nhiều nơi trên vùng đất Gia Lai – Kon Tum này. Và rồi cơn gió lành đã đưa đến cho tôi một ông phó tiến sĩ nghệ thuật học hẳn hoi, cũng mê cái đề tài nghiên cứu này. Thế là chúng tôi bắt tay nhau, tiến vào những bát trận đồ bí ẩn…
Nếu như ông bạn phó tiến sĩ nghệ thuật học của tôi, theo bản năng nghề nghiệp, quan tâm đến những mảng khối, động thái, mô-típ, phong cách này nọ của những pho tượng , thì tôi lại quan tâm nhiều đến điều khác, ở ngoài khu vực nhà mồ, đó là người tạc tượng nhà mồ - tác giả của những pho tượng. Vì sao họ tạc tượng ? Họ suy nghĩ gì khi làm ra những tiếng nói bằng gỗ ấy ? Vì thế, trong khi ông bạn tôi đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác, rồi say sưa đo đạc, quan sát, chụp ảnh…thì tôi đi lùng sục trong buôn làng để tìm cho ra tác giả của những pho tượng. Song, qua bao nhiêu khu tượng nhà mồ, tôi đều thất vọng, vì tôi chỉ tìm thấy những người làm theo mẫu có sẵn, kiểu như những người thợ gỗ, chứ không phải là tác giả đích thực, theo như quan niệm của tôi.
Song, chính vào thời điểm tôi thất vọng gần như hoàn toàn thì tôi đã tìm ra .
Hôm ấy, chúng tôi đến một làng người Gia Rai, gặp một khu nhà mồ, còn khá mới và rất nhiều tượng. Ông bạn của tôi lao vào chụp ảnh, đo đạc, ngắm nghía như người ghiền gặp cuộc nhậu…Trời nắng và nóng quá, tôi đứng dưới một tán cây, ngắm nhìn khu nhà mồ và suy nghĩ miên man về những cái chết của con người… - Này ! Nghĩ gì mà đứng nghệt ra như tượng thế ?- Hiên, người hướng đạo, vỗ bộp vào lưng tôi và cười khậc khậc ! Tôi giật mình và chưa kịp định thần thì tóc gáy đã dựng ngược khi nhìn thấy một con sâu kỳ lạ, to đùng, lông tua tủa đang bò trên cánh tay áo ! Tôi chưa kịp hết cơn sợ hãi (tôi vốn rất sợ loài sâu bọ) thì Hiên đã nhẹ nhàng nhón con sâu khỏi tay áo tôi, gói vào một mảnh giấy, bật quẹt châm lửa đốt. Khi ngọn lửa vừa tắt, Hiên tung cái xác con sâu từ bàn tay nọ qua bàn tay kia, thổi phù mấy cái rồi ném gọn vào mồm nhai ngon lành trước sự khiếp đảm của tôi.
- Thuốc bí truyền đấy ! – Hiên nói tỉnh khô – Loại sâu này ăn một thứ búp lá đặc biệt và chế ra một loại thuốc quý, còn hơn cả “cường lực đại bổ”, “sâm qui tinh” vì nó còn có thể chữa bách bệnh !
- !?
- Ông không tin à ? Sao ông cứ nhìn tôi như một tên mọi thế ! Này, xin báo cho ông biết, thuốc này còn gọi là “kháng sinh thực vật”, hiệu nghiệm hơn cả Pê-ni-xi-lin, cả lanh-cô-xin nữa đấy nhé. Khì ! Khì !...- Hiên cười tít mắt – Cái gì ông cũng tròn xoe mắt ra thế kia thì có ngày con ma-lai nó nuốt chửng ông đấy ! Phải thổ công như tôi đây này !
Hiên còn luyên thuyên gì nữa mà tôi nghe không rõ vì lúc thì anh ta xen tiếng dân tộc, lúc xen tiếng Tây bồi, hoa chân múa tay tít mù, cứ như là thầy phù thủy.
Hiên có khuôn mặt và hình thể khó tả : không già không trẻ ,không béo không gầy, đôi lúc có vẻ bí ẩn, xa xôi .Điệu bộ của Hiên lúc thì trịnh trọng, thoắt cái đã rất nhắng nhít, liến thoắng như người bán thuốc rởm ở bến xe ô tô. Theo như lời tự giới thiệu. Hiên vốn là cán bộ thông tin xã (chuyên cầm loa đi đọc tin thời sự, vận động bà con ăn chín uống sôi, làm hố xí hai ngăn…), nhập ngũ rồi đi B. Làm đủ việc, bách nghệ, nhưng chưa bao giờ cầm súng bắn giặc ! Thế rồi Hiên cũng leo lên lon thiếu úy, chính trị viên phó đại đội, rồi trợ lý tuyên huấn trung đoàn, sư đoàn. Sau giải phóng 75, do tỉnh thiếu cán bộ văn hóa thông tin, Hiên chuyển ngành làm trưởng phòng văn nghệ. Nhờ có “năng khiếu” ca dao, hò vè và nhanh mồm, mau miệng, tích cực đi nói chuyện thời sự khắp các ban, ngành trong tỉnh, chẳng mấy chốc lên phó giám đốc Sở. Đang chuẩn bị lên chức chánh thì đùng một cái “phốt” khá nặng : sau khi xin cho một cô bé vào làm việc ở Sở, Hiên “bồ bịch” làm cô bé có thai, nạo thai, không may bị chết !). Hiên bị cách chức xuống làm cán bộ cấp huyện, nhân có đợt tăng cường cấp huyện. Lại mắc “phốt”. Hiên xuống làm cán bộ văn hóa thông tin xã ở cái xã này cho đến lúc gặp chúng tôi.
- Ông ạ ! Người ta sinh ra từ cát bụi, rồi lại trở về cát bụi, ai nói thế chí lý thật ! – Hôm mới tiếp xúc với tôi, sau khi tâm sự lịch sử trường đời, Hiên nói – Tôi vốn bước vào trường đời bằng cái loa, bây giờ lại trở về với cái loa. Chỉ có khác là cái loa “xì-te-ri-ô” bây giờ hiện đại lắm …Thỉnh thoảng mở nhạc “đít cô” nghe cũng vui, quên đời !...Nhiều lúc buồn, ngồi ngẫm nghĩ sự đời cũng thấy ân hận, xót xa ! Loài sâu bọ, nhìn tởm thế mà còn có ích. Còn mình thì…Tội của mình đáng chết chém mà chỉ tụt bậc, thế là phúc lớn bằng cái đình rồi ! Nghĩ kỹ, mình thất học, ngu dốt, chỉ quen sống mồm miệng đỡ chân tay mà bổng lộc cao sang, cao lương mỹ vị nếm đủ cả, còn đòi hỏi gì nữa ? Thú thật với ông , mới nhìn thấy tôi bố nhắng thế, chứ tôi sống nội tâm lắm !...
- ! ?
- Đó là sau khi tôi tỉnh ngộ ra, nhờ được biết nguồn gốc của cái tượng nhà mồ đau khổ kia. Từ ấy, tôi luôn bị ân hận, day dứt hai điều : đã không tìm được chỗ đứng thích hợp trong cuộc sống. Và, chính từ đó đã dẫn đến điều thứ hai : thành kẻ giết người !...Con người ta được thanh lọc khi cảm nhận bị kịch xót xa ! Nhà văn các ông thường nói thế là gì ? Rồi tôi sẽ kể cho ông nghe, và có thể phải nhờ ông một việc…
Tôi đang bồng bềnh trong những ý nghĩ về Hiên, về sự thăng trầm, biến đổi của đời người thì “bộp”, một con sâu giống hệt con ban nãy lại rơi xuống tay áo tôi. Tôi chưa kịp sởn gai ốc thì đã thấy con sâu vàng ươm, thơm ngậy nằm trên bàn tay xương xẩu của Hiên ! Hiên chìa con sâu nướng vào mặt tôi nói tỉnh khô :
- Ông ăn đi ! Ông được “sâu sa” là gặp hên đó ! Loài sâu này là nhà luyện đan tài tình. Tôi quí ông mới bày cho ông ăn, không những không chết mà còn trường sinh bất lão ! Biệt dược Tây Nguyên đấy !
Trước đây, tôi đã từng bị ép nuốt thạch sùng, nhái bén để chữa bệnh, cho nên, như có phản xạ tự nhiên của người luôn bị bệnh tật đe dọa, tôi há mồm để Hiên ném nhẹ con sâu vào mồm, lại nghĩ đến chùm lông tua tủa của con sâu cứ uốn lượn khi nó bò trên tay áo, tôi định nhắm mắt nuốt thì “Ọe… ! Ọe…Ộc !...” Khi tỉnh lại, thấy thần kinh thanh thản thì nhận ra mình đang nằm trên thảm cỏ, kề bên là hai máng nước đang chảy óc óc…roạt roạt !... Thì ra Hiên đã đưa tôi đến bến nước. Thấy tôi đã tỉnh, Hiên vỗ tay cười và nói vui vẻ .
- Ông bị rối loạn tiền đình ! Cũng có khả năng rối loạn tiêu hóa và cả rối loạn kinh mạch nữa ! Nhưng đã nôn được ra mật như thế là tốt ! Sau khi ông hết nôn, tôi đã nghiền vị thuốc đó với nước nguồn này cho ông uống, ông mới hồi tỉnh đấy chứ ! Thuốc bách bệnh mà lị !
Nghe Hiên nói vậy, tôi lại cảm thấy như con sâu đầy lông đang bò trong cổ và chực nôn. Lập tức, Hiên nhét vào mồm tôi một quả gì đó bé tí và nói : - Ông nhai đi và đừng nghĩ gì đến con sâu ấy nữa. Ông mắc bệnh tưởng rồi ! Rất tiếc là tôi không rành tâm thần học. Nhưng nhai quả đi và uống thêm ba ngụm nước nữa ông sẽ thấy than thản, như là thoát tục, liên tiên vậy !
Nhìn mạch nước nguồn từ trong khe núi chảy ra, như là vô tận, tôi bị thôi miên vào nguồn nước ấy. Dòng nước ấy chảy ra từ đâu và sẽ dừng lại ở đâu ? Là nước mắt của núi rừng sao không bao giờ khô cạn ? Là niềm vui của con người sao chứa đựng bao tai họa bí ẩn ?... Không khí ở bến nước dịu mát đã nhanh chóng làm thần kinh tôi hưng phấn, tỉnh táo.
- Bến nước này có lịch sử li kỳ lắm, rồi tôi sẽ kể cho ông nghe . Ở cái đất Tây Nguyên này có nhiều cái thú vị đối với cái nghề văn chương của các ông lắm. Bây giờ, tôi tranh thủ kể cho ông nghe về sự tích tượng nhà mồ. Xin thề với ông là chưa hề ai được nghe câu chuyện này. Chỉ với ông thôi – Hiên đột ngột đăm chiêu kỳ lạ - Thật đấy, chỉ với ông, tôi mới kể. Đó là cái tình cảm tri ngộ. Nhìn tướng ông, tôi kính nể ông lắm !...Hồi ấy – Hiên kể - tôi được giao phụ trách một đội văn nghệ tổng hợp của sư đoàn. Tôi tuy nốt nhạc bẻ đôi không biết nhưng cái khoản ca dao, hò vè, tấu nói rồi hề cương thì không ai bằng. Với lại, tôi có cái tướng làm quan, tôi phụ trách ngon lành, đâu ra đấy. Đội văn nghệ của tôi rất có tín nhiệm với quân khu. Nhưng giờ nghĩ lại mới thấy hồi ấy mình làm ăn thật nhắng nhít ! Nhưng khốn nỗi, hồi ấy người ta quen xài mấy thứ tào lao ấy. Ông coi, lúc ấy, làm gì có thời gian mà bài bản, chính qui được. Với lại, chẳng ai kịp nghĩ đến mấy thứ cao sang, người ta thuộc lòng đầy bụng những tấu, “thơ Bút Tre” của tôi rồi còn gì !
Một lần, đội văn nghệ xung kích chúng tôi đang hành quân thì chạm trán bọn phục kích. Thú thật với ông, tôi bị cái bệnh sợ tiếng nổ từ bé, nên khi nghe tiếng súng nổ là hồn vía lên mây ! Tôi chạy quáng quàng một hồi và khi biết mình đã lạc vào giữa mênh mông ngút ngàn thì chỉ thấy trơ thổ địa một mình mình . Phúc tổ là không sứt mẻ gì !
Tôi cứ đi lang thang trong rừng, mặc cho muốn đến đâu thì đến. Tuy sợ, nhưng tôi yên tâm vì mấy ông chiêm tinh làng tôi nói : tôi thường gặp may, lại có quý nhân phù trợ, cứ bình chân như vại trước mọi nguy nan ! Tôi đã nghiệm thấy đúng lắm !...Khi tôi đến một khu rừng thưa thì trời đã tối. Trăng mọc sớm, treo lơ lửng ở một góc rừng. Hoang vắng rợn người, âm u, bí hiểm như là trong các phim thần thoại, ma quỷ ! Tôi đang loay hoay tìm chỗ mắc võng đánh một giấc cho đã thì nghe có tiếng người rì rầm, rì rầm, xen tiếng khóc thổn thức, tắc nghẹn ! Tôi lắng nghe…Và rồi tiếng nói vang lên, như là thoang thoảng trong gió, tịch mịch, nhưng rất rõ :
- Ôi, Thần ông tượng ! Con xin cắn cỏ xin Thần ông tượng ra tay cứu khó phò nguy, cứu người mà con yêu quý nhất đời qua được cái chết nơi rừng sâu hoang vắng này !...Ơi !...
Tôi nhẹ nhàng tiến đến phía có tiếng nói. Tôi căng mắt ra nhìn, tìm kiếm. Tiếng nói biến mất. Ánh trăng như sáng lên. Tôi vừa lách qua một khóm lá thì lặng người, bàng hoàng, sửng sốt : trước mắt tôi là một người đang ngồi bất động, chống tay lên má . Dưới ánh trăng huyền ảo, khuôn mặt ẩn hiện với những nét đau đớn huyền bí, xa xôi !...Cái khuôn mặt đau đớn ấy , càng nhìn càng dễ sợ !.
Khi kịp bình tĩnh lại, tôi tính rút êm khỏi nơi này thì có bóng người động đậy ở ngay kề cái người ngồi chống cằm đau khổ và bí hiểm kia. Tôi chưa kịp nhìn rõ thì lại vang lên tiếng thổn thức, tắc nghẹn khi nãy. Và khoảng hai, ba phút kế tiếp thì tiếng khóc đột ngột thét lên, kinh hoàng tột độ !...
Khuôn mặt Hiên thoáng biến sắc. Hiên lặng đi một hồi lâu rồi như bừng tỉnh, kể tiếp.
-… Đấy, tôi chỉ nhớ rõ được đến như thế, cho đến khi tôi hoàn toàn tỉnh táo để quan sát được chính xác quang cảnh quanh mình lúc ấy. Đó là một khu nhà mồ của đồng bào Gia Rai, đã trở nên hoang vắng từ lâu lắm, chỉ còn sót lại một pho tượng người chống cằm đau khổ mà tôi nhìn thấy từ đầu. Còn ngồi bên cạnh tôi lúc này là Xuyến, một cây đơn ca của đội văn nghệ chúng tôi. Bên cạnh Xuyến là nấm mộ đơn sơ, mới đắp của Lai, một cây ghi-ta của đội. Xuyến đã nói vắn tắt tình hình như thế này : Đội chúng tôi chạm trán với một đại đội thám báo. Anh chị em đã chiến đấu rất dũng cảm (trừ tôi, ma dẫn lối quỷ đưa đường thế nào mà ngay từ tiếng súng nổ đầu tiên, đã “lạc” mất đơn vị !). Cả đại đội thám báo đã bị tiêu diệt nhưng bên ta, chỉ còn lại Lai (đã bị thương nặng) và Xuyến (cũng bị thương ở cánh tay phải). Và cho đến lúc này, chỉ còn lại tôi và Xuyến !
Xuyến ngồi im lặng, như pho tượng kia, rất lâu. Tôi không biết nói gì, cũng ngồi im lặng nhìn Xuyến qua ánh trăng đã trắng đục vì sương đêm. Có lẽ cái cảnh ấy đã kéo dài, rất lâu. Có lúc, tôi cảm giác như Xuyến đã hóa thành pho tượng gỗ !...Thoáng một làn gió nhẹ khiến tôi lành lạnh. Có lẽ trời sắp sáng , phải chấm dứt tình trạng này. Nghĩ thế, tôi gọi khẽ :
- Xuyến !...
Xuyến vẫn ngồi im, bất động. Tôi xích lại gần, vỗ nhẹ vào vai Xuyến. Khi bàn tay tôi chạm bờ vai Xuyến, tôi có cảm giác như chạm vào sự ấm nóng , mềm mại lạ kỳ ! Một luồng điện như chạy nhanh trong người tôi !...Xuyến khẽ giật mình, quay lại nhìn tôi thảng thốt. Dưới ánh trăng, tôi chỉ còn nhìn thấy khuôn mặt bí ẩn, trắng ngần, tuyệt đẹp của Xuyến. Và, cái cúc áo ngực của Xuyến bị đứt từ bao giờ, để lộ ra phần trên của bộ ngực nở căng, nối với cái cổ cao, tạo nên một màu trắng mịn màng khiến tôi mê man. Xuyến bỗng ú ớ như nói cái gì, rồi bàn tay Xuyến, ấm nóng, nắm chặt lấy cánh tay tôi, thở gấp … Lại như có luồng điện phóng qua người tôi ! Tôi ngột thở. Tôi như chỉ còn nhìn thấy bộ ngực nở căng của Xuyến đang phập phồng . Rồi tôi cắm mặt vào bộ ngực ấy, cuồng dại…Khi tôi đã đè Xuyến xuống bãi cỏ, khi cơn nhục dục trong tôi sắp lên đến tột đỉnh thì, bỗng nhiên, tôi thấy như có vật gì giáng xuống đầu tôi đánh “đốp”…Tôi bị ngất đi !
Khi tỉnh lại, tôi thấy trời đã sáng, còn mình thì bị trói giật cánh khỉ bằng sợi dây dù thít chặt. Xuyến đang ngồi gục bên mộ Lai, bất động. Cạnh đó, pho tượng gỗ kỳ lạ nằm đổ vật trên bãi cỏ. Bình tĩnh lại, tôi ước đoán là chính pho tượng gỗ kia đã đổ xuống đầu tôi vào đúng lúc ấy !
Rất đột ngột, Xuyến đứng phắt dậy, nhìn tôi bằng ánh mắt nảy lửa. Cầm khẩu AK, lấy nòng súng gảy cằm tôi lên, Xuyến nói , giọng khô khốc :
- Anh đã làm nhục tôi vào đúng lúc tôi đau khổ đến mất trí vì cái chết của Lai và đồng đội !...Đồ đốn mạt ! Anh đáng nhận cả băng AK này !
- Hãy bắn chết tôi đi ! – Không kịp suy nghĩ gì, tôi bỗng hét lên, như thằng điên – Tôi đáng bị phanh thây xé xác ! Bắn đi !...
Xuyến nhìn tôi bằng cái nhìn lạnh băng , rồi bất ngờ lấy bàn chân di di vào mặt tôi, ấn mạnh một cái vào mồm tôi rồi nói gằn :
- Câm ngay ! Đừng có rống lên như chó chết thế ! Anh chưa được chết đâu, đồ đốn mạt như anh không được chết cùng với những người lính chúng tôi. Phải sống mà chuộc lại những tội lỗi và thi hành ngay mệnh lệnh của tôi đây ! Hãy chôn tôi bên cạnh mộ Lai và trồng xung quanh hai nấm mộ một vòng hoa pét . Xuyến vừa dứt lời, hai tiếng AK nổ vang, rung chuyển cả khu rừng vắng ! Xuyến lảo đảo, quăng khẩu AK rồi đổ nhào trên nấm mộ Lai !...Nghe Hiên kể đến đây, người tôi run lên như sốt rét. Tôi muốn bật dậy đạp vào cái bộ mặt đang đau đớn như dại đi của Hiên kia ! Song, tôi vụt nghĩ : dù là ở những đầu óc u tối, con người ta sẽ có được những ý nghĩ tốt đẹp khi được tự do suy nghĩ trong yên tĩnh . Vì thế, thay vì sự kinh tởm gai người, tôi nằm ngả ra bãi cỏ hút thuốc, làm như không hề biết có Hiên ở bên cạnh nữa !
… Có mấy cô gái Gia Rai ra bến gùi nước. Nhìn các cô gùi những quả bầu đựng nước đen bóng trên đôi vai tròn lẳn, thần kinh tôi như dịu lại, nhẹ nhõm. Tiếng nước óc ách trong gùi các cô gái về buôn như một bản nhạc tuyệt vời mà không nhạc sĩ tài ba nào diễn tả nổi…Chờ các cô gái về hết, Hiên rúc đầu vào máng nước rồi ngửa cổ uống ừng ực. Tôi nhìn Hiên và nghĩ: khi được uống nước ở nơi đầu nguồn, con người ta sẽ trở nên trong sạch! Các cụ thường nói ”Trăm nhơ lấy nước làm sạch” đó sao? Đây lại là nước đầu nguồn, nước từ Đất Mẹ chảy ra. Nước đầu nguồn là nước Thánh, là sữa của Đất Mẹ!...
Hiên trở lại ngồi gần tôi từ lúc nào. Khuôn mặt Hiên trở nên khác lạ, tái xanh. Những vết hằn của xương trên da mặt như đang được phóng lên cực độ, như muốn xóa bỏ đi lớp da mặt đã không còn sắc màu…Tôi nhắm mắt rùng mình khi có cảm giác như đang nhìn thấy một bộ xương mặt kỳ dị!
Hiên trầm ngâm một lúc rồi hít một hơi dài. Không khí mát lạnh của bến nước như thấm vào từng mao mạch Hiên. Ánh mắt như nhìn vào nơi vô định, Hiên chậm rãi kể tiếp.
…Phải sau đó khá lâu, tôi mới được một chú bé người Gia Rai tới giúp tháo sợi dây trói. Tôi đã thực hiện mệnh lệnh của Xuyến như một tên nô lệ. Chú bé Gia Rai ấy là con già làng Rơmah Pao. Khi thấy tôi đem pho tượng gỗ ấy về, già làng Pao đã kể cho tôi nghe sự tích tượng nhà mồ…
Ngày xưa, đã lâu lắm…Già làng Rơmah Pơ có người con gái rất xinh đẹp tên là H’Điêu. Vẻ đẹp của nàng đã được truyền tụng thành bài ca:
H’Điêu bước đi nhẹ nhàng
Chàng trai buôn làng ngó hướng Tây
Mây dạt về hướng Đông
Đồng cỏ rì rào ngả về phía Nam
Thấy nàng đẹp, nai ngơ ngác nhìn
Hươu đứng say mê quên ăn cỏ
Đàn cò sà xuống đầm lầy
Con cò lúng túng rơi xuống đất
Nàng đi uyển chuyển
Vòng ở chân, ở tay rộn ràng
Mặt nàng trắng như bông
Môi nàng đỏ như hoa pét…
Có chàng trai mồ côi tên là Siu Pa yêu nàng say đắm. Chàng Siu Pa khỏe mạnh, giỏi múa gươm, múa khiên nhất trong đám trai làng nên nàng H’Điêu cũng yêu chàng mê mệt. Nhưng vì chàng Siu Pa nghèo quá nên già làng Pơ không cho hai người cuới nhau. Trong khi đó, lão thầy cúng rắp tâm chiếm đoạt nàng H’Điêu cho thắng con trai chột mắt hung ác của lão. Lão dụ dỗ, bày đủ mưu mô nhưng không làm ngả nghiêng được lòng H’Điêu. Cuối cùng lão thầy cúng thực hiện âm mưu hiểm độc. Lão nói với già làng Pơ:”Ơ già làng Pơ! Đêm qua tôi nằm mộng thấy Giàng nói conma lai (1) đang nằm trong tim con H’Điêu!”. Già làng Pơ kinh ngạc, hoảng hốt, không biết nói sao, chỉ giậm chân bịch bịch. Già làng Pơ nghĩ:”Mình ăn ở tốt với dân làng, không có tội gì, tại sao Giàng lại để cho con ma lai nhập vào H’Điêu, cô con gái xinh đẹp nhất làng của già? Hay là…?”. Già làng nghĩ mãi mà không tìm được lời giải đáp ! Thầy cúng liền ra điều kiện : Nếu già Pơ nói được nàng H’Điêu đồng ý cưới con trai lão thì lão sẽ làm phép cứu H’Điêu. Còn nếu không thì H’ Điêu phải bị đem ra xử tội theo lệ làng ! Già làng Pơ thương H’ Điêu, không nỡ ép H’ Điêu lấy thằng Ksor Ten con lão thầy cúng, nhưng già làng Pơ không làm gì được để cứu H’ Điêu khi lão thầy cúng đã tìm ra đủ thứ bằng chứng kết tội nàng là ma lai. Lệ làng tối cao do Giàng đặt ra, không ai được vi phạm ! Để cứu dân làng khỏi tai họa ma lai, H’ Điêu phải bị trừng phạt !...Già làng Pơ như đứt từng khúc ruột, nhưng rồi vẫn phải cố đứng vững như cây xà nu để nhìn lão thầy cúng làm lễ trừng phạt con ma lai… H’ Điêu ! “ Ơ Giàng ! H’ Điêu bị oan rồi ! H’ Điêu không thể là ma lai được !” Trong tim già Pơ có tiếng thét như vậy, nhưng lão thầy cúng không nghe thấy, mặt lão xám xịt, lạnh buốt, mồm lão đang lẩm bẩm những lời khấn mà chỉ mình lão hiểu !...Khi bàn tay mềm mại như cánh hoa pơ-lang của H’ Điêu bị chì nóng đổ vào, nàng rú lên một tiếng kinh hoàng rồi chết rũ như tàu lá chuối non bị bén lửa. Liền đó, già làng Pơ bỗng hét lên một tiếng dữ tợn, ông thấy trái núi Hơđrung như sụp đổ đè lên người ông, nghiến nát ông thành muôn ngàn hạt bụi !
Sau khi H’ Điêu chết, già làng Pơ bị ốm liệt gường. Rồi một đêm, người ta thấy già làng Pơ đi vào rừng sâu, nơi chôn nàng H’ Điêu và ngồi ôm mặt đau khổ bên nấm mộ nàng. Người ta cũng thấy chàng mồ côi Siu Pa ở đấy, chàng đang đánh cồng xung quanh mộ nàng, cầu mong nàng sống lại. Không biết bao nhiêu ngày đi qua mà không thấy già Pơ và chàng Siu Pa trở về? Vài người vào rừng tìm. Khi đến chỗ mộ nàng H’Điêu, người ta kinh ngạc khi thấy già làng Pơ và chàng Siu Pa đã hóa thành hai bức tượng gỗ bên mộ nàng H’ Điêu. Hiểu ra nàng H’ Điêu bị vu oan là ma lai, họ thương xót nàng H’ Điêu vô cùng, nhưng không biết làm sao ! Họ cũng đồng cảm với nỗi đau của già Pơ và chàng Siu Pa, nhưng cũng không biết làm gì ! Những người có mặt tại đó chỉ biết đứng lặng quanh mộ nàng H’ Điêu , bên cạnh già Pơ và chàng Siu Pa ! Rồi những người ấy cũng mãi mãi không trở về, họ cũng hóa thành tượng gỗ ! Từ đó, khi làm lễ bỏ mả (P’thi), người ta tạc những pho tượng như thế chôn xung quanh nhà mồ để cho người chết luôn có người thân bên cạnh !...
Hiên kể đến đó thì ngồi im lặng như pho tượng gỗ . Nhìn Hiên, tôi biết anh đang xúc động sâu xa. Chờ một lát, tôi hỏi :
- Này, ông có hư cấu tí nào không đấy ?
- Tôi xin thề độc – Hiên làm điệu bộ thề - Tôi mà phịa thì Giàng Bênh Gia vặt phứt lưỡi tôi ném cho chó ăn !
- Sao ông hay thề độc thế ? Giàng Bênh Gia là gì ?
- Khi nào trái tim tôi nói, tôi mới thề ! Còn Giàng Bênh Gia là thần Bến nước. Thần linh thiêng lắm. Tôi đã nằm mơ thấy thần phán rằng, rồi tôi sẽ hóa thành tượng gỗ !
- Thật không ?
- Tôi xin thề…
- Thôi đừng thề nữa ! Tôi không thích nghe thề vì lại quan niệm chỉ ai nói dối mới vin vào lời thề !
- Vậy xin chịu ông ! Ông không tin tôi thì để rồi tôi sẽ dẫn ông đi gặp già làng Rơmah Pao. Già làng nói ắt ông tin !Vì có việc đột xuất, đoàn điền dã khảo sát tượng nhà mồ chúng tôi phải chia tay Hiên sớm hơn dự kiến, không kịp chờ Hiên dẫn tôi đến gặp già làng Pao và khai thác hết cái kho fônclo trong đầu Hiên. Mải mê với bao công việc, nửa năm sau tôi mới có dịp quay về tìm gặp lại Hiên, tiếp tục thực hiện công trình nghiên cứu về tượng nhà mồ Tây Nguyên. Nhưng khi đến làng, tôi được biết Hiên đã mất tích gần tháng trời. Tôi chỉ gặp Rơmah Tơ, chú bé Gia Rai đã cứu Hiên hồi nào. Rơmah Tơ cho biết già làng Pao cũng mới chết được nửa tháng. Rơmah Tơ dẫn tôi đi tìm hỏi tung tích Hiên, nhưng người thì nói gặp Hiên đi đãi vàng ở Đăk Glêi, người ta lại nói thấy Hiên đi tìm trầm hương ở bên Chư Prông ! Tôi không tin là như vậy. Đang nghĩ mông lung, tôi vụt nảy ra ý định đến thăm mộ Lai và Xuyến. Rơmah Tơ dẫn tôi đến nơi, sau nửa ngày luồn lách trong rừng. Khi đến nơi, cả tôi và Tơ cùng rú lên kinh ngạc : Hiên đang ngồi ôm mặt, đau đớn, dằn vặt sâu xa, chân thành bên hai nấm mộ mọc đầy hoa pét thắm đỏ ! Tôi càng kinh ngạc hơn khi lại gần thì đó chỉ là một pho tượng gỗ, tuy đẽo vạc đơn sơ nhưng sao mà giống Hiên kỳ lạ . Chẳng lẽ lại có chuyện thần thoại như thế ? Vậy mà Rơmah Tơ lại tin là Hiên đã hóa thành pho tượng gỗ kia ! Cứ để cho chàng Rơmah Tơ tin là như thế. Sự ăn năn thánh thiện của con người trước cái cao cả sẽ sinh ra những điều kỳ diệu mà không thể tìm lời giải đáp cặn kẽ .Tôi và Rơmah Tơ đi lang thang hồi lâu trong rừng mặc cho bàn chân chỉ huy cái đầu. Chúng tôi đến trước thác Ya Li từ lúc nào. Nhìn dòng nước tung bọt trắng xóa, mù mịt cả một vùng rừng xanh ngút ngàn, tôi đoán Hiên có lẽ đã được Thần Bến nước của anh ta mang đi ! Tôi muốn nhảy vào trong cái đám trắng xóa mù mịt ấy để túm cổ anh ta lôi lại, bắt anh ta trả lời bao nhiêu câu hỏi cứ hiện ra trong đầu tôi từ khi gặp Hiên ! Nhưng, những hạt nước li ti đã làm tôi lạnh run. Chúng tôi trở lại, khi đi ngang qua mộ Xuyến và Lai, tôi cứ nhìn mãi pho tượng gỗ giống hệt Hiên mà không thể khẳng định được chắc chắn rằng ai đã tạo nên nó ? Già làng Pao hay là chính Hiên ? Tôi đang đắm chìm trong những suy nghĩ bất tận thì nghe tiếng Rơmah Tơ hát nhẹ, thoang thoảng bên tai :
- Ơi nỗi đau khổ.
Sao cứ bám theo con người suốt đời
Sao chẳng thể chôn ngươi xuống mộ
Vì con người không thể sống thiếu nỗi đau ?
Đó là lời một đoạn trong một H’ri (2) của người Gia Rai mà tôi có nghe vài lần . Chàng thanh niên Rơmah Tơ đã ngừng hát, vậy mà lời ca cứ trở đi trở lại bên tai tôi , ngân mãi, ngân mãi như tiếng cồng …
-----
chú thích: (1) Ma Lai : Một quan niệm lạc hậu của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên. Khi buôn làng gặp tai họa gì đó thì họ cho là do ma lai gây ra (có người chết bất ngờ, dịch bệnh…). Thầy cúng là người đầu tiên loan tin ai đó là ma lai. Người nào bị buộc tội là ma lai sẽ phải chịu những hình phạt khủng khiếp cho đến chết. Đổ chì nóng vào tay như ở trong truyện là một cách khá phổ biến.
(2) H’ri : Tiếng Gia Rai, chỉ một loại trường ca của dân tộc Gia Rai ở tỉnh Gia Lai – Kon Tum.Plêiku, 5-l986 - TP.HCM,2009
Đỗ Ngọc Thạch
nguồn newvietart.com.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét