Chủ Nhật, 2 tháng 6, 2013

Ký ức Làm Báo (3) - Đỗ Ngọc Thạch





Ký ức Làm Báo (3)- Đỗ Ngọc Thạch

6 truyện ngắn về Nhà Báo của Đỗ Ngọc Thạch - Trích: Ký ức Làm Báo 3

Tôi bắt đầu viết báo từ thời còn là sinh viên nhưng chỉ là nổi hứng thì viết và chỉ mới biết báo chí ở sản phẩm “giấy trắng mực đen” chứ chưa biết gì về nghề báo, tức để có tờ báo “giấy trắng mực đen” đó, người ta đã phải làm những gì, tức qui trình làm báo từ A tới Z. Từ khi về “làm việc” ở Viện Văn học, tôi đọc báo nhiều hơn và cũng tích cực viết báo hơn bởi đã có ý thức hơn về nhuận bút, một khoản thu nhập không nhỏ đối với đồng lương “khổ hạnh” của đời “ăn lương” Nhà nước, mặc dù nhuận bút cũng “mỏng manh” như tờ giấy báo mà thôi
Xem chi tiết

6 truyện ngắn về Nhà Báo - Đỗ Ngọc Thạch



  1. Chuyện một nhà báo (truyện ngắn)
    Con gái viên Đại Úy (truyện ngắn)

    Ký Ức Làm Báo - 2 (truyện ngắn)
    Ký Ức Làm Báo - 3 (truyện ngắn)
    Ký ức làm báo (truyện ngắn)


    PHONGDIEP.NET - CHUYỆN MỘT NHÀ BÁO          

    trích đăng Ký ức Làm Báo -  3:



    Ký Ức Làm Báo - 3
    Đỗ Ngọc Thạch
    1. “Dũng sĩ diệt Giám đốc”

    Bây giờ, báo chí đều được in trên giấy tốt với màu sắc rực rỡ. Nhưng mới đây thôi, khoảng hai chục năm trước, tức là vào những năm 1980, cho đến đầu những năm 1990, phần lớn báo chí còn phải in trên những tờ giấy đen thui! Phép lạ nào đã biến “Nàng lọ lem” báo chí thành Công chúa rực rỡ sắc màu? Một trong những phép lạ đó chính là chuyện báo chí tham gia việc quảng cáo đủ các loại sản phẩm cho các doanh nghiệp. Nói về chuyện quảng cáo của báo chí thì không bao giờ hết. Vì thế, ở đây tôi chỉ nói về một nhân vật nữ chuyên “chạy quảng cáo” cho các tờ báo mà tài năng của cô đã được “vinh danh” là “Dũng sĩ diệt giám đốc”.

    Xin nói ngay, “thuật ngữ” này là cách nói ăn theo cụm từ “Dũng sĩ diệt Mỹ” của cánh nhà báo dùng để chỉ những ai có tài chinh phục được các giám đốc các công ty để lấy quảng cáo về cho tờ báo của mình. Nhân tiện cũng nói sơ qua về xuất xứ và ý nghĩa của cụm từ “Dũng sĩ diệt Mỹ”.  Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, từ sau năm 1965, Lầu Năm Góc đổ quân ồ ạt vào miền Nam Việt Nam, khiến cho cuộc chiến ngày càng khốc liệt. Lính Mỹ được huấn luyện kỹ càng, còn được gọi là “lính Vua” vì được trang bị rất đầy đủ: vũ khí tối tân, áo giáp chống đạn, thiết bị nhìn đêm, mặt nạ phòng độc. Trước khi vào trận thì có máy bay ném bom và pháo binh dọn đường, ăn uống tốt, chỗ ở tốt, giải trí có rất nhiều hình thức, lương cao… Với ý chí quyết chiến, quyết thắng, chúng ta đã phát động một cuộc thi đua diệt Mỹ trong toàn quân, toàn dân. Bất cứ ai, có tinh thần chiến đấu cao, tiêu diệt được một lính Mỹ thì được phong danh hiệu “Dũng sĩ diệt Mỹ”. Có rất nhiều chiến sĩ của chúng ta, đã nhiều lần được phong danh hiệu “Dũng sĩ diệt Mỹ”. Đặc biệt, có cô bé Hồ Thị Thu được phong danh hiệu này khi mới 13 tuổi.
    Khi mới 9 tuổi, cô bé Hồ Thị Thu đã là giao liên hoạt động tại Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng (nay là tỉnh Quảng Nam) chuyển tài liệu, thư từ cho cán bộ chiến sĩ trong vùng bí mật. Lúc 11 tuổi, Thu xung phong vào đội xung kích bí mật của xã hoạt động tại vùng giáp danh giữa hai huyện Điện Bàn và Duy Xuyên, vận chuyển vũ khí tham gia chống càn trên mặt trận Quảng - Đà. Năm 1967, Thu được giao nhiệm vụ canh chừng các động tĩnh của đồn bốt địch để báo cáo. Thấy lính Mỹ - Ngụy đem rất nhiều súng ra lau chùi, cô cùng 3 bạn nhỏ bí mật nhặt sỏi, cát nhét vào các nòng súng. Tối đó, bộ đội ta tập kích đồn địch, đánh giáp lá cà, không có vũ khí chống trả, địch bị ép ra mép sông, bỏ chạy tán loạn, bỏ lại những khẩu súng toác nòng dính máu. Trận đánh đó ta thắng lớn mà không bị tổn thất. Riêng Thu, được phong tặng danh hiệu Dũng sĩ diệt Mỹ khi mới 13 tuổi! Sau khi được phong tặng danh hiệu Dũng sĩ diệt Mỹ, cô bé Hồ Thị Thu được ra miền Bắc gặp Hồ Chủ Tịch, không chỉ một lần mà tới ba lần…
    Trong số rất nhiều những người được phong tặng danh hiệu Dũng sĩ diệt Mỹ, có một người tên Hoàng Dũng Cảm, được nhận danh hiệu này tới sáu lần, nhưng có kết cục thật bất hạnh: trận đánh cuối cùng đã lấy của Dũng Cảm cả hai cái tay và hai cái chân!... Khi Hoàng Dũng Cảm gặp lại người vợ và đứa con gái năm tuổi, tên là Cam, cả hai mẹ con đều ngất xỉu, khi tỉnh lại thì người mẹ ngơ ngẩn như người tâm thần, còn cô con gái nhỏ thì gọi Dũng Cảm là bố Sọ Dừa và cùng với mẹ ở lại trại An dưỡng chăm sóc bố Sọ Dừa. Trại An dưỡng làm cho họ một căn nhà nhỏ ở mảnh vườn cây ăn quả của trại, sau này có nhiều gia đình thương binh nữa đến ở, khu vườn trở thành một xóm nhỏ rất vui. Hai mẹ con vừa chăm sóc người bố Sọ Dừa vừa nhận thêm việc của nhà bếp trong trại. Thời gian cứ lầm lì trôi qua, người bố Sọ Dừa của cô bé Cam không thể mọc lại tay và chân như trong truyện cổ tích, nhưng ba năm sau, người mẹ của cô bé lại đẻ thêm cho cô bé một đứa em gái, đặt tên là Chanh. Tuy nhiên, cô bé Cam vẫn nuôi hy vọng người bố Sọ Dừa của cô sẽ mọc ra đủ hai tay và hai chân như trong truyện cổ tích.

    *

    Tôi biết cái gia đình bốn người nhưng chỉ có sáu cái tay và sáu cái chân này từ hồi còn là sinh viên, được cử đến Trại An dưỡng để viết về những “Dũng sĩ diệt Mỹ” và những chiến công của họ. Lúc đó, năm 1972, cô béCam đã 9 tuổi, đã có thể làm mọi việc như người mẹ: từ việc chăm sóc người bố Sọ Dừa, chăm sóc em bé và những công việc của nhà bếp trong trại An dưỡng. Mới thoạt nhìn ai cũng có thể nghĩ cái gia đình nhỏ bé này thật khó mà tồn tại. Tuy nhiên, hai mẹ con cô bé Cam lại tỏ ra rất thản nhiên chấp nhận mọi khó khăn của cuộc sống và nếu có hai hỏi cô bé sau này sẽ làm gì để nuôi người bố tàn tật thì cô bé thản nhiên nói: “Bố cháu đã sáu lần được phong tặng danh hiệu Dũng sĩ diệt Mỹ thì cháu cũng sẽ phải là “Dũng sĩ kiếm tiền”. Người ta vẫn nói “Hổ phụ sinh hổ tử” đó thôi!”. Ngay tức thời, ai nghe cũng bật cười và không thể hình dung nổi cách nói “Dũng sĩ kiếm tiền” của cô bé có nghĩa như thế nào?

    Tôi gặp lại cô bé Cam vào khoảng hơn 10 năm sau, ngay tại trước cổng của Trại An dưỡng, khi tôi đi cùng một người bạn tới trại An dưỡng thăm người nhà. Lúc này, cô bé Cam ngày xưa đã là một thiếu nữ tuổi đôi mươi cực kỳ xinh đẹp… Gặp lại tôi, cô bé rất vui và líu ríu kể rất nhiều chuyện: “Bố Sọ Dừa của em vẫn khỏe mạnh. Mẹ em thì có yếu đi nhiều nhưng không còn cái tật ngơ ngẩn như người tâm thần nữa. Bây giờ em đã có tới hai đứa em chứ không phải chỉ một như trước. Đứa chị đã hơn 10 tuổi, nó là “đôi chân của bố”. Đứa em mới bảy tuổi, nhưng nó đã là “Đôi tay của bố”. Còn em là “Dũng sĩ kiếm tiền” của bố!...”. Rồi cô gái đưa tôi về nhà: ngôi nhà đã được “gia cố” nhìn khang trang hơn xưa, người bố Sọ Dừa đang dạy học cho hai đứa con và ba đứa trẻ hàng xóm, anh ngồi trên một cái ghế dựa lớn, được “cố định” vào cái ghế bằng một cái “đai xanh”, giống như người ta ngồi trên máy bay buộc dây an toàn. Ngồi nói chuyện với người Dũng sĩ diệt Mỹ năm xưa, tôi không thấy ở anh có một biểu hiện gì là kêu khổ, ta thán về cuộc sống thiếu hẳn tay chân của mình. Dường như anh đã rất quen với cái thân hình Sọ Dừa mà cô con gái đặt cho anh (Thực ra, Sọ Dừa chỉ có cái đầu và mỗi khi di chuyển thì lăn như quả bóng. Tuy người Dũng sĩ diệt Mỹ Dũng Cảm có thêm cái thân người nhưng hai chân bị cưa tới bẹn nên không thể tự ngồi được và cũng lăn quay gần như Sọ Dừa). Tôi đang định hỏi khi cần “vận động” thì ai trợ giúp và bằng cách nào thì cô con gái tên Cam tới cởi cái “đai xanh” cho người bố Sọ Dừa và nói với tôi: “Tới giờ bố em đi tè rồi!”, và vừa nói cô bé Cam vừa bế người bố Sọ Dừa lên như bế một con gấu bông! Tôi thật sự kinh ngạc về sức khỏe cử đỉnh Hạng Võ của cô bé Cam thì đứa em mười tuổi của cô bé Cam nhìn tôi tủm tỉm cười rồi nói: “Cháu cũng bế được bố Sọ Dừa như thế!”. Đứa chị chưa dứt lời thì đứa em bảy tuổi nói: “Em cũng bế được bố Sọ Dừa!”. Nhìn hai đứa bé tuy không sinh đôi nhưng rất giống nhau, tôi thoáng nghĩ nếu còn là thời chiến thì chị em chúng nó đã thành Dũng sĩ diệt Mỹ rồi! …Cảm giác của tôi khi chia tay là nói chung, cuộc sống của cái tiểu gia đình thương binh này không đến nỗi khó khăn, thiếu thốn như người ta tưởng…

    Bẵng đi hai năm, một hôm cô gái tên Cam đến tìm tôi ở tòa soạn. Có vẻ như cô gái rất bận bịu nhiều việc, nhiều cuộc hẹn nên sau khi mời tôi chủ nhật tới đến nhà cô ở Trại An dưỡng để ăn lễ đầy năm đứa em thứ ba, cô gái đưa tôi cái “Cạc-vi-zit” để “nếu có gì thì gọi điện thoại” rồi cáo từ. Khi cô gái tên Cam đi khuất bóng, tôi mới ngó tới cái mảnh giấy nhỏ có mùi thơm đặc biệt thì giật mình khi thấy không phải là cái tên Hoàng Thị Cam như tôi nghĩ mà là “Hoàng Đại Nương”, một cái tên khét tiếng, - một “Dũng sĩ diệt giám đốc” trong làng báo ở khu vực quảng cáo, tiếp thị mà tôi mới nghe nói tới khoảng hai năm nay! Nghĩ tới người bố Sọ Dừa “Dũng sĩ diệt Mỹ” của cô gái, tôi chỉ còn biết thốt lên: Quả là Hổ phụ sinh Hổ tử!


    2. Tai biến của nghề báo

    Người ta thường nói nghề báo là “Nghề nguy hiểm”, nhà báo hay gặp “Tai nạn nghề nghiệp”. Quả là như vậy, nhưng cũng cần mở ngoặc là chỉ những nhà báo nào “dấn thân”, “nhập thế” thì mới phải hứng chịu sự nghiệt ngã của cái “quy luật muôn đời”, còn những nhà báo “chuyên môn thuần túy”, thích “ẩn dật” thì vẫn có thể bình chân như vại!

    Nói về những nhà báo “bình chân như vại” và “sống lâu lên lão làng” thì thực ra chẳng có gì để “dựng thành chuyện”. Tuy nhiên, kiểu nhà báo này lại rất quan trọng và nó tạo ra “mặt bằng” của đời sống báo chí. Có thể gọi kiểu nhà báo này là “viên chức mẫn cán” và có thể nói, về bản chất, báo chí là một loại “công cụ đặc biệt” của Nhà nước và lẽ đương nhiên nó có những qui định, qui chế rất chặt chẽ không thể vi phạm, không thể “tự do quá trớn” và “dân chủ bừa bãi”. Nếu nhà báo nào nhận thức sâu sắc được điều này thì sẽ suốt đời bình chân như vại và sống lâu lên lão làng cho đến lúc về hưu. Còn những nhà báo nông nổi và ảo tưởng với những “sứ mạng thiêng liêng” của báo chí mà thực ra chỉ do những nhà “Lãng mạn chủ nghĩa” hoặc “chủ nghĩa không tưởng” gán cho nó, không sớm thì muộn cũng dính tai họa, không nặng thì nhẹ.

    Nói về “tai biến của nghề báo” thì thật thiên hình vạn trạng và có lẽ cũng chỉ có thể nói được phần nào bằng thể loại lớn như tiểu thuyết trường thiên hoặc phim truyền hình nhiều tập. Trường hợp “tai nạn nghề nghiệp” mà tôi nói dưới đây là thích hợp với thể loại Truyện ngắn hơn cả.

    Tôi biết anh bạn Lý Trần Tiến Công trong một cuộc “Họp báo” của một doanh nghiệp lớn. Hôm đó, doanh nghiệp này kỷ niệm 10 năm thành lập và chiêu đãi cánh nhà báo “không say không về”. Lý Trần Tiến Công được bạn hữu “rút gọn” lại là A Công và vì nó gần âm với “A Còng” nên gọi là A Còng - một cái bút danh tuy không độc đáo nhưng hợp thời. A Còng kém tôi đúng một con giáp nên mới quen biết đã kết bái huynh đệ và luôn mồm gọi tôi là Đại Ca. A Còng nói lai lịch có tới ba đời làm nghề báo nhưng hoàn toàn tự thân vận động chứ không dựa dẫm vào cha và ông nội là những nhà báo quan chức khá lớn. Khi mới vào nghề, đúng như tên gọi mà người ông đặt cho, A Còng được biên chế vào tổ chuyên viết về chống tham nhũng. Nhưng chỉ sau một năm, A Còng nhận thấy người tổ trưởng của mình không những không chống được tham nhũng mà xem ra đang bị một đường dây tham nhũng lớn chi phối. Không thể đi theo tổ trưởng và cũng không nỡ tố cáo tổ trưởng (và muốn tố cáo cũng không hề dễ dàng bởi người tổ trưởng rất kín võ), A Còng xin sang một tờ báo khác, thuộc quyền quản lý của “Đàn bà” - giống như nhà thơ Nguyễn Vỹ ngày xưa đã từng “bưng thúng theo đàn bà / ra chợ bán văn ngày tháng qua”. Dù làm cho tờ báo nào thì cái tên cúng cơm của A Còng luôn quy định tinh chất công việc của A Còng: kiên quyết không ngừng thế tiến công! (Cái tên “Tiến Công” của A Còng được ông nội của A Còng lấy ra từ hai chữ cuối của câu thơ này). Có nghĩa là A Còng được giao nhiệm vụ chuyên viết về đề tài “chống mua bán dâm” trong cộng đồng dân cư! Thực ra, chuyện mua bán dâm cũng như chuyện tham nhũng, hối lộ, đã có từ “thời Napoleon cởi truồng”, và ai cũng phải thừa nhận chống cũng như không! Nhưng chuyện chống luôn nằm trong danh mục nhiệm vụ của cơ quan báo chí và không những không thể bỏ mà thi thoảng phải đem ra “hâm nóng”. Nói cách khác, nhiệm vụ của A Còng là “hâm nóng” cái đề tài muôn thuở đó khi có chỉ thị từ trên!...

    Khi A Còng gặp tôi là đã có thâm niên gần mười năm làm công việc “hâm nóng” cái đề tài “chống mua bán dâm”. Lúc chia tay, A Còng nói: “Lúc nào đại ca thấy chán đời, cần có nơi dốc bầu tâm sự, cần có một bờ vai mềm mại để tựa má kề vai thì cứ phôn cho đệ!”. Tôi ghi nhớ lời nói đó của A Còng nhưng vì bận bịu nhiều việc mà quên khuấy đi có đến gần một năm mới sực nhớ ra. Tôi liền gọi điện cho A Còng thì ở bên kia có tiếng nói của một giọng nữ, rất mềm mại và êm dịu: “Anh hỏi A Còng nhà em hả? Bị bắt hai hôm nay rồi, bị kết tội môi giới và tổ chức mua bán dâm!... Nhưng không sao đâu, chắc là họ bắt nhầm, em đang nhờ người bảo lãnh, có lẽ chỉ ngày mai là về thôi! Ngày mai anh tới nha!”. Ngày mai tôi lại có việc phải đi xa, tới tận huyện Đăc Glei, tuốt miền biên giới Việt Lào để viết về chuyên đề Nước sạch nông thôn cho Sở Lao động, Thương binh và Xã hội tỉnh Kon Tum, không biết bao giờ mới trở về để tới thăm A Còng? Trên đường đi Đăc Glei, trong những giấc ngủ chập chờn trên ô tô, tôi được thần linh báo mộng là A Còng sẽ chết vì nhiễm căn bệnh thế kỷ, không biết có đúng không? Khi kết thúc chuyến đi Đăc Glei, tôi có tìm đến nhà A Còng nhưng người vợ nói đã hỏa thiêu được ba ngày. Tôi hỏi lý do chết thì người vợ nói bác sĩ pháp y kết luận là đột tử do bệnh tim!


    3. Ai mới thực sự là “Nhà nghèo”?

    Người ta thường nói “Nhà văn, nhà báo, nhà giáo - nhà nghèo”. Câu nói ấy xem ra không còn mang tính phổ quát nữa mà chỉ đúng với những người ngây thơ, tức “không chịu xa rời tuổi ấu thơ”, tức lúc nào cũng là trẻ thơ! Và cái từ “Nhà nghèo” thực sự, từ ngàn xưa, là của Nhà nông, nhất là ở những nơi xa xôi, hẻo lánh mà người ta gọi là “Vùng xa, vùng sâu”. Tôi thường nghĩ, có hai nơi mà ai đã làm Nghề báo thì đều không thể không đến đó là những “Điểm Nóng” (xuất hiện theo “tính thời sự” của đời sống xã hội) và những “Vùng xa, vùng sâu”. Đến với những “điểm nóng” thì hầu như nhà báo nào cũng hăng hái, còn đến với những “vùng xa, vùng sâu” thì hầu như không mấy ai quan tâm và thường được cho là “chuyện của muôn năm cũ”, nếu có đi thì phải có một cái cớ cụ thể nào đó, chẳng hạn như đi cùng đoàn cứu trợ nhân đạo, đi thực hiện đề tài “xóa đói giảm nghèo” khi có lệnh, hoặc muốn đi tìm cái cảm giác ẩn dật nơi thâm sơn cùng cốc cùng vị “đạo sĩ” nào đó!

    Nếu muốn có danh sách Top 10 hoặc Top 100 những tỷ phú đại gia của Việt Nam và của cả thế giới thì sẽ nhanh chóng có ngay (tìm trong Google), nhưng muốn có danh sách Top 10 hoặc Top 100 những người (hoặc địa phương, ở Việt Nam thôi) nghèo nhất thì không thể có ngay! Tôi có người bạn vong niên còn hành nghề nhà báo và có quan tâm đến đề tài “Xóa đói giảm nghèo”, nhưng khi hỏi thì cũng chịu và ngậm ngùi nói: “Tôi đã tiến hành thống kê số hộ, số người thuộc diện đói nghèo cần Nhà nước cứu trợ, nhưng chỉ một tháng sau, đi kiểm tra lại để “khóa sổ” thì con số cũ đã thay đổi rất nhiều, không phải theo chiều hướng giàu có lên mà là ngược lại!”.

    Tuy nhiên, người bạn này cũng cho tôi DANH SÁCH 62 HUYỆN NGHÈO NHẤT TRÊN CẢ NƯỚC (Theo tài liệu công bố năm 2008):
    Hà Giang có 6 huyện: Đồng Văn, Mèo Vạc, Yên Minh, Quản Bạ, Hoàng Su Phì, Xín Mần.
    Cao Bằng có 5 huyện: Bảo Lâm, Bảo Lạc, Thông Nông, Hà Quảng, Hạ Lang.
    Lào Cai có 3 huyện: Si Ma Cai, Mường Khương, Bắc Hà.Yên Bái có 2 huyện: Mù Cang Chải, Trạm Tấu. Bắc Kạn có 2 huyện: Ba Bể, Pác Nặm. Bắc Giang có 1 huyện là Sơn Động.
    Phú Thọ có 1 huyện là Tân Sơn. Sơn La có 5 huyện: Sốp Cộp, Phù Yên, Bắc Yên, Mường La, Quỳnh Nhai. Lai Châu có 5 huyện: Mường Tè, Phong Thổ, Sìn Hồ, Tân Yên, Than Uyên.
    Điện Biên có 4 huyện: Điện Biên Đông, Mường Nhé, Tủa Chùa, Mường Ảng.
    Thanh Hóa có 7 huyện: Lang Chánh, Thường Xuân, Quan Hóa, Quan Sơn, Mường Lát, Như Xuân, Bá Thước. Nghệ An có 3 huyện: Kỳ Sơn, Tương Dương, Quế Phong.
    Quảng Bình có 1 huyện là Minh Hóa. Quảng Trị có l huyện là Đa Krông.
    Quảng Ngãi có 6 huyện: Sơn Hà, Trà Bồng, Sơn Tây, Minh Long, Tây Trà, Ba Tơ.
    Quảng Nam có 3 huyện: Nam Trà My, Tây Giang, Phước Sơn.
    Bình Định có 3 huyện: An Lão, Vĩnh Thạnh, Vân Canh. Ninh Thuận có 1 huyện là Bác Ái.
    Kon Tum có 2 huyện: Tu Mơ Rông, Kon Plông.Lâm Đồng có 1 huyện là Đam Rông.

    Thấy tôi có vẻ như còn băn khoăn điều gì, Người bạn này nói thêm: “Theo kết quả Tổng điều tra hộ nghèo, cận nghèo toàn quốc, tổng số hộ nghèo cả nước là 3.055.566 hộ, tổng số hộ cận nghèo của cả nước là 1.612.381hộTại cuộc họp diễn ra ở Hà Nội hôm 30 tháng 5 năm 2011, đại diện Bộ Lao Ðộng-Thương binh và Xã Hội công bố phúc trình nói rằng tỉ lệ các gia đình nghèo ở Việt Nam đã giảm từ 22% của năm 2005 xuống còn 9.45% vào cuối năm 2010 vừa qua. Cũng theo phúc trình này, số gia đình nghèo đến nay chỉ còn xấp xỉ khoảng 3 triệu, chiếm tỉ lệ 14.2%. Bộ này định nghĩa gia đình nghèo khi các thành viên trong gia đình không ai có lợi tức nhiều hơn 400,000 đồng/tháng. Phúc trình này cũng nói vùng Tây Bắc là nơi có số gia đình nghèo nhiều nhất Việt Nam: Ðiện Biên (50.01%), Lai Châu (trên 46%), Lào Cai (43%), Hà Giang (41.8%). Phúc trình của Bộ LĐ-TB & XH còn hứa hẹn rằng trong 9 năm tới, người nghèo sẽ được cải thiện điều kiện sinh sống về y tế, giáo dục, văn hóa, nhà ở… và được tiếp cận với các dịch vụ xã hội căn bản một cách thuận lợi. Trong khi đó, một số chuyên viên trong lĩnh vực này chỉ trích “chuẩn” nghèo của Bộ LĐ-TB & XH, cho rằng chuẩn này sai vì chưa được tính lại, chưa cộng thêm yếu tố trượt giá. Ông viện trưởng Viện “Những vấn đề phát triển VN” nói rằng số lượng gia đình nghèo và “cận” nghèo được nêu trên không chính xác mà chỉ mang tính ước lệ!? Thực tế thì dư luận Việt Nam không ngớt ồn ào chỉ trích những con số phúc trình sai thực tế của Bộ LĐ-TB & XH. Nhiều người cho rằng cơn bão giá dồn dập đến 3 đợt từ đầu năm đến nay đã nhấn chìm hàng triệu gia đình vào cơn khốn khó. Một chuyên viên xã hội xin được giấu tên cho biết: “Bộ LĐ-TB & XH nói chỉ có hơn 3 triệu gia đình ở Việt Nam thuộc thành phần nghèo là nói ‘phét’” !?”.

    *
    Khi còn làm cho báo Lao động & Xã hội, tôi (và một người nữa) có đến tỉnh Kon Tum để làm một số báo chuyên đề về vấn đề “Nước sạch nông thôn” do Sở Lao động - Thương binh và Xã hội của tỉnh đảm nhiệm. Đích thân ông Giám đốc Sở và người Chủ nhiệm chương trình Nước sạch đã dẫn chúng tôi đi tới tận những nơi mà chương trình nước sạch đã triển khai. Không chỉ đến mấy huyện quanh thị xã Kon Tum, ông Giám đốc Sở còn dẫn chúng tôi đến cả huyện Đăc Glei là huyện xa nhất, gần đất nước Triệu Voi, có thể nghe rõ tiếng voi gầm! Phải nói rằng những người làm dự án Chương trình nước sạch nông thôn của tỉnh Kon Tum đã rất nỗ lực, không khác gì đi đánh trận thời chiến tranh. Nhưng có đến gần nửa số giếng khoan được lắp đặt rất công phu, khó nhọc đã bị hỏng hóc hoặc mạch nước không còn nữa! Ở những nơi có nước thì không khí thật vui vẻ, người dân coi những người của chương trình nước sạch như là ân nhân, thậm chí như Giang Đăc (Thần nước) và tất nhiên có mời uống rượu cần, múa Soang thâu đêm. Nhưng ở những nơi giếng khoan không có nước, bể chứa nước đã thành thùng rác thì không khí thật ảm đạm, đau buồn đến không bút nào tả xiết. “Đón” đoàn công tác nước sạch chỉ có dăm ba đứa trẻ đen nhẻm, gày ốm tong teo, ruồi bu đầy mặt không thèm đuổi!...

    Đúng vào một buổi chúng tôi buồn chán nẫu ruột như thế thì thật bất ngờ, chúng tôi gặp bố con người Dũng sĩ diệt Mỹ Hoàng Dũng Cảm và Hoàng Thị Cam. Thì ra cô con gái “Dũng sĩ diệt giám đốc” đưa ông bố Sọ Dừa đi thăm lại chiến trường xưa. Công việc đi thực địa với đoàn Nước sạch cũng đã xong, tôi chia tay Nước sạch (và hẹn gặp lại ở thị xã Kon Tum để hoàn thành bản thảo cho số báo chuyên đề) và đi cùng “đoàn Dũng sĩ” trở lại chiến trường xưa, hy vọng có rất nhiều chuyện tha hồ mà viết. Những lúc phải luồn rừng, trèo đèo lội suối, cô gái Cam “Dũng sĩ diệt giám đốc” cho người bố Sọ Dừa vào cái ba lô cóc to đùng rồi đeo trên lưng, bước đi thoăn thoắt. Còn những lúc đi trên đường quang đãng, có hai “phu kiệu” lực lưỡng khiêng như kiểu hành quân của Quang Trung Nguyễn Huệ thời xưa!

    Suốt trên những chặng đường rừng dài dằng dặc, tôi cứ muốn hỏi cô gái tên Cam về “Bí quyết diệt giám đốc” nhưng chưa tìm được “cơ hội” thì một lần ngồi nghỉ uống nước, Cam nhìn tôi cười hóm hỉnh rồi nói: “Hình như anh muốn hỏi em về “Bí quyết diệt giám đốc” phải không?”. Tôi ngạc nhiên, nói: “Làm sao mà cô biết tôi muốn nói gì?”. Cam nói ngay: “Tự nhiên là em biết thôi. Cũng như câu trả lời của em về bí quyết là: Bí quyết là không có bí quyết gì cả!”. Nhìn cái dáng vẻ hồn nhiên thơ ngây nhưng ẩn chứa một sức mạnh khác thường của cô gái, tôi lại nghĩ: đó là cái khả năng thiên phú, hay còn gọi là “siêu năng lực”!./.

    Sài Gòn, 16-6-2011
    Đỗ Ngọc Thạch
    Ngày đăng: 24.06.2011
    [ Trở lại ] [ Tiếp ]
    In tác phẩmGóp ýGửi cho bạn

    nguồn: vanchuongviet.org

    Hoa Hồng Đỏ:

Hoa hồng đỏ không chỉ mang nhiều ý nghĩa hơn so với các loại hoa hồng màu khác, mà còn là đại diện đầy tự hào cho các biểu tượng của loài nói chung. Lịch sử lâu đời của bông hồng đỏ đã tích luỹ những ý nghĩa phong phú cho loài hoa này. Hoa hồng đỏ đã hiện diện trong các tác phẩm nghệ thuật, từ vô số các bức tranh cổ điển và thơ ca nhạc hiện đại và các phương tiện truyền thông. Chúng đã xuất hiện trong suốt chiều dài lịch sử và trên nhiều nền văn hóa như là biểu tượng chính trị và tôn giáo. Sự thần bí của hoa hồng đỏ là một nguồn cảm hứng vô biên đối với nhiều người qua các thời đại. Tuy nhiên, biểu tượng cho tình yêu của hoa hồng đỏ được công nhận phổ biến nhất.Hoa hồng đỏ, như cách ngày nay chúng ta vẫn biết về loài hoa này, là biểu tượng truyền thống cho tình yêu và sự lãng mạn. Màu đỏ hiện đại quen thuộc ngày nay vốn có xuất xứ từ Trung Quốc được giới thiệu đến châu Âu vào những năm 1800. Tuy nhiên, ý nghĩa liên kết với chúng có thể từ trước đó nhiều thế kỷ, thậm chí đã xuất hiện một số trong những xã hội sơ khai.
 Bản thân loài hoa màu đỏ này vốn nguyên thuỷ theo truyền thuyết là được ra đời từ cảm xúc sâu sắc. Trong thần thoại Hy Lạp và La Mã, hoa hồng đỏ được gắn chặt với nữ thần tình yêu. Nhiều nền văn hóa cổ đại sử dụng hoa hồng đỏ để trang trí lễ kết hôn và chúng thường là một phần của trang phục cưới truyền thống. Thông qua tập tục này, bông hồng đỏ dần trở nên được biết đến như một biểu tượng cho tình yêu và lòng trung thành. Khi truyền thống trao đổi hoa hồng và các loại hoa khác làm quà tặng tình cảm trở nên phổ biến, một bông hồng đỏ tự nhiên đã trở thành bông hoa được lựa chọn để gửi thông điệp mạnh mẽ nhất của tình yêu. Đây là một truyền thống đã được gìn giữ cho đến ngày nay.
 
Hoa hồng đỏ tiếp tục là cách phổ biến nhất để nói "Anh yêu em" với một ai đó đặc biệt. Các di sản phong phú của hoa hồng đỏ đã dẫn đường cho loài hoa này tiến đến khẳng định đỉnh cao trong hình ảnh hiện đại của nó là hoa hồng của những người yêu nhau. Hoa hồng đỏ là biểu tượng xác định cho tình cảm lãng mạn, thể hiện cho tình yêu chân thật, mạnh mẽ bất chấp mọi chông gai. Hoa hồng đỏ là một món quà có ý nghĩa, hoàn hảo để thể hiện tình cảm với một người thân yêu vào ngày Valentine, ngày kỷ niệm hoặc đơn giản chỉ vì muốn gửi hoa ". Đối với các mối quan hệ vừa chớm nở, một bó hoa hồng đỏ cũng có thể báo hiệu sự khởi đầu của ý định lãng mạn về một tình yêu. Chúng có thể gửi một thông điệp đầy hứa hẹn và một lời mời ngầm bày tỏ cho tình cảm phát triển hơn. Ngay cả sự đơn giản của một đoá hồng duy nhất có thể khơi gợi một hiệu ứng mạnh mẽ. Bởi nhân đó, hoa hồng đỏ có một sức hấp dẫn khó cưỡng lại!
    Tặng Hoa Các Nhà Báo nhân ngày 21-6

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét