Thứ Bảy, 1 tháng 10, 2011

Phê bình văn học - Một cơ chế đặc thù của văn hóa - Đỗ Ngọc Thạch

http://phongdiep.net/images/chandung/thu%20vien/do%20ngoc%20thach.jpg

Lý luận phê bình văn học

Đỗ Ngọc Thạch
Phê bình văn học - Một cơ chế đặc thù của văn hóa
Tất cả những biểu hiện của hoạt động thẩm mỹ của con người mà chúng ta
quen nói nôm na là “đời sống văn hóa- văn nghệ”  được bộ môn lý luận
văn hóa  xác định trong một cấu trúc tổng thể theo một hệ thống với
khái niệm văn hóa nghệ thuật – là một hệ thống, một thể thống nhất khép
kín. Trong  hệ thống văn hóa nghệ thuật đó, có nhiều hệ thống phụ, hệ
thông con, thể hiện cơ chế hoạt động của những lĩnh vực khác nhau của
đời sống thẩm mỹ. Một trong những hệ thống phụ đó của văn hóa nghệ
thuật là bộ môn phê bình nghệ thuật.  Các hệ thống phụ trong cấu trúc của văn hóa nghệ thuật đều vận hành theo những quy luật đặc thù, có cơ chế hoạt  động riêng nhưng đều có mối
quan hệ qua lại hữu cơ với nhau. Nếu chỉ nhìn vào qui luật đặc thù thì
dễ dẫn đến những quan niệm cực đoan, phiến diện. Nếu bị những biểu hiện
của mối quan hệ qua lại chồng chéo che lấp thì sẽ không nhìn rõ đặc
trưng loại biệt của từng đối tượng quan sát. Vì thế, dưới đây chúng ta
sẽ quan sát cơ chế hoạt động của một quá trình hoạt động nghệ thuật,
trong đó sẽ làm nổi rõ bộ môn phê bình nảy sinh từ đâu, nó có chức năng
gì, tác động như thế nào vào quá trình này?
1.   Hình thái đầu tiên, công đoạn đầu tiên của một quá trình hoạt đông
nghệ thuật là sản xuất nghệ thuật (theo chữ dùng của C.Mac). Trong cơ
chế sản xuất nghệ thuật hiện đại , bên cạnh “nhân vật chính” là nhà
sáng tác còn có một “công cụ sản xuất” rất quan trọng là nhà biên tập.
Nhiệm vụ lớn nhất của họ là thẩm định, đánh giá trước nhất tác phẩm
nghệ thuật, giúp nhà sáng tác hoàn chỉnh tác phẩm  trước khi nó được ra
mắt công chúng với tư cách là một tác phẩm nghệ thuật hoàn chỉnh. Trước
đây, người ta ít chú ý đến bàn tay của nhà biên tập, dấu ấn lao động
nghệ thuật của họ trong việc cho ra đời một tác phẩm nghệ thuật. Phải
nói rằng quá trình làm việc giữa nhà biên tập và nhà sáng tác diễn ra
khá công phu và  đó chính là một biểu hiện của hoạt động phê bình nghệ
thuật. Hoạt động phê bình ở “khâu yếu” này như thế nào, đến nay vẫn còn
là “chuyện hậu trường”,chưa được chú ý nghiên cứu. Tuy vậy, cũng có thể
nhận xét sơ bộ rằng, hoạt động phê bình đã có nhu cầu nảy sinh, nhu cầu
tồn tại ngay từ khi tác phẩm nghệ thuật chuẩn bị ra đời, thậm chí nó
còn thai nghén trong ý đồ sáng tác của nhà sáng tác. ở khía cạnh khác
có thể nói, đây chính  là cơ sở nảy sinh của kiểu phê bình tình cảm -
cá tính sáng tạo, chủ yếu dựa vào công việc bếp núc của nhà sáng tác mà
nhà phê bình (hình thành từ trong đội ngũ nhà biên tập) nắm bắt tường
tận. Những nhà phê bình này thiên về lý giải, phân tích tác phẩm trong
quá trình “mang nặng đẻ đau” của nhà sáng tác, chú ý nhiều đến cuộc đời
của nhà sáng tác và cố tìm mối quan hệ giữa tác phẩm và chính cuộc đời
của nhà sáng tác. Kiểu phê bình này thường là tạo ra được những chân
dung sinh động về nhà sáng tác hơn là sự “mổ xẻ” lạnh lùng  và khách
quan tác phẩm của nhà sáng tác.
2. Tác phẩm nghệ thuật ra đời, nó tồn tại trong đời sống thẩm mỹ với tư
cách là một vật thể mang giá trị nghệ thuật. Giá trị này được quyết
định bởi  nội dung tinh thần của nó và   phẩm chất của hình thức mang
giá trị đó. Đồng thời nó cũng được qui định bởi tính chất của những nhu
cầu xã hội và bởi  mức độ đáp ứng của tác phẩm đối với những nhu cầu
ấy. Nói cách khác, giá trị nghệ thuật này tùy thuộc vào lý tưởng thẩm
mỹ của thời đại (hệ tư tưởng chính thống của hoàn cảnh lịch sử - xã hội
mà tác phẩm nghệ thuật ra đời). Vì thế, nó mang tính cụ thể - lịch sử
và đương nhiên biến đổi theo biến động lịch sử - xã hội. Thước đo giá
trị của tác phẩm nghệ thuật này nằm trong lý tưởng thẩm mỹ của thời
đại. Thước đo này là “công cụ thẩm mỹ” đặc biệt nhằm đánh giá giá trị
tác phẩm nghệ thuật. Như vậy là, từ trong bản thân tính chất của tác
phẩm nghệ thuật đã nảy sinh nhu cầu tất yếu đánh giá giá trị tác phẩm
nghệ thuật: đó là hoạt động  phê bình nghệ thuật. Như thế, nhà phê bình
nghệ thuật chính là “công cụ thẩm mỹ” đặc biệt để một lần nữa xác định
giá trị tác phẩm nghệ thuật khi nó tồn tại trong đời sống thẩm mỹ với
tư cách là một vật thể mang giá trị nghệ thuật. Giá trị tự thân của tác
phẩm nghệ thuật và sự đánh giá của nhà phê bình có trùng khớp hay
không, đó là một công việc lớn cùa phê bình nghệ thuật.
Sự đánh giá này của hoạt động phê bình nghệ thuât mang tính chất tổng
quát và nó thể hiện lý tưởng thẩm mỹ của thời đại, nhà phê bình nhân
danh người phát ngôn cho tư tưởng  thẩm mỹ của thời đại. Vì thế người
ta thương nói đó là sự đánh giá có tính chất triết học, hoăc  triết mỹ.
Đây chính là cơ sở nảy sinh kiểu phê bình triết hoc, có từ lâu với cách
gọi “Phê bình triêt học truyền thống” (hoặc còn gọi phê bình là “mỹ học
vận động”) do V.G.Biêlinxki sáng lập ở Nga. Kiểu phê bình này thường
nhìn tác phẩm dưới con mắt triết mỹ,chú ý nhiều tới việc  tìm ra sự phù
hợp giữa tác phẩm và  thời đại với sự tồn tại của giá trị tư tưởng và
giá trị thẩm mỹ (thực ra không thể tách bạch ra như thế!). Và như trên
đã nói, giá trị này tùy thuộc vào lý tưởng thẩm mỹ của thời đại, cho
nên nó chỉ chấp nhận những tác phẩm nào “hợp gu”, hợp “khẩu vị” với nó
và đương nhiên, nó gạt ra ngoài những tác phẩm nào vượt quá “khuôn
phép” mà nó – cái lý tưởng thẩm mỹ của thời đại – ngầm qui ước! Vì thế,
khi thời đại có biến đổi, các tác phẩm có sự “đảo lộn” giá trị vì có sự
“đảo lộn các thang giá trị”!...
Như C. Mác nói  “Tác phẩm nghệ thuật  - và mọi sản phẩm khác cũng thế -
đều tạo ra một thứ công chúng sính nghệ thuật  và có khả năng thưởng
thức cái đẹp”. (C. Mác: Về văn học và nghệ thuật -  Nxb Sự thật. H.1997
,tr.96). Công chúng nghệ thuật là nhóm người có trình độ cảm thụ những
tác phẩm nghệ thuật. Việc hình thành công chúng nghệ thuật, từ tự phát
đến tự giác, từ giáo dục nghệ thuật đến giáo dục thẩm mỹ. ở một nền
văn  hóa nghệ thuật phát triển cao, việc giáo dục nghệ thuật cũng như
giáo dục thẩm mỹ (giáo dục nghệ thuật là một bộ phận hợp thành của hệ
thống giáo dục thẩm mỹ) được chú trọng thì công chúng nghệ thuật càng
phát triển, nâng cao. Công chúng ấy có nhạy cảm về nghệ thuật, am hiểu
nghệ thuật, tức là có kiến thức về nghệ thuật mới có khả năng thưởng
thức nghệ thuật, họ tiếp nhận được giá trị của tác phẩm nghệ thuật. Mà
giá trị của tác phẩm nghệ thuật luôn luôn biến đổi và đa nghĩa, lại
được “mã hóa” bằng cấu trúc nghệ thuật phức tạp, ngôn ngữ nghệ thuật
đặc thù, v.v… Việc tiếp nhận giá trị của tác phẩm nghệ thuật đối với
công chúng không dễ dàng gì. Tác phẩm nghệ thuật như là có “lớp vỏ” đặc
biệt bao bọc . Vì thế,có thể nói, chính nhu cầu cảm thụ nghệ thuật của
công chúng đã làm nảy sinh nhu cầu giáo dục nghệ thuật một cách chủ
động cho công chúng, nhu cầu  “giải mã” tác phẩm để cho công chúng tiếp
nhận hết giá trị của tác phẩm. Điều này nảy sinh tất yếu bộ môn phê
bình nghệ thuật: gồm những nhà phê bình có trình độ, kiến thức nghệ
thuật cao làm “phiên dịch”, “môi giới” giữa  công chúng với tác phẩm.
Đây cũng chính là cơ sở của kiểu phê bình chủ yếu dựa vào văn bản cấu
trúc của tác phẩm nghệ thuật. Kiểu phê bình này tập trung  vào việc
phát hiện những cái “ẩn tàng” , “ẩn ngôn” , “ý tại ngôn ngoại” trong
những cấu trúc “ đa tầng”, “đa nghĩa”, “ đa thanh” của tác phẩm nghệ
thuật.
3.
Mặt khác, xét ở giác độ tâm lý tiếp nhận, hoạt động cảm thụ của công
chúng đồng thời xảy ra với hoạt động đánh giá giá trị tác phẩm. Nói
cách khác, đánh giá giá  trị tác phẩm nghệ thuật là một nhu cầu tất yếu
của cảm thụ nghệ thuật. Nhu cầu đánh giá này không chỉ dừng lại ở sự
phản ứng trực tiếp (bản năng của trạng thái xúc cảm thẩm mỹ) của công
chúng nghệ thuật mà lan truyền, tích tụ thành  những “làn sóng dư luận
công chúng”. Làn sóng này tồn tại và phát triển trong đời sống thẩm mỹ,
đến độ nào đó sẽ nảy sinh thành nhu cầu phát ngôn thành những quan điểm thẩm mỹ. Điều này nảy sinh  tất yếu bộ môn phê bình nghệ thuật mà nhà phê bình là những đại biểu ưu  tú nhất của công chúng nghệ thuật . Việc chọn lọc những người tiếp nhận nghệ thuật có tài năng nhất  (theo cách nói của Xtanixlapxki) - những người vừa có một cảm quan nghệ thuật phát triển, tinh tế, được tôi luyện hẳn hoi lại vừa có khả năng biểu đạt
bằng ngôn ngữ các ấn tượng và thể nghiệm nghệ thuật của mình. Những
người này sẽ trở thành những nhà phê bình chuyên nghiệp . Chính vì
thoát thai từ bộ phận ưu tú nhất của công chúng , những nhà phê bình
này bao giờ cũng coi trọng hiệu quả của sự tác động thẩm mỹ của tác
phẩm nghệ thuật vào công chúng, coi trọng mối quan hệ giữa tác phẩm và
công chúng, đương nhiên không thể không có dấu ấn cá nhân của nhà phê
bình. Đây chính là cơ sở của kiểu phê bình xã hội học: tình trạng tiếp
nhận tác phẩm của công chúng thu hút sự chú ý của nhà phê bình. “Công
chúng là vị quan tòa thông minh nhất” – câu nói nổi tiếng này là chỗ
dựa vững chắc cho kiểu  phê bình xã hội học này. Lâu nay, người ta
thường dè bỉu kiểu phê bình là “xã hội học dung tục” bởi bộ môn xã hội
học nghệ thuật chưa phát triển, nhà phê bình chưa thực sự là đại diện
của bộ phận công chúng ưu tú…
*
Đến đây, ta có thể hình dung được rằng: trong cơ chế vận hành của một
quá trình hoạt động nghệ thuật gồm 3 bộ phận: sáng tạo nghệ thuật, tác
phẩm nghệ thuật và cảm thụ nghệ thuật – ba hệ thống phụ của cấu trúc
một quá trình hoạt động nghệ thuật – đều có những cơ sở nảy sinh, những
nhu cầu tất yếu của sự có mặt của bộ môn phê bình nghệ thuật. Bộ môn
phê bình nghệ thuật nảy sinh từ trong quá trình vận hành của ba hệ
thống phụ đó và ngay lập tức quay  trở lại tác động vào quá trình vận
hành  ấy. Như vậy, có thể nói: Phê bình nghệ thuật là hệ thống phụ thứ
tư của hệ thống văn hóa nghệ thuật – một thể thống nhất khép kín.
Điều cần nhấn mạnh ở đây là: phê bình nghệ thuật là một cơ chế đặc thù
của văn hóa, nó là một bộ phận thiết yếu thuộc hệ thống văn hóa nghệ
thuật. Nó có chức năng tạo nên cái “bình thông nhau”, cái cầu nối giữa
cảm thụ nghệ thuật và sản xuất nghệ thuật, nó giải quyết nhiệm vụ xác
định giá trị của tác phẩm nghệ thuật và do đó nó điều chỉnh định hướng
tư tưởng và thẩm mỹ của sản xuất nghệ thuật. Đồng thời nó có khả năng
tác động trở lại vào bản thân việc cảm thụ nghệ thuật, vào ý thức thẩm
mỹ và cảm quan nghệ thuật của công chúng. Điều này qui định tính biện
chứng của quan hệ qua lại giữa nhà phê bình và công chúng nghệ thuật.
Chức  năng vừa nêu của phê bình nghệ thuật, về nguyên tắc nó không thể
lẫn lộn với các bộ môn khoa học chuyên nghiên cứu về nghệ thuật như mỹ
học, lý luận nghệ thuật, xã hội học nghệ thuật, v.v…. Các bộ môn khoa
học về nghệ thuật này không nảy sinh từ nhu cầu nội tại tất yếu của một
quá trình hoat động nghệ thuật mà chúng chỉ quan sát, nhìn vào nền văn
hóa này từ bên ngoài, từ thế giới của các khoa học. Do đó, toàn bộ nền
văn hóa nghệ thuật, trong đó có cả phê bình nghệ thuật, đều nằm ở trong
tầm bao quát của các bộ môn khoa học về nghệ thuật vừa nêu với cái nhìn
khách quan lạnh lùng của tư duy khoa học. Vì mối quan hệ giữa phê bình
nghệ thuật và các khoa học nghiên cứu về nghệ thuật có nhiều mối quan
hệ mật thiết cho nên lâu nay người ta vẫn xếp phê bình nghệ thuật   vào
khu vực các bộ môn khoa học về nghệ thuật như lý luận nghệ thuật,
nghiên cứu nghệ thuật, lịch sử nghệ thuật,v.v… Thậm chí người ta đã đặt
câu hỏi: “Phê bình là khoa học hay nghệ thuật?”, song sự trả lời tính
nước đôi: Phê bình là bộ môn có hai quốc tịch, vừa là khoa học vừa là
nghệ thuật !...đã khiến cho câu chuyện chưa thể có hồi kết !...
*
Qua việc trình bày cơ sở nảy sinh và chức năng của bộ môn phê bình nghệ
thuật nói trên, chúng ta thấy người làm phê bình nghệ thuật phải đồng
thời đáp ứng được tất cả những yêu cầu đã nêu với những phẩm chất ,
trình độ,kiến thức, cảm thụ nghệ thuật, v.v… không thể ở mức bình
thường!... Chính vì vậy mà Lưu Hiệp, nhà phê bình trác việt của Trung
hoa cổ đại, đã nói về phê bình nghệ thuật rằng: “Tri  âm  thực là khó
thay. Cái âm thực là khó biết, người biết thực là khó gặp. Gặp được
người tri âm ngàn năm mới có một lần” (Văn tâm điêu long). /.
Đỗ Ngọc  Thạch

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét