Tuyết là kẻ không nhà không cửa lang thang ở chợ huyện Tuy Viễn. Nói đến “Tuyết Tuy Viễn” thì ở cả phủ Quy Nhơn đều biết.
Số
là thế này: Trong một lần đi tuần về phương Nam của chúa Nguyễn Phúc
Khoát, một người vệ sĩ của chúa bỗng phải lòng mê đắm một tỳ thiếp của
quan tuần phủ Quy Nhơn Nguyễn Khắc Tuyên. Người vệ sĩ kia rủ người tình
đi trốn, chạy về Tuy Viễn rồi sống với nhau ở đấy. Khi chúa Nguyễn Phúc
Khoát đi rồi, tuần phủ Khắc Tuyên thấy mất người thiếp thì cho bộ hạ
truy lùng. Cuối cùng, quan quân cũng tìm thấy đôi tình nhân kia. Nhưng
viên tướng cầm đầu toán quân truy lùng thấy người thiếp đã có thai, nghĩ thương
tình bèn tha cho và bảo trốn vào rừng lánh nạn, còn bắt người vệ sĩ
giải về phủ Quy Nhơn trị tội. Sau người vệ sĩ bị xử chém đầu, còn người
thiếp thì được một gia đình người thợ săn ở Tuy Viễn chăm sóc rồi sinh
ra Tuyết. Người thợ săn thấy
Tuyết càng lớn càng thông minh, nhanh nhẹn, khỏe mạnh khác thường thì
lấy làm mừng lắm, nhận Tuyết làm con và truyền dạy nghề săn bắn cho.
Trong những cuộc đi săn, Tuyết thường chạy bộ đuổi kịp hươu nai, đánh được cả gấu, cọp. Khi ấy, Tuyết mới mười sáu tuổi.
Một lần, người cha nuôi nói với Tuyết:
-
Cha thấy con có tướng lạ, sau này ắt làm nên nghiệp lớn! Nay cha chỉ là
một người thợ săn tầm thường, không giúp gì được cho con. Vậy con hãy
đi tìm thầy học đạo, đem tài trí ra giúp đời, không thể cứ chui lủi mãi
trong rừng thế này được!
Tuyết nói:
- Đi đâu bây giờ, thưa cha?
Người thợ săn nhìn lên trời hồi lâu rồi nói:
-
Hôm qua, cha nằm mơ thấy có một chùm sao lạ xuất hiện trên dãy núi phía
An Khê. Chắc là minh chủ đã ra đời ở đấy. Con hãy nghe lời cha, thế nào cũng tìm đến vùng núi An Khê.
Hai
cha con trò chuyện hồi lâu, Tuyết quyến luyến không muốn chia tay. Thấy
vậy, người thợ săn tự đập đầu mình vào gốc cây, phọt óc ra mà chết.
Tuyết thất kinh, kêu khóc thảm thiết một hồi rồi mai táng cha nuôi dưới
gốc cây, đoạn khăn gói băng rừng ra đi. Đến Tuy Viễn, gặp ngày phiên chợ
đông vui tấp nập. Tuyết liền lách đám đông vào thì thấy giữa một bãi
đất rộng có hai con ngựa cực đẹp và khỏe đang cắn đá nhau dữ dội, không
ai dám vào ngăn cản. Tuyết nhanh nhẹn nhảy vào, hai tay ghìm chặt hàm
hai con ngựa trước sự kinh ngạc tột cùng của đám đông. Từ đó, Tuyết
nghiễm nhiên trở thành thủ lãnh của giới giang hồ Tuy Viễn.
Sở
trường của Tuyết chỉ là sức khỏe hơn người và nhanh nhẹn không ai bằng.
Về võ nghệ, người cha nuôi thợ săn mới luyện cho Tuyết một vài bài roi,
quyền, cốt để chống chọi lại thú dữ. Còn
việc sử dụng các loại binh khí nơi chiến trận và binh pháp thì Tuyết
chưa biết gì, vả lại, trong giới quần cư tứ chiếng ở Tuy Viễn này, chẳng
mấy người dùng đến binh khí, mà quan tuần phủ Quy Nhơn cũng ra lệnh rất
ngặt cấm dùng binh khí. Mải vui thú với đám bạn bè Tuy Viễn, Tuyết quên
cả lời dặn dò của cha nuôi là phải đi tìm thầy học đạo, đến An Khê tìm
minh chủ.
Một
hôm, có ông già dẫn theo hai cô gái đến một góc ở chợ Tuy Viễn bày biện
đồ nghề múa võ bán thuốc. Đúng là dân mãi võ và chắc là từ xa đến. Ông
già tuổi đã ngoài bảy mươi, râu rồng, tóc trắng như lông hạc, mắt sáng
như sao, phong thái bình thản ung dung, nhẹ nhàng. Hai cô gái tuổi
khoảng mười bốn, mười lăm, mười phần xinh đẹp, cầm kiếm đối nhau mà múa,
khí lạnh rợn người. Người xem trầm trồ thán phục, chốc chốc lại hò reo
hoan hô như sấm.
Thấy chuyện lạ, Tuyết cầm cây roi lớn, dẫn theo tay chân hơn chục đứa, rẽ đám đông nhảy vào thét lớn:
- Mấy người quê mùa ở đâu dám tới đây làm rộn thế a?
Ông
già ngồi yên, hai cô gái vẫn múa gươm như rồng bay phượng múa. Tuyết
tức giận cầm roi sấn tới hai cô gái, sử dụng bài roi “Ngũ môn phá trận”
tính đánh què chân hai cô gái. Hai cô gái thấy Tuyết múa roi nhảy vào
thì cùng cười và nói nhỏ cho Tuyết nghe: “Đường roi mạnh nhưng còn non
lắm!”. Tuyết chưa kịp phản ứng gì thì đã thấy cây roi của mình bị chặt
gãy thành bốn đoạn tung lên không và hai cô gái thu gươm cùng chạy lại
đứng yên phía ông già. Tuyết lặng người
đi chốc lát rồi bất thình lình nhảy tới ông già bằng bài thảo bộ “Ngọc
trản”, vung tay đánh thẳng vào mặt ông già. Ông già vẫn ngồi yên, không
cử động, mặt vẫn như không. Tuyết thấy vậy thì hoảng sợ, uất ức tháo lui, tính kế giết
chết ông già và bắt sống hai cô gái. Dò la biết được ông già ngụ trong
ngôi miếu cổ, đêm xuống, Tuyết giấu con dao lớn trong người nhảy tường
vào. Đã quá canh ba, quang cảnh ngôi miếu cổ im ắng, tịnh không một
tiếng động nhỏ, chắc là ông già đã ngủ say. Tuyết bèn bò như rắn vào
phòng, giơ dao chém vào cổ ông già. Không biết ngủ hay thức, nhưng ông già vẫn nằm yên không nhúc nhích. Tuyết chém liên tiếp mấy nhát nữa thì dao gãy. Sợ hãi tột độ, Tuyết định bỏ chạy thì nghe tiếng ông già chậm rãi nói:
- Quấy nhiễu giấc ngủ yên tĩnh của ta, sao nhà ngươi lại tàn ác như vậy?- Rồi cười và phẩy tay đuổi đi.
Tuyết liền
quỳ xuống đất không nhỏm dậy, xin quay mặt về hướng bắc giữ lễ đệ tử
nhưng ông già không chịu. Tuyết cầu xin mãi, ông già bèn nói:
- Ta không
có thuật gì, chỉ hai chữ “lui và nhường”. Tài của người có thể thành
đạt, có thể thành anh hùng ngoài thiên hạ, nhưng phải thay đổi khí chất
con người. Tiếc thay!
Tuyết
hết sức nói đã biết hối cải, ông già bấy giờ mới đổi ý thu nhận làm đệ
tử. Tuyết liền bỏ đám đàn em Tuy Viễn mà theo ông già ra
đi. Năm năm sau trở về, Tuyết đã có vợ, đó là một trong hai cô gái múa
kiếm năm xưa. Cô gái là cháu nội của ông, họ Trần, Trần lão dẫn hai cháu
gái lãng du bốn phương tìm người tài để truyền thụ võ nghệ. Được
Tuyết, bèn đem cả bí quyết nghề võ dạy cho. Tuyết rất thông minh, thầy
chỉ cần dạy một lần là hiểu liền, nhanh chóng nắm được những điều thần
diệu của võ thuật. Trần lão còn dạy Tuyết cả binh pháp. Tuyết cũng lĩnh
hội nhanh chóng. Trần lão cả mừng, cho gửi rể trong nhà. Ở được một thời
gian, Trần lão gọi Tuyết đến nói:
- Vợ chồng con có thể về được rồi. Những lời ta dạy bảo cẩn thận chớ quên. Nếu gặp được minh chủ, con ắt lập được công trạng.
Tuyết
vâng dạ, đưa vợ về Tuy Viễn, tính ngày tìm đến An Khê. Bọn đàn em cũ ở
Tuy Viễn thấy Tuyết về thì mừng lắm, kéo đến thăm hỏi. Tuyết bảo chúng:
- Việc làm của bọn ta năm xưa đủ để cho bậc hào kiệt xấu hổ, nay nên hối cải.
Bọn đồ đảng hỏi cách hối cải như thế nào? Tuyết đáp:
-
Ra sức trừ nỗi khổ của dân gian, vì cõi đời mà tiêu diệt nỗi bất bình,
nhưng chí nguyện và công việc đó không phải dễ nói cùng mọi người. Nhưng
dẫu sao các ngươi cũng nên đi tìm thầy giỏi mà học, đi tìm việc lương
thiện mà làm, ta cũng vậy, đó là việc hối cải.
Sau
đó, Tuyết dò tìm đường đến An Khê. Tuyết được nghe nói ba anh em Nguyễn
Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ đã ngầm xây dựng căn cứ và đội ngũ, còn gọi
là Tây Sơn thượng đạo, anh hùng hào kiệt khắp nơi tìm về đông như hội.
Tuyết nóng lòng muốn đi ngay nhưng ngặt nỗi đường xa núi rừng cách trở.
Đúng lúc đó, Tuyết nghe tin chúa Nguyễn Phúc Khoát lại đi tuần về phương
Nam, đang đóng hành dinh ở phủ Quy Nhơn. Tuyết nghĩ: “Đến ra mắt minh
chủ cùng các anh hùng hào kiệt, chẳng lẽ lại tay không? Nay cái thủ cấp
của bạo chúa đang gửi tại phủ Quy Nhơn, đem dâng trong lễ ra mắt là hợp
lẽ lắm”. Rồi Tuyết nai nịt gọn gàng, giắt dao bén trong người, nửa đêm
đột nhập vào phủ Quy Nhơn. Lọt vào hành cung của chúa Nguyễn, Tuyết thấy
lính canh dày đặc, bèn lẻn ra sau vườn nằm phục. Nơi ấy cạnh chuồng
ngựa, nghe tiếng ngựa hí rất hùng tráng khác ngựa thường, biết đấy là
giống ngựa hãn huyết, tên là Xích Kỳ, là cống vật của đất Phiên, chúa
rất thích nên đi đâu cũng đem theo. Tuyết bèn lẻn vào chuồng ngựa, cầm
cương dắt đi. Lúc đầu, ngựa vùng vằng định chống cự, nhưng dường như
nhanh chóng cảm nhận được sức mạnh của người chủ mới, con Xích Kỳ ngoan
ngoãn theo. Ra khỏi hành cung, Tuyết nhảy lên phóng một mạch gần sáu
trăm dặm đến địa phận An Khê, trời vẫn chưa sáng rõ!
Lúc
này, để đề phòng sự do thám của quan quân chúa Nguyễn, nghĩa quân Tây
Sơn bố trí lực lượng bảo vệ bên ngoài rất ngặt. Tuyết không biết điều đó
nên cả người lẫn ngựa đều bị
sa xuống một cái hố bẫy lớn. Thấy vậy, Tuyết hét lớn, thúc mạnh sườn con
Xích Kỳ, vọt lên khỏi miệng hố. Quân mai phục thấy vậy bắn tên nỏ theo
rào rào. Tuyết rút gươm ra múa như chong chóng, tên rơi lả tả.
Bỗng có tiếng quát lớn, các tay cung nỏ đều lui cả. Rồi một người cao lớn, oai phong lẫm liệt bước ra nói:
- Tráng sĩ hãy dừng tay! Tráng sĩ tên họ chi mà múa bài kiếm “Long môn” tài tình như vậy?
Tuyết vẫn trên ngựa, nói lớn:
- Ta là Nguyễn Văn Tuyết ở Tuy Viễn đây! Tại sao các ngươi dám cản đường ta? Tránh ra để ta đi, không nhiều lời!
Nói
rồi Tuyết thúc ngựa lướt tới, vung gươm nhằm đầu người kia mà chém
mạnh. Người kia vẫn đứng nguyên, chỉ giơ đao đỡ nhát chém của Tuyết.
Nghe tiếng kim khí chạm nhau rợn người rồi Tuyết thấy chới với, mất đà,
té nhào xuống đất, còn thanh gươm thì bay đâu mất! Người kia thấy vậy
chạy lại đỡ Tuyết dậy mà nói:
- Tráng sĩ không phải người thường, nếu như kẻ khác thì bị lưỡi đao chém thẳng đứt đôi mặt ra rồi.
Tuyết quỳ sụp xuống:
-
Tôi có mắt mà không nhìn thấy núi Thái Sơn, tội thật đáng chết. Có phải
đại nhân là Hồ Thơm đó không? Cho Tuyết này được bái kiến!
Người
đó chính là Nguyễn Huệ, đang trên đường đi tuyển mộ quân. Nguyễn Huệ đỡ
Tuyết dậy, dắt vào một lều cỏ, tiếp đãi như tình bạn hữu. Tuyết cứ băn
khoăn mãi chuyện ngôi thứ, đòi gọi Huệ là Đại vương thì Huệ nói:
-
Anh em ta là người áo vải dựng cờ nghĩa xóa bỏ nỗi bất bình, khổ sở của
dân chúng. Đó là cái chí của người anh hùng. Ngươi hẳn là anh hùng, cớ
sao lại coi ta như lục lâm thảo khấu?
Tuyết
thấy Huệ nói trúng ý nguyện của mình thì chích máu uống rượu thề,
nguyện cùng sống chết. Tuyết muốn dâng con Xích Kỳ cho Nguyễn Huệ, nhưng
Huệ nói:
-
Xích Kỳ là ngựa chiến, ngày đi ngàn dặm. Ngươi thành tâm dâng ta thì ta
ban lại cho ngươi cùng đội quân kỵ. Ta muốn có một đội quân tinh nhuệ,
thiện chiến. Mới thoạt nhìn thấy nhà ngươi trên lưng con Xích kỳ, ta đã
biết là Trời ban cho ta một đại tướng! Nhà ngươi sẽ là Đô đốc Tuyết!
Tuyết bái tạ và từ đó ngày đêm chăm lo luyện quân. Dự tính của Nguyễn Huệ đã thành sự thật: Khi lên ngôi hoàng đế, Huệ đã phong cho Tuyết chức Đại đô đốc, thống lĩnh đội quân binh mã. Trong những đợt hành binh thần tốc, đô đốc Tuyết cùng con Xích Kỳ luôn dẫn đầu đoàn quân bách chiến bách thắng.
* * *
Vào
một buổi sáng mùa thu năm 1792, Đô đốc Tuyết cùng ngựa Xích Kỳ đi qua
vùng An Khê thì bất ngờ cả người lẫn ngựa bị sa hố. Nhìn kỹ, Tuyết nhận
ra đây chính là chỗ cái hố bẫy năm xưa khi mới đến An Khê tụ nghĩa.
Tuyết thúc ngựa muốn vọt lên khỏi miệng hố nhưng Xích Kỳ chỉ hý vang.
Tuyết ôm cổ con ngựa, vừa vuốt ve nó vừa nói:
- Xích Kỳ! Xích Kỳ! Ta phải về gặp Chúa công gấp.
Xích
Kỳ hý vang một hồi nữa rồi lấy đà vọt lên, nhưng vừa lên khỏi miệng hố
thì nó đổ sụp xuống. Con ngựa đã chết! Tuyết cả sợ, lấy ngựa của tên
lính hầu phóng như bay!
Đô
đốc Tuyết về đến kinh đô Phú Xuân đã quá muộn, hoàng đế Quang Trung
Nguyễn Huệ đã qua đời! Không thấy Đô đốc Tuyết trong đám tang. Có người
nói Tuyết đã cùng hai lính hầu phóng ngựa về An Khê. Lại có người nói
rằng, một trong hai người lính hầu ấy đã trở về Tuy Viễn kể rằng: Tuyết phi ngựa đến An Khê, đến cái hố đã chôn con Xích Kỳ, mổ bụng ngựa
rồi chui vào trong, bắt hai tên lính hầu chôn cả người và ngựa xuống
cái hố ấy. Sau này, người ta thấy trên nấm mộ Tuyết và con Xích Kỳ mọc
lên một thứ cây nom rất lạ: thân cây thẳng tắp, lá đỏ như huyết, có hình lá cờ, không có gió cũng bay phần phật…
An Khê, 1986 - Tp Hồ Chí Minh, 1993-2009
Đỗ Ngọc Thạch
Tác giả gửi www.trieuxuan.info
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét