Thứ Hai, 3 tháng 6, 2013

4 truyện ngắn về Sân khấu - Trích: Chuyện tình của Thị Mầu


Thị Mầu lên chùa

4 truyện ngắn của Đỗ Ngọc Thạch về Sân khấu - Trích: Chuyện tình của Thị Mầu


Chuyện tình của thị mầu
Đỗ Ngọc Thạch
Trong Nghệ thuật sân khấu Chèo, nhân vật Thị Mầu là “nổi đình đám” vào loại đặc sắc nhất bởi cả hai lý do hình thức thể hiện và nội dung tư tưởng. Về hình thức, Thị Mầu là một cô gái trẻ đẹp được thể hiện bằng một thứ ngôn ngữ Chèo rất đặc trưng, đa dạng, phong phú và được các nghệ sĩ biểu diễn rất sinh động, tài hoa. Có thể nói, nhân vật Thị Mầu là “đất dụng võ” rất đắc địa của các nghệ sĩ tài năng, mà nghệ sĩ Ưu tú Thu Huyền là một ví dụ. Về nội dung, Thị Mầu là biểu tượng của khát vọng Tình yêu, là sự phản kháng mạnh mẽ, quyết liệt của Tình yêu đối với những trói buộc khắt khe, vô nhân đạo của lễ giáo Phong kiến. Chính vì thế mà cho đến nay, vở Chèo Quan Âm Thị Kính nói chung và nhân vật Thị Mầu nói riêng vẫn chinh phục hoàn toàn khán giả của cuộc sống hiện đại. Hẳn công chúng Chèo không bao giờ quên được sự xuất hiện rất độc đáo của Thị Mầu đã làm sôi động sân khấu Chèo - tâm hồn con người hàng Thế kỷ qua:

Này chị em ơi ? (tiếng đế: sao ?) .
Nay tư mai đã là rằm .
Ai muốn ăn oản thời năng lên chùa đấy chị em ơi ?
(tiếng đế:Các già lên chùa từ bao giờ nhỉ ? – tiếng đế: Mười tư rằm )

Thế mà Mầu tôi mang tiếng lẳng lơ, đò đưa cấm giá,
Tôi lên chùa từ mười ba… tôi lên chùa kia còn thời thấy tiểu mười ba.
Chị em ơi! (tiếng đế: sao?)

Tôi lên chùa thấy tiểu mười ba, mà thấy sư mười bốn ,vãi già mười lăm đấy chị em.
A tôi thấy ông sư còn là mười bốn, vãi già còn là mười lăm.
Tôi muốn cho một tháng có đôi đôi rằm…
Chị em ơi! ( tiếng đế: Sao?)

Tôi muốn cho một tháng đôi rằm, mà trước vào lễ Phật để…sau thăm vãi già đấy chị em.
A nay trước tôi vào mà tôi lễ Phật, này mà để có sau thăm bên vãi già…

*
Có rất nhiều người mê Chèo, mà cụ thể là mê nhân vật Thị Mầu, đã lấy tên Thị Mầu đặt tên cho con gái của mình. Ông Lê Trào ở Làng Thượng Sơn là một trong số những người mê Chèo, mê nhân vật Thị Mầu như thế. Nhà người ta, thường là cầu con trai vì con gái thay nhau chui ra làm thành một bầy “Vịt Giời” khiến cho gia chủ không có con trai nối dõi ! Nhưng nhà ông Lê Trào thì ngược lại, vợ ông đã mười hai lần sinh nở mà toàn con trai, khiến nhà ông biến thành “Trại lính”! Nếu như ông Trào không có thời gian năm năm đã từng trong quân ngũ thì ông không thể khống chế nổi  “ loạn mười hai sứ quân” này! Ông Trào đặc biệt mê Chèo, không có đêm diễn Chèo nào ở trong vùng mà ông bỏ qua, dù cách Làng ông chục cây số, ông cũng “trèo đèo, lội suối” mà đến xem!...

Một lần, có một gánh Chèo nọ diễn vở Quan Âm Thị Kính rất hay, đặc biệt là vai Thị Mầu, khiến cho người xem, nhất là ông Trào “hồn bay phách lạc”! Hết buổi diễn, ông Trào tìm gặp bằng được người sắm vai Thị Mầu và nói: “Vợ tôi đã sinh mười hai lần mà toàn con trai. Nay tôi muốn sinh con gái mà lại muốn nó xinh đẹp, hát hay diễn trò giỏi như Thị Mầu! Vậy Thị Mầu có cách gì giúp tôi được không, tôi xin hậu tạ!”. Người sắm vai Thị Mầu lần đó, chưa kịp tẩy trang, vì muốn cho nhanh xong chuyện, liền nói bừa: “Chỉ có cách này, không biết có hiệu nghiệm hay không là còn tùy thuộc vào bà vợ của ông! Ông hãy đưa ta vào buồng vợ ông, ta sẽ làm phép chui vào bụng bà ấy, tất sẽ sinh ra một ả như Thị Mầu ta!”. Ông Trào nghe nói thấy “có lý” liền nghe theo. Song có một điều mà lúc đó ông Trào không hề biết là: người sắm vai Thị Mầu lần đó là một nam nhân chứ không phải nữ nhân! Vì thế, khi người “Nam nhân” này “làm phép”  chui vào bụng vợ ông Trào thì quả nhiên hiệu nghiệm, tức sau chín tháng mười ngay, vợ ông Trào đã sinh được một ả Thị Mầu hoàn hảo!...

Cô con gái ông Trào được đặt tên chính thức là Lê Thị Mầu, dĩ nhiên là được vợ chồng ông Trào và mười hai người anh yêu thương, chiều chuộng hết mức. Trong ý nghĩ của cha mẹ Mầu và cả mười hai người anh trai, việc đặt tên là Mầu chỉ có ý nghĩa “Ước lệ” mà thôi, chứ không ai nghĩ rằng lại muốn cho cuộc đời của Mầu giống như nhân vật Thị Mầu trong vở chèo Quam Âm Thị Kính. Song, cuộc đời lại xảy ra cái điều mà người ta không muốn nghĩ tới!...

*
Có câu “Gái thập tam, nam thập lục”, tức con gái mười ba tuổi là đã ra dáng một thiếu nữ mơn mơn xuân thì. Mầu khi tới mười ba tuổi là đã phát triển đến mức đạt chuẩn : cao 1,67 mét, số đo ba vòng là 86-60-88, đó là số đo mà các cô người mẫu thời nay ao ước!

Ngày đầu tiên Mầu đi lễ chùa cũng đúng là ngày mười ba.
Mầu cũng gặp một chú Tiểu đang quét chùa, nhưng chú Tiểu này vừa nhìn thấy Mầu thì nhào tới tán tỉnh, sàm sỡ. May mà vừa lúc Sư Thầy xuất hiện, quở mắng chú Tiểu. Chú Tiểu sợ hãi bỏ chạy. Nhưng khi Sư Thầy nhìn kỹ Mầu thì …bám riết lấy Mầu đến nỗi khi sư Trụ Trì xuất hiện cũng không biết, liền bị Sư Trụ trì quở mắng thậm tệ! Đuổi Sư Thầy đi rồi, Sư Trụ trì vừa nói mời Mầu vào trong làm lễ cúng Phật thì trời nổi giông bão, gió bụi bay mù mịt!...Mầu đang luống cuống đứng giữa sân chùa thì hai người anh của Mầu kịp xuất hiện, đưa Mầu về nhà!...

Ngày mười bốn, Mầu lại đi lễ chùa. Sự việc lại xảy ra như ngày mười ba, chỉ khác ở đoạn cuối: khi sư Trụ trì mời Mầu vào làm lễ cúng Phật thì trời không nổi giông bão mà nắng vàng rực rỡ khác thường, nhìn từ xa, người ta thấy trên khoảng không nhà chùa có đám mây ngũ sắc tụ lại rất lâu! Những người giỏi thiên văn địa lý đều nói đó là điềm lành, Quan Âm Bồ Tát Ngài đã giáng trần, nhà Chùa chuyến này có tin vui! Quả nhiên, chín tháng sau, trước cổng chùa có một cái thúng lớn, trong thúng là ba đứa trẻ sinh ba, xem chừng như mới sinh nhưng đã rất cứng cáp! Chú Tiểu là người phát hiện ra cái thúng trước nhất, liền vào báo với sư Thầy. Sư Thầy ra xem rồi vào báo với sư Trụ Trì. Sư Trụ Trì ra xem, nhìn thấy ba đứa trẻ đều đang chắp tay trước ngực, mồm lẩm nhẩm như đọc Kinh Phật, thì nói: “Quan Âm Bồ Tát gửi chùa chúng ta ba đệ tử của Ngài, mười năm sau Ngài sẽ đến đón. Vì vậy hãy đón vào chùa chăm sóc cho chu đáo!”. Sư Thầy và chú Tiểu liền đưa ba đứa trẻ vào chùa, từ đó thay nhau chăm sóc tận tình…

*

Mười năm sau, ba đứa trẻ hồi nào đã lớn thành ba thiếu niên xinh đẹp, khỏe mạnh và thông minh khác thường. Nhà chùa có bao nhiêu Kinh sách ba đứa đều đọc hết và đều thuộc làu làu. Tuy không nói ra công khai, nhưng ai cũng biết trong ba đứa trẻ đó, có một đứa là con của chú Tiểu, bởi nó giống chú Tiểu như đúc, có một đứa là con của sư Thầy, bởi nó giống sư Thầy như lột, còn đứa thứ ba thì giống sư Trụ Trì như hai giọt nước, chỉ có điều nó không già như sư Trụ trì mà thôi. Trong thâm tâm, cả chú Tiểu, sư Thầy và sư Trụ trì đều muốn hoàn tục để cưới Mầu, để được công khai làm bố đứa con của mình. Nhưng Mầu thì không thích cưới ai cả, và chỉ muốn đón ba đứa con về ở với mình.

Đúng ngày ba đứa trẻ vào chùa, sau mười năm, Mầu lên chùa. Một chú Tiểu mới, thấy Mầu cứ ngó nghiêng mà  không nói gì thì hỏi:
-Mầu lên chùa đấy à? Sao không “quậy” như trong vở chèo Quan Âm Thị Kính đi?
-Hôm nay ta không có hứng! – Mầu lạnh lùng nói – Gọi cho ta ba anh em sinh ba ra đây ta gặp!
-Không được! – chú Tiểu nói ngay – Sư Thầy đã dặn không được cho ba anh em đó ra ngoài gặp bất cứ ai! Mầu muốn gặp ba anh em thì phải hỏi ý sư Thầy. Để tôi đi hỏi sư Thầy cho! Nhưng phải có điều kiện!
-Điều kiện gì thì nói toẹt ra đi, chắc lại đòi “tòm tem” chứ gì? Mới vào chùa đã nhiễm cái máu “Sư hổ mang” rồi! – Mầu thúc dục.
-Thôi được, Mầu đã hiểu ý thì tôi nói thật: cho tôi gửi một đứa con và khi Mầu có thai, tôi sẽ đứng ra nhận là bố cái thai chứ không làm ngơ như bố của ba đứa trẻ sinh ba kia!...

Cuộc thỏa thuận giữa chú Tiểu và Mầu diễn ra thật nhanh chóng, ba anh em sinh ba được ra gặp mẹ. Mầu  thấy ba đứa trẻ thì nhào tới ôm hôn, nhưng cả ba đứa đều lùi ra và cùng nói, như là đồng ca: “Nam mô A di đà Phật! Nam nữ thọ thọ bất thân! Xin thí chủ giữ đúng phép tắc! Thí chủ có điều gì muốn nói thì nói ngay kẻo không có nhiều thời gian!”. Mầu bỗng cười khanh khách mà nói: “Thí chủ cái con khỉ! Con cái thấy mẹ mà không lạy chào, thật là bất hiếu! Đã bất hiếu như thế thì còn tu cái gì, tu hú!”. Ba anh em lại cùng nói: “Người mẹ mà bỏ con khi còn đỏ hỏn ngoài cổng chùa thì là đã dứt tình mẫu tử. Bao năm qua, đứa trẻ được ai nuôi dưỡng, cho bú mớm thì đó chính là mẫu tử!”. Mầu nghe nói vậy thì lặng người một lúc rồi nói: “Thôi được, các ngươi không nhận người mẹ này cũng không sao, nhưng phải vào Làng minh oan cho Mầu, trả lại danh dự cho Mầu, nói với mọi người rằng Mầu không phải là hoang thai mà là Quan Âm Bồ Tát cho môn đồ đầu thai vào Mầu. Sau đó đòi Làng bồi thường trăm lạng vàng cho Mầu vì đã dùng hình phạt dã man đối với Mầu là bỏ rọ trôi sông!”. Ba đứa trẻ sinh ba nghe Mầu nói vậy thì nhìn nhau như có ý dò hỏi xem sẽ trả lời thế nào? Đứa có khuôn mặt giống sư Trụ trì nói: “Thực ra chúng ta không dám nhận mẹ vì muốn bảo vệ danh dự cho cha. Bây giờ mẹ đã nói thế thì quả là rất thiệt thòi cho mẹ. Lúc mẹ bị Làng phạt vạ, chúng ta còn bé tý chưa làm gì được thì bây giờ phải làm cái việc đó, lẽ ra phải làm từ mười năm trước!”. Đứa có khuôn mặt giống sư Thầy nói tiếp: “Sư huynh nói rất đúng. Chúng ta không thể cứ sai lại sai nữa. Phải trả lại danh dự cho mẹ và người bị phạt phải là ba người cha!”. Đứa bé có khuôn mặt giống chú Tiểu liền nói ngay: “Hai huynh nói rất hay, nhưng ba người cha đẻ của chúng ta đều đang có chức tước lớn trong tổ chức Phật giáo, không thể đưa ra bất cứ lời phán xét nào tới họ. Cách tốt nhất là nên tiếp tục im lặng. Sự việc dù sao cũng đã xảy ra, đã qua lâu rồi thì cho qua luôn. Mẹ chúng ta tuy có bị tiếng xấu này nọ nhưng cũng đã bình an, thế là tốt rồi. Dĩ hòa vi quý, nếu cứ đem chuyện cũ ra phán xét cho đúng người đúng tội thì muôn đời không bao giờ hết chuyện, oan oan tương báo bao giờ mới dứt?”.Ba đứa trẻ tuy là nói chuyện trao đổi ý tứ với nhau nhưng cố ý cho Mầu nghe thấy và đứa có khuôn mặt giống sư Trụ trì còn nói riêng với Mầu: “Thí chủ là người có tướng cách rất quý, sẽ luôn có quý nhân phò trợ, chẳng có gì đáng phiền muộn. Cuối năm nay có người đến cầu hôn thì lấy chồng đi, tất sẽ vinh hiển suốt đời!”… Mầu nghe nói vậy thì biết nói gì nữa bèn cáo lui!...

*
Cuối năm, Làng Thượng Sơn có một khoản tiền lớn nhờ có tới hai công ty nước ngoài tới đầu tư xây dựng hai nhà máy khổng lồ, một cái ở đầu Làng, một cái ở cuối Làng. Mấy già Làng nói, như thế gọi là đầu xuôi đuôi lọt, Làng ta từ đây làm cái gì cũng sẽ thuận buồm xuôi gió! Quả nhiên, nhà nhà đều hoan ca, làng trên xóm dưới không lúc nào ngớt tiếng sáo tiếng nhạc. Tất nhiên, các vị Trưởng lão đã công phu đi mời một Đoàn Chèo có nhiều ngôi sao sáng giá tới Làng diễn liên tục một tháng ròng!


Một hôm, khi chuẩn bị diễn lớp “Thị Mầu lên chùa” thì diễn viên sắm vai đột nhiên đau bụng dữ dội. Mọi người đều nói đó là bệnh đau ruột thừa, phải đưa đi bệnh viện mổ gấp kẻo nguy đến tính mạng. Đưa người sắm vai Thị Mầu đi rồi, đi kiếm người dự bị thì không biết chạy đâu. Lúc đó, ông Lê Trào có mặt ở gần đó, thấy vậy liền nói: “Để tôi nói con Mầu nhà tôi nó đóng thế cho!”, liền cho gọi Mầu tới. Quả nhiên, Mầu vào vai còn nhuyễn hơn cả người đang giữ vai Thị Mầu của Đoàn Chèo. Riêng ông Trưởng Đoàn Chèo, vừa nhìn thấy Mầu đã chết mê chết mệt, sau đó đã đòi cưới Mầu bằng được. Dĩ nhiên là ông Lê Trào và Mầu đều đồng ý, vừa có chồng vừa được tuyển thẳng thành diễn viên chính thức của Đoàn Chèo thì còn gì hơn nữa. Sang năm mới, Mầu còn được “hưởng lộc” lớn hơn nữa khi ông chồng được điều lên Bộ Văn hóa làm một chức quan nghe nói tương đương hàng đầu cấp tỉnh, còn Mầu  thì lên làm chức Trưởng đoàn Chèo, tùy nghi muốn diễn kiểu nào thì diễn, muốn diễn ở đâu thì đến, tuy nhiên vẫn còn có nhiều trói buộc... Khi nghe có chính sách, chủ trương “Xã hội hóa sân khấu”, Mầu thích lắm bởi muốn làm Bà chủ hoàn toàn, tuyệt đối của Đoàn chèo…

Thời gian trôi đi…Khi Đoàn Chèo chính thức hoạt động theo qui chế mới, Mầu cho đổi tên thành “Đoàn Chèo Thị Mầu” và cho mời ba anh em sinh ba tới , nói: “Giờ các con đã tới tuổi trưởng thành, việc ở lại Chùa theo nghiệp tu hành hay hoàn tục trở về cuộc sống dân gian là do các con tự quyết định. Tuy nhiên, dù thế nào thì các con cũng phải tham gia vào Tổ sáng tác kịch bản của Đoàn Chèo của Mẹ”. Cả ba anh em cùng nói: “Mẹ nói rất đúng, nhưng tự chúng con không thể quyết định được là ở lại chùa hay về nhà với Mẹ, bởi đây là “Duyên nghiệp”, có muốn cũng không được và không muốn cũng khó tránh khỏi. Nhưng dù thế nào thì chúng con cũng sẽ là thành viên tích cực của Tổ sáng tác kịch bản. Chúng con đã suy nghĩ rất nhiều về đề tài mà Đoàn Chèo của Mẹ đang mang tên: Thị Mầu. Tuy nhiên, có điều chúng con cứ phân vân mãi mà nghĩ chưa thông: Thị Mầu trong vở Chèo kia có Tình yêu hay không? Và câu này mẹ có cho phép mới dám hỏi? (Mầu ra hiệu cứ nói) Mầu mẹ có tình yêu với bố chúng con hay không?”. Mầu bất chợt bị hỏi như vậy thì chưa thể trả lời, bởi thực ra Mầu cũng không nghĩ là mình sẽ thích chứ đừng nói đến chữ yêu mấy người đó, còn sự thể ra như thế là do họ dồn ép Mầu quá đáng, mà Mầu thì không có kinh nghiệm tự vệ, phòng thân!...

Vui chân, Mầu tới chùa lúc nào không hay. Một chú Tiểu thấy Mầu tới thì hỏi: “Hôm nay đã tới mười ba đâu mà Mầu đã lên chùa?”. Mầu cười nói: “Từ nay ta đi lễ chùa không cần kể là ngày nào! Được chưa?”. Chú Tiểu thấy vậy thì chạy vào gọi Sư Thầy…/.

Sài Gòn, Tháng 1-2010

Đỗ Ngọc Thạch

nguồn: vanchuongviet.org

  1. Đỗ Ngọc Thạch . Sinh ngày l9-5-1948, tại Phú Thọ. Tốt nghiệp ĐH Tổng hợp (Khoa Ngữ Văn) năm l976; Làm việc tại các cơ quan: ...
    vanchuongviet.org/index.php?comp=tacgia&action=detail&id=1831 - Bộ nhớ cache

    Nghêu, Sò, Ốc, Hến (truyện ngắn)


    Bốn truyện ngắn về Sân khấu của Đỗ Ngọc Thạch


    1. Triển lãm sắp đặt mặt nạ tuồng nhiều nhất Việt Nam

      Bốn truyện ngắn về Sân khấu của Đỗ Ngọc Thạch: 
      Tuồng và Chèo; Mẹ Đốp; Chuyện tình của Thị Mầu; Nghêu Sò Ốc Hến



      1. Đỗ Ngọc Thạch. ... Tôi thì đọc truyện ngắn này của tác giả Đỗ Ngọc Thạch như mộttruyện có ảnh hưởng phong cách truyện ...
        damau.org/archives/10337 - Bộ nhớ cache
    2. MẸ ĐỐP

    3. Chi tiết Chuyên mục: Truyện ngắn Đỗ Ngọc Thạch Lượt xem: 13 1. ... Chùm haiTruyện ngắn về Sân khấu của Đỗ Ngọc Thạch ...
      blog.tamtay.vn/entry/view/781074/Su-phu-cua-su-phu-Do-Ngoc-Thach.html - Bộ nhớ cache
      Thêm kết quả từ blog.tamtay.vn »
    4. ... cả hai chữ Ngọc Thạch! ... Chùm hai Truyện ngắn về Sân khấu của Đỗ NgọcThạch (18.04.2012 01:09) Xem chi tiết : Những bản tin khác:
      nguoibanduong.net/index.php?nv=News&at=article&sid=5863 - Bộ nhớ cache
    5. Nghêu sò ốc hến - Truyện ngắn Đỗ Ngọc Thạch | Blog ...
    6. Nghêu, Sò, Ốc, Hến là vở Tuồng Hài (còn gọi là Tuồng Đồ) thuộc vào hàng mẫu mực của nghệ thuật sân khấu Tuồng.
      blog.tamtay.vn/entry/view/714051 - Bộ nhớ cache
    7. Quanh Hồ Gươm - Truyện ngắn của Đỗ Ngọc Thạch (27.05.2012 21:58) ... Chùm haiTruyện ngắn về Sân khấu của Đỗ Ngọc Thạch ...
      www.nguoibanduong.net/index.php?nv=News&at=article&sid=5625 - Bộ nhớ cache
    8. Nghêu, Sò, Ốc, Hến - Đỗ Ngọc Thạch - Nghêu, Sò, Ốc ...
    9. Nếu như người ta thường nói sân khấu ... Truyện ngắn này chủ yếu nói về ... Võ Quảng Bạn học lớp hai - Đỗ Ngọc Thạch ...
      4phuong.net/ebook/40168007/ngheu-so-oc-hen.html - Bộ nhớ cache

      I. TUỒNG VÀ CHÈO

      1. Tuồng và Chèo là hai loại hình nghệ thuật sân khấu truyền thống đậm nét bản sắc dân tộc nhất của nghệ thuật sân khấu Việt Nam. Tuồng thiên về Dương tính: thể hiện tính Bi hùng của cuộc sống là sở trường của Tuồng. Chèo thiên về Âm tính: thể hiện tính Nhân bản của cuộc sống là sở trường của Chèo. Trải qua bao cơn biến thiên, tưởng như có lúc Tuồng bị xếp vào Kho Lưu trữ của Bảo Tàng Sân khấu, chèo bị đuổi về góc chiếu nơi sân đình thôn quê!...Nhưng, những người say đắm, tâm huyết với Tuồng và Chèo không hề suy giảm, công chúng sân khấu không phải đã hoàn toàn lạnh nhạt với Tuồng và Chèo. Và, như là một tất yếu, các Nhà Hát Tuồng và Nhà Hát Chèo vẫn rực rỡ ánh đèn, dù chỉ có một vài khán giả vẫn diễn!...
      Xem chi tiết

      Xem thêm: 
    10. SÂN KHẤU TUỒNG - NGUỒN GỐC VÀ QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN
    11. VỀ VẤN ĐỀ KẾ THỪA TRUYỀN THỐNG ĐỂ XÂY DỰNG TUỒNG HIỆN ĐẠI

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét