2 TRUYỆN NGẮN VỀ NGƯỜI LÍNH
bichkhe.org/home.php?cat_id=147&id=1428Bản lưu
2 TRUYỆN NGẮN VỀ NGƯỜI LÍNH. KÝ ỨC BINH NHÌ. Truyện ngắn của Đỗ Ngọc Thạch ... Ngày đầu tiên xúng xính trong bộ quân phục mới thơm mùi vải, hai bên cổ đeo quân hàm BINH NHÌ có hai ... Có lẽ những người bạn lính của tôi cũng như tôi, lần đầu tiên được nghe câu ca dân gian đó, cho nên ..... Gia đình Bích Khê.DIỄN ĐÀN VĂN NGHỆ
2 TRUYỆN NGẮN VỀ NGƯỜI LÍNH KÝ ỨC BINH NHÌ Truyện ngắn của Đỗ Ngọc Thạch Tôi nhập ngũ tháng 12 năm 1966, vào Binh chủng Ra-đa, khi đang là sinh viên Khoa Toán Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội (lúc đó trường sơ tán ở Đầm Mây, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên). Tháng 10 năm 1970, tôi lại trở về học tại Khoa Toán, trường ĐHTH Hà Nội (lúc đó đang ở cơ sở chính tại Khu Thượng Đình, Hà Nội). Tuy chỉ gần bốn năm tại ngũ, nhưng kỷ niệm đời lính đầy ắp và mỗi khi tháng 12 đến, tôi lại như là đi trên con tàu ngược thời gian trở về những năm tháng ấy… * * * Ngày đầu tiên xúng xính trong bộ quân phục mới thơm mùi vải, hai bên cổ đeo quân hàm BINH NHÌ có hai miếng tiết đỏ au, ở giữa đính ngôi sao sáng lóa, chúng tôi "nhìn nhau lạ hoắc cười ha ha”! Quả thật chúng tôi đã "Lột xác”, từ anh học trò "dài lưng tốn vải” trở thành người chiến sĩ quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh! Cái cảm xúc thiêng liêng ấy khiến chúng tôi rất hãnh diện, từng tốp dăm ba người đi dạo khắp làng (khi mới nhập ngũ, tân binh chúng tôi ở nhờ trong nhà dân, cạnh Đại đội Ra-đa "đăng cai” đợt tuyển quân này). Lúc ấy đã gần trưa, trời nhiều mây nên dịu nắng và đúng là những nụ cười rạng rỡ của những chàng trai lính trẻ chúng tôi đã làm sáng rực cả xóm làng vốn rất tĩnh mịch mỗi khi mùa Đông đến. Đang cao hứng nói cười bi bô, bỗng tôi sững người khi thấy một tốp các thôn nữ đang đứng dưới một gốc cây lớn, cất tiếng hò lảnh lót: "Ai ơi chớ lấy Binh Nhì / Năm đồng một tháng lấy gì nuôi con!...”. Có lẽ những người bạn lính của tôi cũng như tôi, lần đầu tiên được nghe câu ca dân gian đó, cho nên phản ứng của chúng tôi là đứng như trời trồng! Ngày hôm sau, tôi hỏi ngay cô chủ nhà (đang ở nhờ): "Chị có biết ai đặt ra câu ca ấy không? Tài thật đấy!”. Chị chủ nhà cười: "Bây giờ chú mới biết à? Câu ca ấy có từ lâu rồi! …Chồng tôi nhập ngũ đã được một năm, giờ đã lên Binh Nhất, tức sáu đồng một tháng, làm sao mà nuôi con? Không những thế còn xin tiền vợ tiêu vặt, mỗi tháng tôi phải gửi cho mười ngàn!...”. Nghe chị chủ nhà nói vậy, tôi chỉ biết…nghe và ngao ngán! Thấy tôi có vẻ thất vọng, chị chủ nhà cười nói: "Nói là nói thế nhưng chị em chúng tôi rất thích lấy chồng Binh Nhì, bởi Binh Nhì là những anh lính trẻ nhất, vô tư nhất và…đáng yêu nhất!”. Tôi trút một tiếng thở dài, nói: "Thôi, chị khỏi động viên tôi! Tôi rất ghét những lời động viên, an ủi!”. Chị chủ nhà nói ngay: "Chú không tin à? Vậy tôi sẽ gọi cô em tôi tới đây xem chú có tin hay không!”. Và không đợi tôi kịp phản ứng gì, chị chủ nhà đặt đứa con chưa đầy tuổi vào tay tôi rồi đi nhanh hơn làn gió! Chưa tới năm phút, chị chủ nhà đã trở về cùng với một cô gái khoảng mười sáu, mười bảy tuổi, hao hao giống chị chủ nhà, chắc đúng là em gái. Cô em gái nhìn tôi bằng ánh mắt lung linh, tôi tưởng như đang nhìn thấy những giọt sương mai. Cô gái nhoẻn miệng cười như chào tôi, tôi tưởng như lạc lối khi nhìn vào đôi môi mọng ướt và hàm răng lóe sáng của cô! …Chị chủ nhà đón lấy đứa con và nói: "Cô Mận em tôi sẽ nói lại cho chú biết con gái có thích lấy chồng Binh Nhì hay không?”. Khi chỉ còn lại tôi và cô gái tên Mận, tôi thật sự lúng túng không biết nói gì, làm gì thì cô Mận nói: "Anh hãy hỏi em rằng cô có thích lấy chồng Binh Nhì không?”. Tôi làm theo như cái máy, lặp lại nguyên văn câu hỏi: "Cô có thích lấy chồng Binh Nhì không?”. Cô gái nói ngay: "Có! Anh hãy cưới em đi!”. Vì tôi chưa hề nghĩ tới hai chữ "cưới vợ” nên buột mồm nói: "Làm sao để cưới được em?”. Tức thì cô gái cầm lấy tay tôi nói: "Anh hãy hôn em đi thì sẽ biết làm thế nào!”. Và khi tôi còn đang ngỡ ngàng trước tình huống bất ngờ thì cô gái nép vào ngực tôi rồi bất thình lình hôn túi bụi vào mặt tôi!... * * * Nhờ cô gái tên Mận mà tôi biết giá trị của anh lính Binh Nhì và những niềm vui rất…Binh Nhì! Nhưng chỉ ba ngày sau thì Chính trị viên Đại đội đã cho tôi biết thân phận thực sự của anh lính Binh Nhì là như thế nào! Trưa hôm ấy, đáng lẽ ngủ trưa như tất cả mọi người thì tôi lại nghe có tiếng gọi thoang thoảng trong gió từ đầu hồi, chỗ để cối xay lúa của chị chủ nhà. Tôi nhẹ nhàng đi ra thì thấy cô Mận đang ngồi cạnh cái cối xay, bên phải là một thúng thóc vàng! Vừa nhìn thấy tôi, Mận ngoắc lại và nói khẽ: "Anh chưa ngủ à? Hôn em đi, nhớ anh quá!”. Binh Nhì chúng tôi là phải biết "tuân lệnh một cách nhanh chóng và chính xác”, cho nên tôi đã thực hiện "mệnh lệnh” của Mận một cách xuất sắc!...Có lẽ cái hôn của tôi sẽ dài vô tận nếu như Chính trị viên Đại đội không đột ngột xuất hiện! Thì ra Chính Trị Viên đi "kiểm tra” đột xuất khu tân binh chúng tôi! Chính trị viên chưa kịp nói gì thì cô Mận đã đẩy nhẹ tôi ra và nói: "Binh Nhì Thạch! Thừa lệnh Tiểu đội trưởng, tôi ra lệnh cho đồng chí chạy bộ ba mươi vòng quanh nhà!”. Tôi liền hô rõ rồi chạy vút đi khiến CTV ngớ người một lúc! Nhưng chỉ hai phút sau, CTV đã lấy lại bình tĩnh và cười cười rồi nói: "Cô Mận, cô giỏi thật đấy, xứng đáng được đề bạt Tiểu đội trưởng chứ không phải thừa lệnh nữa!”. Lúc đó, tôi chạy được một vòng, khi quay lại nhìn Mận thì cô ra hiệu cho tôi vào trong nhà mà ngủ tiếp, tôi liền nhẹ nhàng chui vào nhà! Vừa vào thì nghe tiếng CTV nói: "Tôi đã biết phong thanh chuyện "luyến ái” của cô với anh lính Binh Nhì vừa rồi! Tôi sẽ kỷ luật anh lính thật nặng vì đã vi phạm lời thề thứ 9 của Quân đội Nhân dân VN!”. Tiếng cô Mận nói: "Thôi, tôi xin Chính trị viên, là tại tôi cả, tôi thích anh ta! Muốn kỷ luật thì kỷ luật tôi đây này!”. Tiếng CTV: "Ai lại kỷ luật một cô gái xinh đẹp và đáng yêu như cô Mận được!...”. Tiếng cô Mận: "Đừng, buông tôi ra không tôi la lên bây giờ!”. Tiếng CTV: "Cô mà la lên thì tôi sẽ kỷ luật anh chàng Binh Nhì của cô!...”. Tiếng Mận: "Thôi được, tôi chịu thua Chính trị viên!...Nhưng bây giờ tôi phải xay lúa, để đến tối, tôi sẽ chiều!”. Tiếng CTV: "Nhớ đấy nhé! Tối đúng bảy giờ, tôi chờ ở trên mặt đê, sẽ ra hiệu bằng đèn pin!”…Có tiếng đổ thóc vào cối xay, rồi tiếng cối xay rào rào, ù ù…Đoán chừng CTV đã đi xa, tôi đi ra đầu hồi thì thấy Mận đang xay lúa, vẻ mặt thản nhiên như không có chuyện gì xảy ra! Tôi không sao hiểu được tại sao Mận lại đồng ý hẹn CTV, liền tới gần Mận, định hỏi "cho ra lẽ” thì Mận như là đã biết ý nghĩ của tôi, vừa cười vừa nói: "Anh không phải lo cho Mận! Chính trị viên không thể "ăn tươi nuốt sống” được Mận đâu!”. Nói xong, Mận lại xay lúa rào rào, ù ù!... Tuy thế, tôi vẫn thấy không yên tâm và nghĩ tối nay sẽ ra mặt đê "chi viện”! Đúng bảy giờ tối, tôi lặng lẽ đi ra con đê. Trong bóng đêm mờ ảo, con đê như một con trăn khổng lồ! Vừa bước lên mặt đê, tôi đã nhìn thấy có ánh sáng đèn pin nhấp nháy như đánh "Mooc”! Rồi có ánh đèn pin khác đáp lại. Tôi đang băn khoăn không hiểu chuyện gì đã xảy ra thì thấy một mùi hương rất quen thuộc bao phủ quanh người! Thì ra là Mận đã đứng cạnh tôi từ bao giờ. Mận cười rúc rích và nói: "Phen này Kẻ cắp Bà già gặp nhau! Em đã nhường cho Bà Ba Béo "xuất hẹn” với CTV rồi!...Thưởng gì cho em đi chứ?”. Tôi chưa kịp hỏi "Bà Ba Béo” là ai thì như là đã bị lạc trong hương bưởi, hương chanh kỳ ảo!... * * * Đối với số lính tân binh sinh viên chúng tôi lúc đó, có một vấn đề đặc biệt "nghiêm trọng” là chữ "Đói”. Sau ba tháng ở nơi sơ tán, ăn không đủ no (bữa nào cũng chỉ có lưng cơm và chậu canh măng lõng bõng…) nên ai cũng "gày đen như quỷ đói” và "ghẻ lở mọc đầy thân” (do lạ nước - ở nơi sơ tán toàn tắm suối). Vì thế, khi được Bộ đội nuôi, chữ "Đói” đã hạn chế cơ bản. Tuy nhiên, do đều đang ở "tuổi ăn” nên với chế độ ăn uống có "khẩu phần” của quân đội, không phải là được ăn "căng rốn”. Sáu người một mâm, một chậu cơm không phải là đầy có ngọn, nếu nhanh tay thì sới được ba lần, còn chậm chạp thì chỉ có hai lần mà thôi! Mỗi lần ăn cơm, chúng tôi xếp thành hàng, một Trung sĩ Trực ban của Đại đội đứng chỉ huy, đếm đúng sáu người thì ngắt ra, đi tới chỗ có ba cái bàn để nhận sáu suất ăn gồm một chậu cơm, một chậu canh và một cái khay có nhiều ngăn đựng thức ăn mặn. Chỗ ăn không có bàn ghế gì, chỉ là một bãi đất trống cạnh nhà bếp của Đại đội, lính ta chỉ việc "hạ thổ” rồi ăn uống rào rào. Nhìn cảnh gần một trăm lính tân binh ăn uống ồn ào trên bãi đất, tôi thật…ngao ngán! Vì thế, không như mọi người đến giờ ăn là nhanh chân đi trước, xếp hàng đầu để sớm được thỏa mãn cơn đói, tôi và Thao (cùng ở một nhà) thường đứng ở cuối hàng, chờ cho "bãi ăn” (chứ không phải "Nhà ăn”) vãn người, mới túc tắc đến nhận suất ăn và thong thả ngồi nhai và…ngẫm sự đời! Cái sự "Ngẫm sự đời” này đã giúp tôi phát hiện ra một điều thú vị: Thì ra cái câu thành ngữ "Ăn cỗ đi trước, lội nước đi sau” chỉ đúng ở vế thứ hai! Tức là những người nhận cơm trước chỉ được gần đủ định lượng, vì người phát cơm luôn lo sẽ bị thiếu ở phía sau, cho nên luôn để chừa lại một số lượng "dự phòng”, hoặc giả có thêm "khách đột xuất” (mà thời chiến thì chuyện này thường xảy ra). Vì thế, khi chúng tôi đến nhận suất cơm thì đã là nhóm người ăn cuối cùng, mà nhìn vào "Kho lương” thì thấy còn ê hề! Vì thế, các anh nuôi sau khi "trách yêu” rằng "Làm gì mà đi ăn muộn thế?” đã xúc cho khá là nặng tay! Lúc đó thường là chỉ còn ba, bốn người, chưa đủ một mâm sáu, nhưng chúng tôi được nhận phần cơm còn nhiều hơn cả mâm sáu lúc mới bắt đầu bữa ăn! Mỗi lần bưng cơm canh về một chỗ cao ráo, sạch sẽ nhất của "Bãi ăn”, Thao lại tủm tỉm cười nói: "Chúng ta là trâu chậm uống nước đục! Có lẽ phải sửa chữ "Đục” thành chữ "Đậm”! Tôi lại bảo: "Khỏi phải sửa, bởi chữ "Đục” ấy rất hay, "Đục nước béo cò”! Thao lại cười hồn nhiên: "Ờ nhỉ!...”. Một lần, chỉ có tôi và Thao là người ăn sau cùng trên "bãi ăn” thì thấy có hai đứa bé, đứa chị gần mười tuổi, thằng em khoảng năm, sáu tuổi, quần áo rách rưới, cứ đứng ở góc sân nhìn chúng tôi ăn. Đứa em hai lần định nhào tới chỗ chúng tôi nhưng đều bị chị nó kéo lại. Thấy vậy, tôi nói với Thao: "Đem cho hai chị em chúng nó hai bát cơm, xúc hết cả thịt vào!”. Thao nhất trí ngay, dùng hai cái bát sắt của chúng tôi, xới đầy bát, đem lại cho hai chị em. Hai đứa nhận hai bát cơm thì đi ngay!... Ăn xong, chúng tôi còn lại giúp mấy người Anh nuôi thu dọn "Chiến trường”. Thượng sĩ Sùng, Tiểu đội trưởng nuôi quân thấy chúng tôi làm động tác "Binh vận” như thế thì thích lắm, cười hở hết hàm răng bàn cuốc, nói: "Người ta cứ bảo đám học trò các cậu lười nhác nhưng hóa ra không phải! Hôm nay mà hai cậu rửa hết cho tớ đống khay chậu này thì sẽ có phần thưởng xứng đáng!”. Đương nhiên là chúng tôi rửa hết, chỉ mất khoảng nửa giờ, mà cũng không phải vì "phần thưởng” như Thượng sĩ Sùng đã hứa mà chỉ là làm cho biết Anh nuôi là thế nào!... Khi chúng tôi về đến nhà thì thấy hai chị em hai đứa bé ban nãy đứng chờ ở góc sân, tay cầm hai cái bát sắt. Thì ra chúng đợi trả chúng tôi hai cái bát sắt (đó cũng là một "vũ khí” quan trọng của người lính, vì mỗi ngày phải dùng tới ba lần sáng, trưa và chiều tối). Chị chủ nhà bước ra sân nói: "Chúng nó chờ các chú gần nửa giờ rồi đấy. Bảo cứ đưa chị trả giùm nhưng nhất định không chịu, đòi phải gặp hai chú để cám ơn!”. Đứa chị nói lí nhí cái gì mà tôi nghe không rõ, nhưng trong lòng dâng lên một cảm giác kỳ lạ, như là …muốn khóc, bởi nhìn kỹ mới thấy đứa chị thật xanh xao, gày gò, hai cánh tay như hai cuống lá đu đủ!...Thì ra chúng là hàng xóm của chị chủ nhà. Bố mẹ chúng đều bệnh tật liên miên nên nhà rất nghèo túng và chúng thường xuyên bị đói! Sau khi nghe chuyện hai đứa bé hàng xóm, Thao cũng xúc động lắm, nói với tôi: "Từ hôm nhận năm đồng tiền lương Binh Nhì đến giờ, chúng ta chưa tiêu pha gì. Vậy ta nên góp lại thành mười đồng, mua gạo đem cho hai chị em chúng nó!”. Nghe Thao nói mà tôi lại muốn… khóc (tôi vốn là đứa trẻ dễ mềm lòng từ khi thường bị bố phạt…nhịn đói!). Tờ năm đồng ấy tôi vẫn cất dưới đáy ba-lô, định giữ làm kỷ niệm của anh lính Binh Nhì, nhưng giờ thì kỷ niệm về những đứa bé đói rét này còn quan trọng hơn nhiều!... Nói là làm, chúng tôi gộp hai tờ năm đồng lại, đi tới ngay nhà bếp Đại đội, tìm gặp Thượng sỹ Sùng. Lúc đó, Thượng sỹ Sùng đang ngồi uống trà cùng với ba Anh nuôi nữa. Khi nghe chúng tôi nói ý định muốn dùng mười đồng lương Binh Nhì của hai người mua gạo giúp gia đình hai đứa bé nghèo đói, Thượng sỹ Sùng nhìn chúng tôi lừ lừ rồi nói: "Cất ngay mười đồng Binh Nhì đó đi! Chẳng lẽ lão Thượng sỹ già tái ngũ (nhập ngũ lần thứ hai) này lại để các cậu qua mặt như thế!”. Nói rồi Thượng sỹ Sùng bảo một Anh nuôi ngồi cạnh: "Cậu đi cân cho hai anh Binh Nhì này mười ký gạo, ghi vào người nhận là Thượng sỹ Sùng!”… Khi đã cầm mười ký gạo trên tay, tôi vẫn chưa tin nổi câu chuyện lại "Kết thúc có hậu” như thế!... * * * Những ngày tháng huấn luyện Tân binh trôi qua nhanh vun vút, nhưng thực ra nó chuyển động với vận tốc không đổi, tôi thấy nó nhanh bởi ngày nào tôi cũng vạch một vạch phấn lên cái cột nhà ngay sát chỗ giường ngủ. Khi tôi vừa vạch xong vạch phấn thứ hai mươi, thì lại có cảm giác tràn ngập trong mùi hương chanh, hương bưởi kỳ ảo. Quả nhiên là Mận đã tới từ bao giờ, cảm giác không bao giờ đánh lừa chúng ta!...Tôi nói với Mận: "Chúng ta quen nhau đã mười bảy ngày rồi, đúng bằng số tuổi của Mận! Vậy phải "Liên hoan” ăn mừng đi chứ!. Mận cười nói: "Lúc nào Mận cũng sẵn sàng "Liên hoan” với anh!”. Những lúc "nói chuyện” như thế này, tôi thường cảm thấy thiếu vốn ngôn từ vô cùng! Thì lại là lúc Mận "gỡ thế bí” cho tôi, bảo tôi đừng nói gì cả, và thế là chúng tôi cùng bay vào một thế giới thật kỳ lạ, có đủ mây, gió, trăng, hoa, tuyết, núi sông!... Sau này, khi tôi biết đến câu nói nổi tiếng "Khởi thủy là hành động” của nhà viết kịch bậc thầy Gớt thì tôi nghĩ ngay tới cô gái quê tên Mận: Mận mà được học hành đàng hoàng thì chắc chắn chẳng thua gì tác giả Phaux-tơ này!... Đợt huấn luyện Tân binh của chúng tôi chỉ kéo dài đúng ba mươi ngày. Ngày kết thúc khóa huấn luyện Tân binh, tôi bị xếp hạng chót vì có hai môn không đạt: đó là đi đều bước và thuộc lòng mười lời thề danh dự của người chiến sĩ Quân đội Nhân dân Việt Nam. Tôi cũng không hiểu sao, khi bước đi một mình, tôi bước rất đúng nhịp hô của người chỉ huy, nhưng khi đứng vào trong hàng ngũ, thì chân tôi cứ bị lạc nhịp! Còn chuyện vì sao không thuộc lòng được mười lời thề, cho đến bây giờ, tôi vẫn ngạc nhiên với chính mình bởi bao nhiêu công thức, định lý, tiên đề Toán học rất khó nhớ đã khiến cho hầu hết người đi học phải đau đầu, thì tôi lại nhớ rất nhanh, và còn thuộc lòng cho đến tận bây giờ, còn mười lời thề ngắn gọn như thế tại sao lại không nhớ nổi? Sài Gòn, 12-12-2009 Đỗ Ngọc Thạch NỖI BUỒN MÙA ĐÔNG Chử Đồng Tử và người cha nghèo đến nỗi hai cha con chỉ có một cái "quần đùi”, ai có việc đi ra ngoài thì mới mặc, còn người ở nhà thì "khỏa thân”. Khi người cha sắp chết, người cha đã đã dặn giữ lấy cái "quần đùi” đó mà mặc, nhưng Hiếu Tử Chử Đồng Tử đã mặc "quần đùi” cho cha rồi mới chôn, nên không còn gì mà mặc nữa! Nếu không có chuyện gặp Công chúa Tiên Dung trong cảnh ngộ "trần như nhộng” thì có lẽ Chử Đồng Tử sẽ "khỏa thân” suốt đời!... Khi còn nhỏ, đọc cái chuyện về Chử Đồng Tử, tôi không tin lại có người nghèo đến như thế. Nhưng sau này, có nhiều dịp sống ở những vùng nông thôn, tôi đã gặp không ít những "Cha con Chử Đồng Tử” như thế. Chỉ có điều khác là không có cái đoạn gặp Công chúa Tiên Dung đi tắm! Tôi nhập ngũ vào Mùa Đông, tháng 12 năm 1966, được biên chế vào một Đại đội Ra-đa độc lập. Trung đội chúng tôi đặt máy Ra-đa trên một con đê của một con sông đào, vốn là thuộc hệ thống của công trình Đại Thủy Nông Bắc Hưng Hải nổi tiếng một thời. Con đê lúc này đã cây cối xanh tốt, trên mặt đê từng thảm cỏ xanh rờn. Nếu không giới thiệu thì không thể hình dung ra chỉ mấy năm trước đây còn là Đại Công trường đào sông đắp đê nhộn nhịp chấn động cả vùng đồng bằng Bắc Bộ. Phải nói sơ qua về cái Đại Công trường Thủy Nông này bởi nhân vật của truyện ngắn "Nỗi buồn Mùa Đông” này chính là người đã từng được phong danh hiệu "Kiện tướng” của công trường Đại Thủy Nông này: ông Trần Phu. Song, không biết có phải cái danh hiệu "Kiện tướng” kia đã hại ông hay không mà vừa được phong danh hiệu "Kiện tướng” hôm trước thì hôm sau ông bị tai nạn: Khi đang gánh đất từ dưới hố sâu lên bờ đê thì Trần Phu bị trượt chân, lăn ngược trở lại dưới đáy hố và thật rợn người khi người xắn đất ở dưới hố vừa phóng lưỡi mai xuống đất thì bàn chân của Trần Phu lao tới, lãnh trọn nhát mai sắc lẹm và sức phóng rất mạnh của người thủ mai! Trần Phu đã bị mất gọn cả bàn chân!... * Những người lính Ra-đa chúng tôi dựng nhà bạt trên mặt đê, chỉ cách ụ máy phát sóng khoảng 50 mét. Ăn uống thì cử người đi vào nhà bếp của Đại đội ở đầu làng, cách bờ đê khoảng nửa cây số, gánh cơm nước về (những người tân binh chúng tôi thường được vinh dự làm việc này!). Tắm rửa, giặt rũ thì ra bờ con sông đào, nước thì thoải mái dùng không hết nhưng "phù sa” đỏ ngầu, cái khăn mặt chỉ dùng tới ngày thứ ba là đỏ màu phù sa! Điều kiện sinh hoạt ăn ở tuy có khó khăn nhưng hình như đối với những người lính trẻ, chuyện đó không quan trọng. Quan trọng nhất là mùa Đông gió lạnh, sống trên bờ đê cao là lãnh đủ mọi đợt gió mùa Đông Bắc! Song, cái lạnh của Mùa Đông sẽ tan biến hết nếu như trái tim được sưởi ấm! Vì thế việc quan trọng nhất là lúc nào được vào Làng để gặp gỡ, tâm tình với các thôn nữ mười phần thùy mị, nết na và xinh đẹp!... Việc vào Làng lúc đó được gọi là "Dân vận”. Mục đích của công tác Dân vận là làm sao để "Đi dân nhớ, ở dân thương”. Song, khẩu hiệu đó không cần phải hô lên vì lúc đó, người dân, mà chủ yếu là các cô gái quê, biết thương ai ngoài mấy anh lính trẻ, biết nhớ ai ngoài mấy anh lính đáng yêu! Mà thực ra, quân đội ta đã có truyền thống "Quân với dân như cá với nước” từ khi mới ra đời! … Mỗi lần đi Dân vận là chúng tôi phải đi thành từng tổ Ba người, đây có lẽ là tổ chức nhỏ nhất trong quân đội, có từ thời kháng chiến chống Pháp, lúc đó gọi là "Tổ Tam tam”. Có lẽ việc hình thành hình thức tổ chức Tổ Ba người xuất phát từ câu ca dao cổ "Một cây làm chẳng nên non / Ba cây chụm lại nên hòn núi cao!” Nếu đúng là như thế thì công tác chính trị tư tưởng trong quân đội đã làm được một điều kỳ diệu: Tổ Ba người - Đó chính là hạt nhân tạo nên sức mạnh bách chiến bách thắng của quân đội ta! Tổ Ba người của chúng tôi gồm có ba người, gọi theo tên Khoa mà lúc người đó nhập ngũ thì là: Toán, Lý và Hóa, trong đó Lý là Tổ trưởng, Hóa Tổ phó và Tôi - Toán, tổ viên. Khi đi dân vận, Lý thường ngồi trò chuyện tâm tình với gia chủ, Hóa chăm lo việc thăm hỏi người già, Toán lo chuyện trẻ em! Lần đi Dân vận đầu tiên, chúng tôi được giao nhiệm vụ giúp nhân dân làm vệ sinh nhà cửa, có nghĩa là nếu thấy nhà nào sống không hợp vệ sinh thì vận động sống cho hợp vệ sinh. Thời gian là cả buổi sáng ngày Chủ nhật, từ bảy giờ sáng đến 12 giờ trưa! Xin nói thêm là cho đến lúc chúng tôi đi làm công tác Dân vận vận động nhân dân sống hợp vệ sinh (những năm cuối thập niên 1960) thì về cơ bản mà nói, ở nông thôn vẫn còn nhiều nơi sống chưa hợp vệ sinh như dùng nước tắm rửa nơi Cầu ao (đó chính là nguyên nhân làm cho cả làng mắt toét), chuồng trâu, chuồng lợn liền kề với nhà ở, có nhiều nơi nhà bếp chung một chỗ với chuồng lợn (đó chính là nguyên nhân ruồi muỗi đầy nhà, cộng với việc ngủ không có màn mùng khiến các cô gái và trẻ em trên mặt luôn có vết muỗi đốt lấm tấm đỏ), đại tiểu tiện lung tung, ỉa cầu ao (gọi là "Cầu Tõm”), ỉa ngoài đồng (sướng nhất Quận Công, sướng nhì ỉa đồng), vẫn là phổ biến,v.v… Nhà đầu tiên mà Tổ ba người chúng tôi vào là nhà ông Trần Gian, nguyên Chủ tịch Xã, Thương binh Chống Pháp. Hai vợ chồng ông Trần Gian đều đã ngoài sáu mươi tuổi, ông đi lại phải dùng nạng vì đã mất một chân, bà đi lại phải chống gậy vì lưng đã còng! Nhìn hai ông bà không còn mấy sức sống này, không ai dám nghĩ là ông bà lại có hai cô con gái xinh đẹp như Tiên nữ giáng trần! Ông Trần Gian nói ngay với Tổ Trưởng Lý: "Nhà tôi có cái việc rời chuồng Lợn ra góc vườn mà lần khân mãi vẫn chưa làm được, chỉ tại vợ chồng tôi đều già yếu, mà có hai đứa con gái lớn thì hai năm nay lại đi trực chiến bắn máy bay Mỹ hoài, không có lúc nào rảnh!...Các chú làm giúp nhà tôi được việc này thì tôi gả ngay hai cô con gái mà không thách cưới gì cả!” Tổ trưởng Lý nói ngay: "Bác nhớ giữ lời nhé!” và ra hiệu cho chúng tôi làm việc ngay!...Chỉ hơn một giờ đồng hồ, cái chuồng lợn nằm sát góc vườn đã hoàn thành giống như trong chuyện Thần Tiên! Khi chúng tôi làm xong cái chuồng Lợn thì đúng lúc hai cô con gái ông Trần Gian đi chợ đã trở về! Ông Trần Gian nói ngay: "Đó, hai đứa con gái tôi đã hứa gả cho các chú đó! Các chú hỏi em nào ưng ai thì ta làm đám cưới ngay!”. Tổ Trưởng Lý hội ý chớp nhoáng và đi đến quyết định: "Tổ trưởng Lý cô chị, Hóa cô em, còn Toán dự bị!”. Khi hai cô gái biết được quyết định đó thì cô chị nói: "Để em dẫn anh Toán sang nhà ông chú Trần Phu, cô con gái ông Trần Phu còn đẹp hơn chúng em nhiều!”. Nói rồi cô chị, tên Nụ dẫn chúng tôi sang nhà ông Trần Phu. Nhà ông Trần Phu ở sát hàng rào nhà ông Trần Gian. Ông Trần Phu chính là người được phong danh hiệu kiện tướng rồi bị tai nạn cụt mất bàn chân đã nói ở trên. Sau khi ông Trần Phu bị tai nạn, vợ ông cũng đột ngột qua đời, khiến cho gia cảnh trở nên vô cùng túng quẫn. Để có tiền làm đám ma cho vợ, ông Trần Phu phải cho hai thằng con trai mới hơn mười tuổi đi ở đợ cho hai nhà giàu trong vùng. Nhà chỉ còn hai cha con - ông Trần Phu và cô con gái Trần Thị Lụa đã 17 tuổi. Ông Trần Phu sau tai nạn, sức khỏe chỉ còn non nửa trước đây, giờ ông chỉ quanh quẩn ở cánh đồng gần nhà, hôm thì mò cua, hôm thì bắt ốc. Lụa có cố gắng hết sức thì cũng không thể làm thay đổi được gia cảnh nhà cô! Khi chúng tôi sang nhà ông Trần Phu thì chỉ có ông ta đang ngồi uống rượu với …mấy quả ổi xanh lăn lóc trên hè! Cô Nụ nói: "Có mấy anh bộ đội sang thăm chú đây! Cái Lụa nhà chú nó đâu rồi?” Ông Trần Phu như không hề say rượu (thực ra mỗi lần gọi là uống rượu, ông chỉ có thể mua được một chén sành nhỏ, có khi phải mua chịu, thì làm sao mà say!), ngồi nói chuyện với chúng tôi rất cởi mở. Ông nói, khi ông chưa bị tai nạn, ông là lực điền khỏe nhất làng, vợ ông là gái đẹp nhất Huyện, anh trai ông là chủ tịch Xã, nhà ông tuy không giàu nhưng kinh tế rất vững! Giờ ông chỉ ao ước tìm chỗ tốt lành cho con gái lấy chồng rồi ông đi gặp bà vợ xinh đẹp của mình nơi Chín Suối, chứ sống mà lắt lay thế này thì chết cho nhẹ gánh! Chúng tôi xúm vào động viên ông, thấy ông ngồi co ro, khoác tấm chiếu rách như người ăn mày, tôi cởi ngay cái áo Đông Xuân cho ông mặc (Mùa đông, mỗi người lính chúng tôi được phát thêm một áo dệt kim Đông Xuân và một áo trấn thủ. Có lẽ tôi còn trẻ khỏe nên thường không thấy lạnh, chưa bao giờ phải mặc cả áo Đông Xuân và áo Trấn thủ. Chỉ mặc một áo lót cổ vuông cũng bằng vải, một áo Đông Xuân và một áo quân phục hai túi ngực là thấy đủ ấm). Ông Trần Phu nhận áo mặc ngay và cám ơn rối rít. Đang nói chuyện vệ sinh nhà cửa, (Thực ra nhà ông Trần Phu chẳng có gì để mà mất vệ sinh cả, chuồng lợn, chuồng gà đều không có. Nhà có ba gian thì bố ở một đầu, con gái ở một đầu, gian giữa chỉ chỏng trơ cái phản gỗ lim là có giá. Bàn không, ghế không!) thì cô Lụa, con gái ông Trần Phu đi chợ về. Theo như cô Nụ nói thì sáng sáng, cô Lụa tranh thủ ra chợ bán mớ ốc mà ông bố Trần Phu mò bắt suốt đêm ngoài đồng lấy tiền đong gạo, mua mắm muối là vừa đủ "lương thực” một ngày cho hai bố con! Nhìn thấy cô Lụa đi từ ngoài cổng vào, thật là cảm động: đầu cô đội cái nón đã bong cái vành ngoài cùng, lớp lá mất vành bờm xơm như cỏ mới mọc, như muốn che đi một khuôn mặt xinh đẹp đến ngỡ ngàng! Chiếc áo tơi ngắn có lẽ là vật gia truyền của người mẹ đã chết sớm, choàng lên con trẻ nỗi bất hạnh truyền đời! Thấy tôi nhìn Lụa với vẻ xúc động, cô Nụ nói thật: "Ai cũng bảo hai bố con nhà này như ăn mày! Mà quả là thế, con Lụa nó chưa từng bao giờ mặc áo mới! Nó bây giờ chỉ có ba cái áo vải là mặc được mà đã vá trước vá sau! Đi đâu nó cũng phải khoác cái áo tơi ra ngoài! Thật tội nghiệp!...” Nghe cô Nụ nói đến đấy, mắt tôi thấy cay xè, miệng thấy đắng ngắt! Tôi cởi ngay cái áo sơ-mi quân phục đang mặc, đưa cho Nụ và nói: "Nụ đưa cái áo này cho cô Lụa, tôi mới nhận quân trang hôm qua đấy!”. Tổ Trưởng Lý thấy tôi cởi gần hết áo (chỉ còn cái áo lót cổ vuông - khi phát quân trang, ai cũng chê và chỉ thích áo lót ba lỗ, nhưng tôi lại thích vì có thể mặc thay áo sơ-mi quân phục khi đi ra ngoài vì nó không hở nách, có tay ngắn), Tổ Trưởng Lý cởi chiếc áo Đông Xuân đang mặc đưa tôi mà nói: "Mặc ngay vào kẻo lạnh lại sưng phổi bây giờ!” Cả Lý và Hóa cùng cười (vì tôi thường nói câu "sưng phổi”) nhưng không hiểu sao tôi lại bật khóc!... * Lần thứ hai đi Dân vận, chúng tôi được giao nhiệm vụ làm Tổng vệ sinh những nơi công cộng: đường đi lối lại trong Làng, Bệnh xá của Xã, Trường Tiểu học của Xã và cuối cùng là Ủy ban Nhân dân Xã. Cùng làm có cả một số thanh niên của địa phương, chuyện trò râm ran như pháo cho nên trời có gió mùa Đông Bắc mà không thấy giá lạnh, rét mướt gì cả… Gần trýa thì chúng tôi làm xong, mọi con đường đi lại trong Làng như mang một bộ mặt mới, quang đãng, sạch sẽ. Chúng tôi vào chơi nhà ông Trần Gian thì thật bất ngờ khi thấy cả ông bố của Tổ Trưởng Lý và bà mẹ của Tổ phó Hóa đang ngồi nói chuyện với nhau rất vui vẻ. Thì ra họ đã bàn bạc và thống nhất với nhau là vào dịp Tết Âm lịch sắp tới sẽ tổ chức đám cưới cho hai cô con gái ông Trần Gian với Lý và Hóa!... Một lúc sau, Nụ mới "nháy” tôi ra nói nhỏ: "Mấy ngày nay, hai cha con ông Trần Phu đi mò cua bắt ốc ở tận cánh đồng làng bên, ngày nào cũng tối mịt mới về mà cũng không được là bao! Xem chừng mấy ngày không có gạo mà ăn rồi!...”. Nghe Nụ nói vậy, tôi chạy ngay về đơn vị, tới nhà bếp nói với Bếp Trưởng Tỷ: "Anh Tỷ ơi, cho tôi xin suất gạo của Tổ ba người Toán Lý Hóa đến nhà ông Trần Gian nấu món cháo Lươn đãi người nhà của Lý Hóa đến hỏi cưới con gái ông Trần Gian cho Lý và Hóa!”. Bếp Trưởng Tỷ nghe nói vậy thì nói : "Chúc mừng các cậu. Con gái ở đây đẹp nổi tiếng, lấy được vợ ở đây là tốt rồi!” Bếp Trưởng Tỷ xúc cho tôi một Ký gạo, rồi lại hỏi: "Cần nữa không?”. Tôi gật đầu thì lại xúc thêm một Ký nữa. Sở dĩ Bếp Trưởng Tỷ dễ dãi với tôi như vậy vì tôi thường được cử xuống phụ giúp nhà bếp những lúc nhà bếp có người ốm đau hoặc đi lấy gạo ở kho…Xách hai Ký gạo, tôi chạy một mạch đến nhà ông Trần Phu. Vẫn chưa thấy hai bố con ông Trần Phu về! Tôi để hai Ký gạo vào trong bếp rồi chạy tới cánh đồng Tam Thiên Mẫu, nơi tôi đoán là cha con ông Trần Phu sẽ tới đó mò cua bắt ốc vì nghe nói cánh đồng này rất nhiều loài vật sống dưới nước sinh sống!... Đáng lẽ gần trưa thì trời phải hửng nắng và ấm lên một chút nhưng vì có đợt gió mùa Đông Bắc tăng cường cho nên trời lại lất phất mưa mà gió lạnh như quất vào mặt. Cũng vậy, như mọi khi, tôi chỉ chạy bộ khoảng năm phút là người nóng dần lên, có thể cởi dần cho tới hết quần áo rồi nhảy ùm xuống con sông đào, bơi qua bơi lại hai lần, nhưng hôm nay không hiểu sao càng chạy càng thấy lạnh!... Khi chạy tới gần khu vực cánh đồng Tam Thiên Mẫu, tôi bỗng thấy một đám hơn chục người đang xúm xít xung quanh cái gì đó. Tôi chạy lại đám đông hỏi thì có người nói: "Có hai người đi mò cua bắt ốc bị cảm lạnh đột ngột, đã tắt thở!”. Tôi giật mình, vội lách đám đông vào thì bàng hoàng khi nhìn thấy cả hai người đều mặc áo tơi, người đàn ông thì bên trong mặc chiếc áo Đông Xuân màu xanh của bộ đội, còn cô gái thì mặc chiếc áo quân phục của bộ đội bằng vải Tô Châu vẫn còn mới!... Sài Gòn, ngày 21, 22 -12-2009 Đỗ Ngọc Thạch Hà Nội, Mùa Đông 1976 |
Các bài khác:
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét