Thứ Năm, 18 tháng 7, 2013

9 truyện ngắn trên phongdiep.net - trích: Anh hùng...; Trạng Me

9 truyện ngắn đỗ ngọc thạch trên phongdiep.net - trích: Anh hùng đoán giữa trần ai; Trạng Me...



9 truyện ngắn trên phongdiep.net - trích: Anh hùng đoán giữa trần ai; Trạng Me...




Thác Bản Giốc

9 truyện ngắn đỗ ngọc thạch trên phongdiep.net - trích: Anh hùng đoán giữa trần ai; Trạng Me đè Trạng Ngọt





 Đường Văn:: 
Tôi đang cặm cụi làm cái việc mà B.B đã giao cho thì bất ngờ nhận được tin bố tôi đột ngột qua đời. Tôi phải bay ra Hà Nội chịu tang bố. Trong dịp này, tôi gặp lại một người bạn học cũ hiện đang dạy ở một trường đại học. Tôi khoe chuyện làm báo với B.B thì người bạn nãy rũ ra cười, chảy cả nước mắt (Truyện ngắn của Đỗ Ngọc Thạch) Ngày đăng: 10/03/2009. Lần đọc: 1213 . Cập nhật bởi: DiepAnh
Đã quá canh ba, quang cảnh ngôi miếu cổ im ắng, tịnh không một tiếng động nhỏ, chắc là ông già đã ngủ say. Tuyết bèn bò như rắn vào phòng, giơ dao chém vào cổ ông già. Không biết ngủ hay thức, nhưng ông già vẫn nằm yên không nhúc nhích - Ngày đăng: 07/03/2009. Lần đọc: 1183 . Cập nhật bởi: DiepAnh
H’Thi như sực tỉnh, cô không nói gì, lao vút đi, thoắt cái đã biến vào màu xanh ngút mắt ! Tôi lao theo H’Thi, nhưng chạy được vài bước thì vướng phải sợi dây rừng ngã bật trở lại, khắp người đau ê ẩm. Tôi gượng đau, đứng dậy tính đuổi theo H’Thi nhưng cô đã mất hút sau màu xanh của rừng - Ngày đăng: 07/03/2009. Lần đọc: 1450 . Cập nhật bởi: DiepAnh
Nó có tên tuổi, có bố mẹ như bất kỳ đứa trẻ nào, nhưng bây giờ người ta chẳng cần biết gốc gác, lai lịch của nó như thế nào mà chỉ cần biết nó là thằng Khoèo, bởi nó khoèo rõ ràng: cái đầu to với khuôn mặt méo mó dị dạng lúc thì như văng lên trời, lúc lại như muốn rơi bịch xuống đất (Đỗ Ngọc Thạch) - Ngày đăng: 05/03/2009. Lần đọc: 1361 . Cập nhật bởi: DiepAnh
Ba ngày liền, anh Thanh nhận được hơn chục lá thư, chắc của bạn bè trong lớp học cũ. Từ ngày thứ 5 trở đi, thư ít dần và cuối cùng thì chỉ còn lại một lá thư của cô gái có tên là Ánh Nguyệt (Đỗ Ngọc Thạch) - Ngày đăng: 04/03/2009. Lần đọc: 987 . Cập nhật bởi: DiepAnh
Thị xã này cũng như bao thị xã tỉnh lẻ khác, có một quán nước trà nhỏ nép mình dưới một bóng cây đa cổ thụ bên con đường ra bến xe liên tỉnh. Chủ quán nước trà là một người đàn bà có khuôn mặt phúc hậu, ngoài sáu mươi tuổi. (ĐỖ NGỌC THẠCH ) - Ngày đăng: 01/03/2009. Lần đọc: 1198 . Cập nhật bởi: DiepAnh

Không biết vụ kiện cáo này sẽ đi tới đâu nhưng đêm nào tôi cũng bị câu nói của Miền trở đi trở lại bên tai: “Anh và tất cả mọi người sẽ không ai hiểu nổi tôi và Diễm Lan đâu. Nếu chúng tôi thua kiện nhà tỷ phú đó, tôi sẽ cho ông ta một băng AK vào đầu ! Anh biết vì sao không?(Đỗ Ngọc Thạch) - Ngày đăng: 28/02/2009. Lần đọc: 1289 . Cập nhật bởi: DiepAnh

Hứa Tam Giang cùng tiểu đội trắc thủ ra đa với tôi gần một năm .Sau khi Trung đoàn gọi đi học về kỹ thuật rađa nhưng lại hoãn, bèn giữ tôi ở lại Trung đoàn bộ làm giáo viên văn hóa, thế là tôi xa anh bạn Hứa Tam Giang từ đó. Cuối năm l970 tôi trở về trường tiếp tục đời sinh viên…(Đỗ Ngọc Thạch) - Ngày đăng: 25/02/2009. Lần đọc: 1685 . Cập nhật bởi: DiepAnh
Nhung nằm đó, bất động…Tay Nhung đang cầm miếng ngọc bội mà tôi đã tặng Nhung ở Hồ Tây năm xưa… - Ngày đăng: 21/02/2009. Lần đọc: 1418 . Cập nhật bởi: DiepAnh



ANH HÙNG ĐOÁN GIỮA TRẦN AI - Đỗ Ngọc Thạch


Truyện ngắn của Đỗ Ngọc Thạch 

ANH   HÙNG   ĐOÁN  GIỮA  TRẦN  AI   


Tuyết  là kẻ không nhà không cửa lang thang  ở chợ huyện Tuy Viễn . Nói đến “Tuyết Tuy Viễn” thì ở cả phủ Quy Nhơn đều biết.

     Số là thế này : Trong một lần đi tuần về phương Nam của chúa Nguyễn Phúc Khoát, một người vệ sĩ của chúa bỗng phải lòng mê đắm một tỳ thiếp  của quan tuần phủ Quy Nhơn Nguyễn Khắc Tuyên. Người vệ sĩ kia  rủ người  tình đi  trốn, chạy về Tuy Viễn rồi sống với nhau ở đấy. Khi chúa Nguyễn Phúc Khoát đi rồi, tuần phủ  Khắc Tuyên thấy mất người thiếp thì cho bộ hạ truy lùng . Cuối cùng, quan quân cũng tìm thấy đôi tình nhân kia . Nhưng viên tướng cầm đầu toán quân truy lùng thấy người thiếp đã có thai, nghĩ thương tình bèn tha cho và bảo trốn vào rừng lánh nạn, còn bắt người vệ sĩ giải về phủ Quy Nhơn trị tội. Sau người vệ sĩ bị xử chém đầu, còn người thiếp thì được một gia đình người thợ săn ở Tuy Viễn chăm sóc rồi sinh ra Tuyết. Người  thợ săn thấy Tuyết càng lớn càng  thông minh, nhanh nhẹn, khỏe mạnh  khác thường thì lấy làm mừng lắm, nhận Tuyết làm con và truyền dạy nghề săn bắn cho . Trong những cuộc đi săn, Tuyết  thường chạy bộ đuổi kịp hươu nai, đánh được cả gấu, cọp. Khi ấy Tuyết mới mười sáu tuổi.   

     Một lần, người cha nuôi nói với Tuyết :
  -  Cha thấy con có tướng lạ, sau này ắt làm nên nghiệp lớn !  Nay cha  chỉ là một người thợ săn tầm thường, không giúp gì được cho con. Vậy con hãy đi tìm thầy học đạo, đem tài trí ra giúp đời, không  thể cứ chui lủi mãi trong rừng thế này được !

     Tuyết nói :
- Đi đâu bây giờ, thưa cha ?
  Người thợ săn nhìn lên trời hồi lâu rồi nói :
- Hôm qua, cha nằm mơ thấy có một chùm sao lạ xuất hiện trên dãy núi phía An Khê. Chắc là minh chủ đã ra đời ở đấy. Con hãy nghe lời cha, thế nào cũng tìm đến vùng núi An Khê…

      Hai cha con trò chuyện hồi lâu, Tuyết quyến luyến không muốn  chia tay. Thấy vậy, người thợ săn tự đập đầu mình vào gốc cây, phọt óc ra mà chết. Tuyết thất kinh, kêu khóc thảm thiết một hồi rồi mai táng cha nuôi dưới gốc cây, đoạn khăn gói băng rừng ra đi. Đến Tuy Viễn, gặp ngày phiên chợ đông vui tấp nập. Tuyết liền lách đám đông vào thì thấy giữa một bãi đất rộng có hai con ngựa cực đẹp và khỏe đang cắn đá nhau dữ dội, không ai dám vào ngăn cản. Tuyết nhanh nhẹn nhảy vào, hai tay ghìm chặt hàm hai con ngựa trước sự kinh ngạc tột cùng của đám đông. Từ đó, Tuyết nghiễm nhiên trở thành thủ lãnh của giới giang hồ Tuy Viễn.

      Sở trường của Tuyết chỉ là sức khỏe hơn người và nhanh nhẹn không ai bằng. Về võ nghệ, người cha nuôi thợ săn mới luyện cho Tuyết một vài bài roi, quyền, cốt  để chống chọi lại thú dữ. Còn việc sử dụng các loại binh khí nơi chiến trận và binh pháp thì Tuyết chưa biết gì, vả lại, trong giới quần cư tứ chiếng  ở Tuy Viễn này, chẳng mấy người  dùng đến binh khí, mà quan tuần phủ Quy Nhơn cũng ra lệnh rất ngặt cấm dùng binh khí. Mải vui thú với đám bạn bè Tuy Viễn, Tuyết quên cả lời dặn dò của cha nuôi là phải đi tìm thầy học đạo, đến An Khê tìm minh chủ…

       Một hôm, có ông già dẫn theo hai cô gái đến một góc ở chợ Tuy Viễn bày biện đồ nghề múa võ bán thuốc. Đúng là dân mãi võ và chắc là từ xa đến. Ông già tuổi đã ngoài  70, râu rồng , tóc trắng như lông hạc, mắt sáng như sao, phong thái bình thản ung dung, nhẹ nhàng. Hai cô gái tuổi khoảng mười bốn, mười lăm, mười phần xinh đẹp, cầm kiếm đối nhau mà múa, khí lạnh rợn người. Người xem trầm trồ thán phục, chốc chốc lại hò reo hoan hô như sấm…

       Thấy chuyện lạ, Tuyết cầm cây roi lớn, dẫn theo tay chân hơn chục đứa, rẽ đám đông nhảy vào thét lớn :
    - Mấy người quê mùa ở đâu dám tới đây làm rộn thế a ?

      Ông già ngồi yên, hai cô gái vẫn múa gươm như rồng bay phượng múa. Tuyết tức giận cầm roi sấn tới hai cô gái, sử dụng bài roi “Ngũ môn phá trận” tính đánh què chân hai cô gái. Hai cô gái thấy Tuyết múa roi nhảy vào thì cùng cười và nói nhỏ cho Tuyết nghe :  “Đường roi mạnh nhưng còn non lắm !”. Tuyết chưa kịp phản ứng  gì thì đã thấy cây roi của mình bị chặt gãy thành bốn đoạn tung lên không và hai cô gái thu gươm cùng chạy lại đứng yên phía ông già. Tuyết lặng  người đi chốc lát rồi bất thình lình nhảy tới ông già bằng bài thảo bộ “Ngọc trản”,  vung tay đánh thẳng vào mặt ông già. Ông già vẫn ngồi yên, không cử động, mặt vẫn như không . Tuyết  thấy vậy thì hoảng sợ, uất ức tháo lui, tính kế giết chết ông già và bắt sống hai cô gái. Dò la biết được ông già ngụ trong ngôi miếu cổ, đêm xuống, Tuyết giấu con dao lớn trong người nhảy tường vào. Đã quá canh ba, quang cảnh ngôi miếu cổ im ắng, tịnh  không một tiếng động nhỏ, chắc là ông già đã ngủ say. Tuyết bèn bò như rắn vào phòng, giơ dao chém vào  cổ ông già. Không biết ngủ hay thức, nhưng ông già vẫn nằm yên không nhúc  nhích . Tuyết chém liên tiếp mấy nhát nữa thì dao gãy. Sợ hãi tột độ, Tuyết định bỏ chạy thì nghe tiếng ông già chậm rãi nói :

      - Quấy nhiễu giấc ngủ yên tĩnh của ta, sao nhà ngươi lại tàn ác như vậy ? – Rồi cười và phẩy tay đuổi đi .
      Tuyết  liền quỳ xuống đất không nhỏm dậy, xin quay mặt về hướng bắc giữ lễ đệ tử. Nhưng ông già không chịu. Tuyết cầu xin mãi, ông già bèn nói :

      - Ta   không có thuật gì, chỉ hai chữ “lui và nhường”. Tài của người có thể thành đạt, có thể thành  anh hùng ngoài thiên hạ, nhưng phải thay đổi khí chất con người . Tiếc thay !

      Tuyết hết sức nói đã biết hối cải, ông già bấy giờ mới đổi ý thu  nhận làm đệ tử. Tuyết liền bỏ đám đàn em Tuy Viễn mà theo ông già ra đi. Năm năm sau trở về, Tuyết đã có vợ, đó là một trong hai cô gái múa kiếm năm xưa. Cô gái là cháu nội của ông, họ Trần, Trần lão dẫn hai cháu gái lãng du bốn phương tìm người tài để truyền thụ võ nghệ. Được Tuyết, bèn đem cả bí quyết nghề võ dạy cho. Tuyết rất thông minh, thầy chỉ cần dạy một lần là hiểu liền, nhanh chóng nắm được những điều thần diệu của võ thuật. Trần lão còn dạy Tuyết cả binh pháp. Tuyết cũng lĩnh hội nhanh chóng. Trần lão cả mừng, cho gửi rể trong nhà . Ở được một thời gian, Trần lão gọi Tuyết đến nói :

     - Vợ chồng con có thể về được rồi. Những lời ta dạy bảo cẩn thận chớ quên. Nếu gặp được minh chủ, con ắt lập được công trạng .
       Tuyết vâng dạ, đưa vợ về Tuy Viễn, tính ngày tìm đến An Khê. Bọn đàn em cũ ở Tuy Viễn thấy Tuyết về thì mừng lắm, kéo đến  thăm hỏi. Tuyết bảo chúng :
      - Việc làm của bọn ta năm xưa đủ để cho bậc hào kiệt xấu hổ. Nay nên hối cải.
      Bọn đồ đảng hỏi cách hối cải như thế nào ? Tuyết đáp :

      - Ra sức trừ nỗi khổ của dân gian, vì cõi đời mà tiêu diệt nỗi bất bình, nhưng chí nguyện và công  việc đó không phải dễ nói cùng mọi người. Nhưng dẫu sao các ngươi cũng nên đi tìm thầy giỏi mà học, đi tìm việc lương thiện mà làm, ta  cũng vậy, đó là việc hối cải.

      Sau đó, Tuyết dò tìm đường đến An Khê. Tuyết được nghe nói ba anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ đã ngầm xây dựng căn cứ và đội ngũ, còn gọi là Tây Sơn thượng đạo, anh hùng hào kiệt  khắp nơi tìm  về đông như hội. Tuyết nóng lòng muốn đi ngay nhưng ngặt nỗi đường  xa núi rừng  cách trở. Đúng lúc đó, Tuyết nghe tin chúa Nguyễn Phúc Khoát lại đi tuần về phương Nam, đang đóng hành dinh ở phủ Quy Nhơn. Tuyết nghĩ : “Đến ra mắt minh chủ cùng các anh hùng hào kiệt, chẳng lẽ lại tay không ? Nay cái thủ cấp của bạo chúa đang gửi tại phủ Quy Nhơn,  đem dâng trong lễ ra mắt là hợp lẽ lắm”. Rồi Tuyết nai nịt gọn gàng, giắt dao bén trong người, nửa đêm đột nhập vào phủ Quy Nhơn. Lọt  vào hành cung của chúa Nguyễn, Tuyết thấy lính canh dày đặc, bèn lẻn ra sau vườn nằm phục. Nơi ấy cạnh chuồng ngựa, nghe tiếng ngựa hí rất hùng tráng khác ngựa thường , biết đấy là giống ngựa hãn huyết, tên là Xích Kỳ, là cống vật của đất Phiên, chúa rất thích nên đi đâu cũng đem theo.Tuyết bèn lẻn vào chuồng ngựa, cầm cương  dắt đi. Lúc đầu, ngựa vùng vằng định chống cự, nhưng dường như nhanh chóng cảm nhận được sức mạnh của người chủ mới, con Xích Kỳ ngoan ngoãn theo. Ra khỏi hành cung, Tuyết nhảy lên phóng một mạch gần sáu trăm dặm đến  địa phận An Khê, trời vẫn chưa sáng rõ !

      Lúc này, để đề phòng sự do thám của quan quân chúa Nguyễn, nghĩa quân Tây Sơn bố trí lực lượng bảo vệ bên ngoài rất ngặt. Tuyết không biết điều đó nên cả người lẫn  ngựa đều bị sa xuống một cái hố bẫy lớn . Thấy vậy, Tuyết hét lớn, thúc mạnh sườn con Xích  Kỳ, vọt lên khỏi miệng hố. Quân mai phục thấy vậy bắn tên nỏ theo rào rào. Tuyết rút  gươm ra múa như chong chóng, tên rơi lả tả.

      Bỗng có tiếng quát lớn, các tay cung nỏ đều lui cả. Rồi một người cao lớn, oai phong lẫm liệt bước ra nói  :
   - Tráng sĩ hãy dừng tay ! Tráng sĩ tên họ chi mà múa bài kiếm  “Long môn” tài tình như vậy ?
     Tuyết vẫn trên ngựa, nói lớn :
  - Ta là Nguyễn Văn Tuyết ở Tuy Viễn đây ! Tại sao các ngươi dám cản đường ta ? Tránh ra để ta đi, không nhiều lời ! 
     Nói rồi Tuyết thúc ngựa lướt  tới, vung gươm nhằm đầu người kia mà chém mạnh . Người kia vẫn đứng nguyên, chỉ giơ đao đỡ nhát chém của Tuyết. Nghe tiếng kim khí chạm nhau rợn người rồi Tuyết thấy chới với, mất đà, té nhào xuống đất, còn thanh gươm thì bay đâu mất ! Người kia thấy vậy  chạy lại đỡ Tuyết dậy mà nói :
    - Tráng sĩ không phải người thường, nếu như kẻ khác thì bị lưỡi đao chém thẳng đứt đôi mặt ra rồi.
    Tuyết quỳ sụp xuống :

    - Tôi có mắt mà không nhìn thấy núi Thái Sơn, tội thật đáng chết. Có phải đại nhân là Hồ Thơm đó không ? Cho Tuyết này được bái kiến !
     Người đó chính là Nguyễn Huệ, đang trên đường đi tuyển mộ quân. Nguyễn Huệ đỡ Tuyết dậy, dắt vào một lều cỏ, tiếp đãi như tình bạn hữu. Tuyết cứ băn khoăn mãi chuyện ngôi thứ, đòi gọi Huệ là Đại vương thì Huệ nói :

    - Anh em ta là người áo vải dựng cờ nghĩa xóa bỏ nỗi bất bình, khổ sở của dân chúng . Đó là cái chí của người anh hùng . Ngươi hẳn là anh hùng, cớ sao lại coi ta như lục  lâm thảo khấu ?
      Tuyết thấy Huệ nói trúng ý nguyện của mình thì chích máu uống  rượu thề, nguyện cùng sống chết. Tuyết muốn dâng con Xích Kỳ cho Nguyễn Huệ, nhưng Huệ nói : 

  • Xích Kỳ là ngựa chiến, ngày đi ngàn dặm. Ngươi thành tâm dâng ta thì ta ban lại cho ngươi cùng đội quân kỵ. Ta muốn có một đội quân tinh nhuệ, thiện chiến. Mới thoạt nhìn thấy nhà ngươi trên lưng con Xích kỳ, ta đã biết là Trời ban cho ta một đại tướng ! Nhà ngươi sẽ là Đô đốc Tuyết !...
Tuyết bái tạ và từ đó ngày đêm chăm lo luyện quân…Dự tính của  Nguyễn Huệ đã thành sự thật : Khi  lên ngôi hoàng đế, Huệ đã phong cho Tuyết chức Đại đô đốc, thống lĩnh đội quân binh mã. Trong những  đợt hành binh thần tốc, đô đốc Tuyết cùng con Xích Kỳ luôn dẫn đầu đoàn quân bách chiến bách  thắng … 
* * *
    Vào một buổi sáng mùa thu năm 1792, đô đốc Tuyết cùng ngựa  Xích Kỳ đi qua vùng An Khê thì bất ngờ cả người lẫn ngựa bị sa hố. Nhìn kỹ, Tuyết nhận ra đây chính là chỗ cái hố bẫy năm xưa khi mới đến An Khê tụ nghĩa. Tuyết thúc ngựa muốn vọt lên khỏi miệng hố nhưng Xích Kỳ chỉ hý vang .Tuyết ôm cổ con ngựa, vừa vuốt ve nó vừa nói :

- Xích Kỳ ! Xích Kỳ ! Ta phải về gặp Chúa công gấp…
     Xích Kỳ hý vang một hồi nữa rồi lấy đà vọt lên, nhưng vừa lên khỏi miệng hố thì nó đổ sụp xuống . Con ngựa đã chết ! Tuyết cả sợ, lấy ngựa của tên lính hầu phóng như bay  !
     Đô đốc Tuyết về đến kinh đô Phú Xuân  đã quá muộn, hoàng đế Quang Trung Nguyễn Huệ đã qua đời ! Không thấy Đô đốc Tuyết trong đám tang . Có người nói Tuyết đã cùng hai lính hầu phóng ngựa về An Khê. Lại có người nói rằng một trong hai người lính hầu ấy đã trở về Tuy Viễn kể rằng : Tuyết  phi ngựa đến An Khê, đến cái hố đã chôn con Xích Kỳ, mổ bụng  ngựa rồi chui vào trong, bắt hai tên lính hầu chôn cả người và ngựa xuống cái hố ấy. Sau này, người ta thấy trên nấm mộ Tuyết và con Xích Kỳ mọc lên một thứ cây nom rất lạ : thân cây thẳng tắp, lá đỏ như huyết, có hình lá cờ,  không có gió cũng bay phần  phật … 

An Khê,l986 – TP.HCM,1993-2009
Đỗ Ngọc Thạch

Phongdiep.net



Gửi email trang này cho bạn bè Mở cửa sổ in bài viết này

Đường Văn :: nguồn: phongdiep.net



TRẠNG ME ĐÈ TRẠNG NGỌT- Đỗ Ngọc Thạch

Truyện ngắn của  ĐỖ NGỌC THẠCH 

TRẠNG ME  ĐÈ  TRẠNG NGỌT  
 

 
     Hứa Tam Giang là dòng dõi Trạng Ngọt Hứa Tam Tỉnh ở làng Vọng Nguyệt (làng Ngọt) xã Tam Giang, huyện Yên Phong tỉnh Bắc Ninh.

     Hứa Tam Tỉnh thuở nhỏ học rất giỏi nhưng gia cảnh nghèo túng, dung mạo thì xấu xí, thấp lùn lại đen đủi. Tài học của Tam Tỉnh nổi tiếng cả trấn Kinh Bắc thời ấy. Cùng thời với Tam Tỉnh,    có Nguyễn Giản Thanh là người ở làng Me (tên chữ là Hương Mặc), xã Minh Đức , huyện Tiên Sơn cũng tỉnh Bắc Ninh. Tài học của Giản Thanh cũng nổi tiếng trong trấn nhưng trong bụng Giản Thanh rất kiêng nể Tam Tỉnh. Kỳ thi Hội khoa Mậu Thìn đời vua Lê Uy Mục(1508), hai người cùng đi thi. Qua các kỳ thi Hội rồi thi Đình, bài của họ Hứa đều xuất sắc hơn bài của họ Nguyễn.Các  quan chấm thi đều nhất trí là lấy Hứa Tam Tỉnh đỗ đầu, tức Trạng Nguyên, còn Nguyễn Giản Thanh đỗ thứ hai tức Bảng nhãn, và người đỗ thứ ba tức thám hoa là Nguyễn Hữu Nghiêm.
    
Ba vị đỗ cao được  tiếp kiến Long nhan. Lúc đó, bà Kinh Phi ( mẹ vua) cũng có mặt, nhìn thấy Giản Thanh mặt mũi sáng sủa đẹp trai hơn cả thì liền chỉ Giản Thanh mà hỏi quan chủ khảo:”Người này chắc là Trạng nguyên?”. Quan chủ khảo không muốn phật ý mẹ vua nên lúng túng, đoạn chỉ cả vào Giản Thanh và Tam Tỉnh mà tâu rằng:”Hai người này tài học ngang  nhau  nên chúng tôi chưa biết lấy ai đỗ Trạng. Xin mẫu hậu và Hoàng thượng phán xét”.Vua cũng biết là văn tài của Tam Tỉnh hơn Giản Thanh nhưng ngó thấy bà kinh phi đang nhìn Giản Thanh với ánh mắt long lanh đắm đuối thì vì muốn chiều lòng mẹ nên mới ra thêm bài phú Phường thành xuân sắc (cảnh mùa xuân ở kinh đô) để xét tài cao thấp.
   
  Giản Thanh nghĩ, nếu làm bằng chữ Hán thì sẽ không thể cao xa thâm thúy bằng Tam Tỉnh, chi bằng làm bằng chữ Nôm, hình ảnh bóng bẩy, câu văn yểu điệu tất mẫu hậu sẽ hiểu được và thích thú. Tức thì Giản Thanh ứng khẩu đọc liền một mạch:
    …Chợ hòe đầm ấm, phố ngọc tần vần
         Trai bảnh bao đá cầu vén áo
          Gái éo le rủ yếm khỏi quần
         Khách Tràng An cưỡi ngựa xem hoa rợp đường tử mạch
         Chàng công tử ngựa xe giương tánsáng dặm thanh vân
    
Bà Kinh phi nghe đọc mà miệng cười phấn chấn, má ửng đỏ như gái dậy thì, mắt lấp lánh như ánh thu ba…Đàm đạo một hồi, vua lại thấy Giản Thanh là người phủ Từ Sơn – quê ngoại của mình nên đẹp lòng lắm, truyền lấy Giản Thanh đỗ Trạng nguyên, còn Tam Tỉnh lùi xuống hàng bảng nhãn. Biết chuyện này, nho sĩ kinh Bắc phẫn nộ lắm, làm vè chê Giản Thanh là “mạo Trạng Nguyên”, nghĩa là “Trạng nguyên mặt”, vì đẹp trai mà được đỗ trạng, đồng thời cũng có nghĩa là “Trạng giả mạo”, thực không xứng đáng. Còn Hứa Tam Tỉnh, tuy không được đỗ Trạng nguyên nhưng người đời vẫn thường gọi ông là Trạng Ngọt (tức ông Trạng làng Ngọt – tên chữ là Vọng Nguyệt – bên bờ sông Như Nguyệt).
    
       * * *
Hứa Tam Giang  cùng tiểu đội trắc thủ ra đa với tôi gần một    năm .Sau khi Trung đoàn gọi    đi học về kỹ thuật rađa nhưng lại hoãn, bèn giữ tôi ở lại Trung đoàn bộ làm giáo viên văn hóa, thế là tôi xa anh bạn Hứa Tam Giang từ đó. Cuối năm l970 tôi trở về trường tiếp tục đời sinh viên…Sau này, khi là sinh viên văn khoa, tôi được cử về làng Ngọt để  sưu tầm văn học dân gian, có dò hỏi  tung tích anh bạn Hứa tam Giang nhưng bặt vô âm tín. Bù vào đó, tôi được nghe kể về ông cố nội của  Hứa Tam Giang mà rất ít người biết.     Sau cái buổi chấm trạng nguyên bằng mặt  vừa nói trên, có một chuyện kín nơi hậu cung mà rất hiếm người biết, bởi nó thuộc loại “Thâm cung bí sử”. Chuyện như sau:
     
 Trước khi vinh qui bái tổ, ông trạng Giản Thanh tổ chức một đại tiệc khao các quan trường, bạn hữu ở kinh đô.Tiệc tàn thì bà Kinh Phi cùng hai con thị nữ tới. Thấy quan Trạng đã ngà ngà men say, bà Kinh Phi nói : “Khỏi bày tiệc làm gì . Ta đến đây vì bài phú Phường thành xuân sắc của quan Trạng đó. Tả cảnh xuân mà khơi dậy tình xuân tưởng đã tắt trong lòng ta. Thật là thần thi !” . Giản Thanh nói : “Mẫu hậu quá khen ! Văn của hạ thần lọt vào được tai của mẫu hậu thật là may lắm thay !”. Mẫu hậu cười, nói : “Ta thích nhất câu Trai bảnh bao đá cầu vén áo. Gái éo le rủ yếm, rớt quần !  Văn chương chớ bóng bẩy hào hoa mà phải tự nhiên như nhiên mới thiêu đốt được lòng người tình xuân lai láng !”. Giản Thanh nói : “Kẻ hạ thần xin lĩnh ý !...” Mẫu hậu vừa cười vừa nhìn quan trạng  đắm đuối, nói : “Quan trạng làm thơ đá cầu, tất biết đá cầu chớ ? Ta muốn xem quan trạng đá cầu !”. Giản Thanh hứng chí, đá cầu như rồng bay phượng múa ! Mẫu hậu mười phần thích thú, nói : “Trai bảnh bao đá cầu vén áo, quan trạng phải cởi bỏ áo quần lụng thụng đi đá cầu mới ngoạn mục !”. Giản Thanh vừa cởi bỏ áo quần, tức thì mẫu hậu nhào tới ôm chầm lấy, miệng nói : “Ôi ! người đẹp của ta ! Tình xuân của ta !”. Hai đứa thị nữ thấy vậy hốt hoảng kêu lên : “ Trạng Me đè mẫu hậu” rồi ù té chạy ra ngoài .
     
Sau này, cái câu  “Trạng Me đè mẫu hậu” lọt ra ngoài, mẫu hậu nổi giận sai cắt lưỡi hai con thị nữ và truyền cho quan trạng Giản Thanh phải sửa lại câu nói đó. Không hiểu quan trạng Giản Thanh bày mưu tính kế ra sao, nhưng sau đó thấy lưu truyền câu chuyện như sau : Trước kia, có thầy địa lý nổi tiếng tên gọi Tả Ao đã từng xem đất nhà Hứa Tam Tỉnh ở làng Ngọt và nói đây là đất phát Trạng nguyên. Đến khi qua làng Me của Nguyễn  Giản Thanh thấy ngôi mộ tổ nhà Giản Thanh  thì lại nói : “Đất ngôi này cũng phát trạng”. Mọi người lấy làm lạ, hỏi : “Lẽ nào một khoa lại có hai trạng ?”. Tả Ao tiên sinh nói : “Trạng Me đè trạng Ngọt”, rồi rũ áo bỏ đi. Không ai tin, nhưng đến khi Giản Thanh vinh qui bái tổ, người ta mới chịu tài Tả Ao và mặc dù Hứa Tam Tỉnh không được đỗ Trạng dân làng vẫn gọi ông là Trạng Ngọt .
      
Câu chuyện sự tích câu nói Trạng Me đè trạng Ngọt được lưu truyền rộng rãi cho đến tận bây giờ. Còn câu nói Trạng Me đè mẫu hậu thì hầu như không ai biết !
     
  Xin được miễn bình luận về câu chuyện trên, tôi xin kể tiếp về ông cụ thân sinh ra Hứa Tam Giang kẻo cái truyện ngắn này sẽ vượt quá khuôn khổ quy định, vì còn phải dành  phần kể về cuộc đời đầy phong ba, đầy éo le, nghiệt ngã của Hứa Tam Giang nữa.
       Đến đời ông Hứa Tam Phong thì những đặc điểm của ông Trạng Ngọt đã phát triển đến tột đỉnh : gia cảnh cực kỳ bần hàn, diện mạo, hình dung cực kỳ quái dị (nếu theo như sách tướng thì đó là một trong bốn quí tướng : Thanh – Kỳ - Cổ - Quái) và thiên tư thì cực kỳ thông minh, mẫn tiệp.
      
Diện mạo ông Hứa Tam Phong xấu xí đến mức mỗi khi đi ra đường ông phải đội khăn che mặt, chỉ để hở hai con mắt sáng như sao, cuối vầng mắt thật sắc như dao cắt (sách tướng nói người có mắt như thế dễ nổi  tiếng về đường văn chương !). Năm 12 tuổi, Hứa Tam Phong đã theo học hết các ông thầy danh tiếng của nho sĩ Bắc Hà thời đó. Các ông thầy dạy Hứa Tam Phong đều bái phục cậu bé sát đất và đều thú nhận không còn chữ để dạy cậu bé có thiên tư tuyệt vời này nữa. Khoa thi năm đó, nghe nói nhà vua treo bảng cầu hiền, việc chấm thi sẽ rất gắt gao, cậu bé Hứa Tam Phong đội khăn che mặt lều chõng đi thi, quyết đem lại tiếng thơm cho dòng họ. Nhưng, đêm hôm trước ngày thi, Hứa Tam Phong đang ngủ trong nhà trọ thì có một vị công tử lẻn vào, dựng Tam Phong dậy và nói : “Ta chính là con, của quan Trạng Giản Thanh, mẫu thân ta chính là bà Kinh Phi ! Ta thi đã nhiều khoa mà chưa đậu, nhưng cái số của ta sẽ đỗ đầu khoa thi này. Trời đã xui ta gặp nhà ngươi. Ngươi không thể tránh được mệnh trời. Vậy ngày mai, ngươi cứ viết bài nhưng phải ghi tên ta . Còn nhà ngươi, cầm lấy túi tiền này và phải đi thật xa, nếu không ta sẽ cho đi chầu ông bà ông vải!”. Nói xong, vị công tử nọ ấn túi tiền vào tay Hứa Tam Phong, tay kia rút ra thanh kiếm sáng loáng kề vào cổ cậu bé !...Sáng hôm sau, người ta thấy cậu bé đội  khăn vào dự thi nhưng khi nộp quyển xong thì không ai biết cậu bé ấy đi đâu. Dân làng Vọng Nguyệt phái người đi bốn phương tìm kiếm nhưng vô hiệu. Thời gian trôi đi, hình ảnh cậu bé Hứa Tam Phong chỉ còn là ký ức của mọi người. Có một người biết Hứa Tam Phong đi đâu, chính là vị công tử nọ, sau đó là quan trạng . Quan trạng cử hai vệ sĩ thân tín bám gót Hứa Tam Phong, dặn là đến nơi hoang vắng thì sẽ hạ thủ cậu bé, lột lấy da mặt đem về làm bằng.

Nhưng sau ba ngày đóng giả làm khách lữ hành bám theo Hứa Tam Phong, hai vệ sĩ này động lòng trắc ẩn, không những không nỡ giết cậu bé mà còn hộ tống cậu vào tận vùng đất mới Đồng Tháp Mười sinh sống . Hai người vệ sĩ ấy tên họ là gì, họ đã sống với nhau ở miền Nam xa xôi ra sao, họ có lập được những kỳ tích nào không, đó còn là cả một bí ẩn ! Chỉ biết là năm mươi năm sau, trên sông Như Nguyệt đoạn làng Vọng Nguyệt, người ta thấy một ông lão đánh cá sống  đơn độc trên một chiếc thuyền nhỏ, thân mình đầy những vết thương chằng chịt, mặt được che bằng chiếc khăn Hồng Lĩnh. Từ khi có ông lão, khúc sông Như Nguyệt này tiệt hẳn nạn trộm cướp, nạn chết đuối vì sông nước cũng không còn, Hà Bá cũng phải kiêng nể ông lão đánh cá cô độc này .Một vài ông già trong làng Vọng Nguyệt chợt nhớ lại hình ảnh cậu bé Hứa Tam Phong năm mươi năm về trước , cố tìm cách để hỏi chuyện ông lão, nhưng ông lão nói là không hề biết Hứa Tam Phong là ai, ông lật khăn cho các cụ già làng xem khuôn mặt đầy những vết chém của gươm đao, không ai đã có thể khẳng định đó là khuôn mặt của cậu bé Hứa Tam Phong ngày trước. Nhưng đêm đêm, vào những lúc trăng thanh gió mát , người nào thính tai đều nghe thấy từ khúc sông vẳng lên tiếng đọc thơ trầm hùng . Vì đã có truyền thuyết võ tướng Trương Hống đọc thơ Lý Thường Kiệt ở khúc sông Như Nguyệt này mà đánh tan quân Tống cho nên người ta nghĩ là hồn ông Trương Hống còn linh thiêng , vẫn còn đọc thơ để kêu gọi nhân chúng đứng dậy đánh giặc cứu nước. Nhưng , có một người biết đích xác không phải Trương Hống đọc thơ mà chính là ông lão đánh cá đọc thơ. Người đó là Cô Hạnh, con một ông đồ nghèo ở trong làng, là người đẹp không chỉ nhất làng mà cả trấn Kinh Bắc không ai có thể sánh nổi !

       Năm ấy , cô Hạnh vừa đúng độ tuổi trăng tròn lẻ, không chỉ nhan sắc tuyệt trần mà cầm kỳ thi họa đều tinh thông không ai bằng . Tiếng đồn cô Hạnh đến tai quan huyện. Lập tức, quan huyện cho người tới dạm hỏi làm vợ bé ! Ông đồ nghèo kinh hoàng , chỉ biết đấm ngực kêu trời ! Cô Hạnh bủn rủn chân tay, khóc hết nước mắt ! Đêm ấy, cô Hạnh đi ra bờ sông, đứng trước một cái hút. Chỗ này, nghe nói sâu ngàn trượng, biết bao sinh linh oan khuất, khổ đau đã trầm mình nơi đây? Đúng lúc cô Hạnh nhìn đăm đăm vào mặt nước loang loáng ánh trăng thì vang lên  giọng thơ trầm bổng, não nùng, như là từ cõi xa xăm vọng về:

    “…Dòng sông chở sầu hoài đâu hết
          Khói sóng trên sông đẫm lệ người
           Anh hùng đâu tá , dòng nước siết?
           Liệt nữ tìm chi dòng nước trôi ?...”

   Cô Hạnh giật mình, nhìn quanh quất chỉ thấy mặt sông mờ mịt khói sóng, tịnh không có một bóng người, vậy mà tiếng thơ vẫn ngân vang vô tận!...Tiếng thơ như thấm vào từng mao mạch của cô Hạnh, khiến cô rùng mình, thảng thốt. Cô nhắm mắt lại rồi lao đầu xuống hút nước !...

    Từ lúc cô gái xuất hiện bên hút nước, ông lão đánh cá đã nhìn thấy cả. Đúng lúc cô gái lao xuống thì từ trên con thuyền nhỏ đậu khuất trong một lùm cây ven sông, ông lão cũng bật người lao xuống nước như một con chim bói cá. Ông lão đã vật lộn với dòng nước  xoáy và đưa được cô gái lên thuyền…

     Khi đã tỉnh lại, nhìn thấy ông lão đánh cá che mặt, cô Hạnh nói với ông mà như nói với người hư ảo:”Ông lão đánh cá cô độc đấy ư? Ông cứu tôi làm gì? Tôi đã quyết hiến thân cho Hà Bá còn hơn phải sống trong hang hùm miệng sói!”.Ông lão nhẹ nhàng nói:”Cô nương nên tìm cách khác, sao lại hủy hoại tấm thân non trẻ đang giá ngàn vàng như vậy? Cô nương không tiếc công sinh thành, nuôi dưỡng của cha mẹ sao?”. Mắt Hạnh trào lệ, cô nghẹn ngào nói:”Nhưng tôi sắp rơi vào tay bọn quỷ dữ!...”. “Tôi sẽ cứu cô nương – ông lão bình thản nói:”Cô nương muốn tôi đưa tới đâu, tôi sẽ cố gắng hết sức để cô nương được bảo toàn”…Cô Hạnh nhìn đăm  đăm  vào tấm khăn che mặt của ông lão đánh cá rồi đột ngột nói:”Ông lão, ông có phải là cậu bé Hứa Tam Phong Thần đồng ngày xưa không?”. Ông lão ngập ngừng một lát  rồi nói nhanh, tiếng  ông như gió thoảng:”Thưa cô nương, chính phải! Tôi là Hứa Tam Phong!”.Cô Hạnh giật mình, lấy hai tay ôm mặt, đoạn từ từ bỏ tay ra, nhìn ông lão chăm chú, nói:”Thì ra chính ông là Hứa Tam Phong! Tại sao ông bỏ làng xóm ra đi, năm mươi năm mới trở lại mà không cho ai biết?”. “Chuyện của tôi dài lắm. Tôi bị người ta cướp đoạt mất nghề văn nên chuyển sang nghề võ. Vì nhớ quê hương mà trở về, song nghĩ mà hổ thẹn với tổ tiên nên không dám lộ diện” – ông lão nói rồi khóc nấc, toàn thân ông rung lên như sóng nước!...Hồi lâu, cô Hạnh nói:”Họ Hứa nhà ông có còn người nối dõi không?

Nghe nói mặt ông xấu xí lắm? Cho tôi coi được không?”. Ông lão nói:”Xin cô nương đừng coi, cô nương sẽ chết khiếp vì bộ mặt như quỷ Dạ Soa của tôi!”, Hạnh nói dịu dàng:”Tôi chỉ sợ bọn mặt người nhưng lòng dạ là quỷ ma. Ông ngồi xích lại gần đây, mở khăn ra cho tôi được nhìn thấy  mặt người mà tôi ngưỡng mộ văn tài từ lâu!”. Ông lão ngần ngừ rồi giật tấm khăn che mặt ra, ông nghĩ cô gái sẽ rú lên kinh hãi như bao cô gái khác khi nhìn thấy bộ mặt gớm ghiếc của ông.Nhưng ông hoàn toàn bất ngờ khi thấy cô Hạnh chỉ thoáng giật mình, khẽ nhắm mắt lại rồi mở ra nhìn ông chăm chú, ánh mắt lung linh như ngọc… Cánh tay trần của cô trắng ngà dưới ánh trăng huyền ảo, ngực cô chuyển động như sóng nước theo từng hơi thở mạnh. Tấm chăn chiên ông đắp cho cô đã trễ xuống, để lộ ra khuôn ngực mềm mại, đang tỏa hương thơm trinh bạch…. Ông nhắm mắt lại, vội quay mặt đi toan đứng dậy thì cô gái đã vươn tay ra, ôm lấy đầu ông ép mạnh vào bộ ngực nóng rực của mình mà nói:”Ôi, ước gì tôi được đổi bộ mặt của tôi cho ông !...Hứa Tam Phong!...Yêu tôi đi… tôi sẽ đẻ cho ông một đứa con trai ! Ông cần phải có con nối dõi!” Ông Hứa Tam Phong cảm thấy mình như đang bồng bềnh trên những tầng mây trắng xốp !...Hồi lâu, Hứa Tam Phong mới định thân trở lại, ông nghe tiếng nói như lửa cháy, như nước reo bên tai:”Ông yêu tôi đi…Tôi sẽ đẻ cho ông một đứa con trai thật đẹp!...Sau đó, ông hãy đưa mẹ con tôi đên một làng chài ven biển, gửi tôi ở đấy… Biển bao dung và những ngư dân tốt bụng sẽ cho tôi lánh nạn...”.Hứa Tam Phong vội nói:”Tôi xin đội ơn cô nương!”, nhưng tiếng nói của ông đã tan đi trong hơi thở thiên thần của cô gái !... 
    *  *  *
   Hứa Tam Giang chính là hậu duệ của cậu bé được sinh ra và lớn lên ở ngã ba sông đó. Khuôn mặt Hứa Tam Giang được thừa hưởng sắc đẹp của người mẹ và sức khỏe thì được thừa hưởng của người cha. Còn trí thông minh đặc biệt là của ông cố nội – tức Trạng Ngọt – truyền lại. Song, Hứa Tam Giang lại bị cái tật oái oăm: nói lắp ! Mà tật nói lắp (cà lăm) của anh lại khá nặng !...Chính cái tật nói lắp đã khiến anh gặp rất nhiều phiền toái, thậm chí rất nghiêm trọng…

       Đặc điểm chính của công việc trắc thủ Rađa là thông báo các số liệu về mục tiêu (tức máy bay Mỹ) lên chỉ huy sở, tức người trắc thủ phải nói rõ ràng, rành mạch như phát thanh viên truyền hình. Đó là một khó khăn “bất khả kháng” đối với Hứa Tam Giang. Các thủ trưởng đại đội đã quyết định điều Hứa (từ đây nói tắt là Hứa cho tiện) xuống tiểu đội nuôi quân. Nhưng mỗi khi máy móc trục trặc, trung đội trưởng máy P.40 (trong đội hình chiến đấu của bộ đội Rađa, cứ mỗi một máy rađa thì biên chế một  trung đội, một đại đội Rađa thường gồm có ba máy rađa, tức ba trung đội…) lại phải chạy xuống nhà bếp để cầu cứu anh chàng Hứa. Nói vậy có nghĩa  là Hứa có năng khiếu đặc biệt về máy móc. Hứa    nhìn  vào mạng lưới dây nhợ chằng chịt của máy rađa như người nhạc sĩ nhìn vào bản nhạc, như người họa sĩ nhìn vào bức tranh…Nói nôm na , khi Hứa làm việc với máy móc cứ như người nhạc sĩ tấu nhạc, như người họa sĩ vung bút!...Nhưng sự đời éo le, nghiệt ngã lại nhắm thẳng vào Hứa mà thể hiện…Một lần, Hứa đang phụ trách một chảo cơm khổng lồ thì trung đội trưởng máy rađa P40 chạy xuống bếp cầu cứu Hứa : máy rađa bị trục trặc đúng lúc có lệnh mở máy tăng cường (bạn đọc có thể hiểu nôm na là  tinh hình đang rất căng thẳng, máy bay Mỹ đang bay vào rất nhiều, toàn bộ hệ thống máy rađa của chúng ta đã huy động hết mà  vẫn chưa đáp ứng  được yêu cầu chiến đấu…). Hứa chạy lên máy cùng trung đội trưởng… Nghiệt nỗi là lúc đó, tiểu đội anh nuôi chỉ có mình Hứa trực ban làm nhiêm vụ. Khi Hứa theo Trung đội trưởng đi sửa máy rađa thì cái nhà bếp thành …vô chủ ! Điều đó cực kỳ không an toàn ! Và sự cố đã  xảy ra : cả chảo cơm khổng lồ bị cháy thành tro cùng cái nhà bếp ! May mà chỗ đặt nhà bếp ở rìa làng nên không ảnh hưởng tới ai !...

     Về vụ cháy nhà bếp này, chính trị viên đại đội đòi kỷ luật nặng ngay tức thì, nhưng “án trảm” vừa mới phát ra thì đại đội trưởng cho người tới báo: Cuộc không chiến ban nãy, trên bầu trời phía Tây Thủ đô Hà Nội, không quân ta đã bắn rơi tại chỗ bốn  chiếc “Con ma” (F-4H : tiêm kích hải quân Mỹ), trong đó có sự hợp đồng tác chiến rất kịp thời của máy rađa P.40, do đó cấp trên quyết định  thưởng huân chương chiến công cho máy rađa P.40 ! Tuy thế, chính trị viên chỉ giảm mức án đối với chàng  Hứa chứ không cho “trắng án”như đề   nghị của đại đội trưởng!...
..
   Những “tai nạn” na ná như cái vụ cháy nhà bếp vừa nói xảy ra khá nhiều đối với chàng Hứa… Dường như anh chàng Hứa này  phải vác trên vai một cái “món nợ đời” quá nặng!...Trong những ngày “phiêu bạt giang hồ” ở Sài Gòn, ngẫu nhiên tôi đã  gặp lại Hứa Tam Giang: anh chàng đang làm chủ một lò bánh ngọt ở quận Năm !...Câu chuyện phải tạm dừng ở đây vì từ khi gặp lại Hứa Tam Giang, một cuốn tiểu thuyết bộ ba đã hình thành khá  rõ, và nhân vật chính  là anh bạn Hứa Tam Giang của tôi !...
   Đỗ Ngọc Thạch
    
Phongdiep.net


Gửi email trang này cho bạn bè Mở cửa sổ in bài viết này

Đường Văn :: 



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét