Thứ Hai, 22 tháng 4, 2013

Hai truyện ngắn về Hà Nội (trên bichkhe.org) - Đỗ Ngọc Thạch


Truyện ngắn Đỗ Ngọc Thạch trên bichkhe.org - Trích: 2 truyện ngắn về Hà Nội
 
 
Truyện ngắn Đỗ Ngọc Thạch trên bichkhe.org - Trích:  
» HAI TRUYỆN NGẮN VỀ HÀ NỘI CỦA ĐỖ NGỌC THẠCH
 
» TƯỚNG CƯỚP HOÀN LƯƠNG  
CHÙM TRUYỆN NGẮN MỪNG NGÀY BÁO CHÍ CM VIỆT NAM CỦA ĐỖ NGỌC THẠCH
CÔ GÁI SƠN TÂY VÀ ANH LÍNH BINH NHÌ
» HAI TRUYỆN NGẮN VỀ HÀ NỘI CỦA ĐỖ NGỌC THẠCH
» NHẬT KÝ CỦA SIÊU NGƯỜI MẪU CHÂN DÀI
» CHÙM TRUYỆN NGẮN VỀ MÙA THI CỦA ĐỖ NGỌC THẠCH  
» HAI TRUYỆN NGẮN VỀ TUỒNG VÀ CHÈO CỦA ĐỖ NGỌC THẠCH  
CHÙM TRUYỆN NGẮN ĐÓN CHÀO NGÀY QĐND -22/12  
» CHÙM TRUYỆN NGẮN MỪNG NGÀY NHÀ GIÁO VIỆT NAM CỦA ĐỖ NGỌC THẠCH 
» HAI TRUYỆN NGẮN VỀ HÀ NỘI (Ký ức Hà Nội; Từ Văn Miếu...)
» BẠN HỌC LỚP HAI -   » BĂNG NHÂN & KÉN RỄ  
KIẾM SỐNG -   
KÝ ỨC LÀM BÁO
» LẤY CHỒNG THƯƠNG BINH - » TÌNH GIÀ

» NGƯỜI CUỐI CÙNG CỦA MỘT DÒNG HỌ VÕ TƯỚNG
2 TRUYỆN NGẮN VỀ NGƯỜI LÍNH ;  
 (Ký ức Binh Nhì; Nỗi buồn mùa đông).
NHẬT KÝ CỦA SIÊU NGƯỜI MẪU CHÂN DÀI 
CÔ TẤM VÀ QUẢ THỊ
NHẬT KÝ CỦA MỘT CÔ GIÁO TRƯỜNG LÀNG
Truyện        ngắn của        Đỗ        Ngọc        Thạch . Tôi nhập ngũ tháng 12 năm 1966, vào Binh chủng Ra-đa, khi đang là sinh viên Khoa Toán Trường Đại ...       Ký ức Binh Nhì...Nỗi buồn mùa đông
www.bichkhe.org/home.php?cat_id=147&id=1428 - Bộ nhớ cache
 
Chùm thơ về Hà Nội của               Đỗ Ngọc Thạch. Viết tiểu luận phê bình, sáng tác truyện ngắn, hôm nay, tôi lại gặp một               Đỗ               Ngọc ...  
  1. Đỗ        Ngọc        Thạch. ... Tôi thì đọc        truyện        ngắn này của tác giả        Đỗ       Ngọc     Thạch như một     truyện có ảnh hưởng phong cách        truyện ...
    damau.org/archives/10337 -        Bộ nhớ cache
  2. Truyện ngắn Đỗ Ngọc Thạch. Gia sư là một trong những nghề có từ rất lâu đời trên phạm vi toàn thế giới.
    bichkhe.org/home.php?cat_id=147&id=2129 -        Bộ nhớ cache
  3. TRUYỆN        NGẮN CỦA        ĐỖ        NGỌC        THẠCH Tuổi thơ đi rồi mãi mãi lìa xa Chẳng còn bao giờ mong trở lại Tim vẫn hát điệu ...
    nhavantphcm.com.vn/tac-pham-chon-loc/truyen-ngan/do-ngoc-thach-ky... -        Bộ nhớ cache
  4. (Nhân đọc ba        truyện        ngắn của        Đỗ        Ngọc        Thạch) Trên trang mạng phongdiep.net, nhà văn      Đỗ        Ngọc        Thạch vừa cho xuất hiện liên tiếp ...
    www.       vanchuongviet.org/index.php?comp=tacpham∾tion=detail&id=9855 -        Bộ nhớ cache
  5. Truyện thứ nhất: BĂNG NHÂN Trần Mai trở thành Băng nhân (*) chuyên nghiệp sau một lần làm mai mối bất đắc dĩ nhưng đã đạt kết ...
    nguoibanduong.net/index.php?nv=News&at=article&sid=6282 -        Bộ nhớ cache
  6. Truyện Ngắn - Đỗ Ngọc Thạch - Nhật Ký của Một Cô Giáo Trường Huyện - Nhật Ký của Một Cô Giáo Trường Huyện
    elib.quancoconline.com/ui/viewcontent.aspx?g=45792 -        Bộ nhớ cache
  7. Truyện Ngắn - Đỗ Ngọc Thạch - Tứ Đại Đồng Đường - Tứ Đại Đồng Đường
    elib.quancoconline.com/ui/viewcontent.aspx?g=46179 -        Bộ nhớ cache
  • Người mẫuTop đường cong hấp dẫn nhất mọi thời đại
    2 trong số ngôi sao sở hữu đường lượn cơ thể hoàn mỹ nhất
HAI TRUYỆN NGẮN VỀ HÀ NỘI CỦA ĐỖ NGỌC THẠCH 
THƯỢNG KINH KÝ SỰ
(Hay là Ba lần tới Thủ đô)
Truyện ngắn của Đỗ Ngọc Thạch
1.Giáo đầu
Cứ tưởng cái đầu mình là “Của kho vô tận”, tôi thả phanh viết búa xua đủ các kiểu, bỗng một hôm ghé mắt nhìn vào cái “Kho” thấy trống trơn! Hốt hoảng, tôi thu dọn tất cả tài liệu, sách vở vào trong cái thùng giấy cứng (vốn là cái hộp giấy đựng tivi to tướng) rồi định đi “bụi đời” tìm cảm hứng!
 Ai dè vừa bước ra cửa, đụng ngay mấy người hàng xóm đang cãi lộn dữ dội, xem chừng muốn chuyển qua đánh lộn! Nhớ lời mẹ dặn lúc còn nhỏ rằng, thấy đám cãi lộn, đánh lộn là phải tránh xa, tôi vội quay trở lại, trèo lên gác… ngồi Thiền! Ngồi được ba phút thì Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác bất ngờ xuất hiện ngay trước mặt, râu tóc trắng như mây trắng, không khác gì Đại Tiên Thái Thượng Lão Quân. Tôi chưa kịp hỏi thì Hải Thượng Lãn Ông nhẹ nhàng nói: “Con mở thùng sách của con ra, trong đó có cuốn “Thượng Kinh Ký sự” của ta, con hãy đọc kỹ lại thì sẽ tỉnh ngộ!” Đoạn Hải Thượng Lãn Ông ghé tai tôi nói nhỏ một câu, dặn phải giữ bí mật, nên tôi không thể ghi ra đây được!
Tôi ngồi đọc lại cuốn Thượng Kinh ký sự một ngày… Những gì tôi viết dưới đây là do cuốn Thượng Kinh Ký sự gợi ý!
2. Về Thủ đô lần thứ nhất
Đó là những ngày đầu giải phóng Thủ đô…Bố tôi hồi đó ở Quân Y của Sư đoàn 308, đã về Hà Nội trước cùng với đơn vị, mấy chị em chúng tôi (lúc đó chúng tôi đã có 5 chị em, 2 chị đầu) và mẹ đi sau. Tuy bố tôi đi trước nhưng mọi việc của cuộc di chuyển “bầu đoàn thê tử” bố tôi đã xếp đặt ổn thỏa: chuyến ô tô cuối cùng của Quân Y sẽ đón 6 mẹ con chúng tôi từ Phú Thọ về Hà Nội. 
Lúc đó, tôi mới có hơn sáu tuổi, chưa biết Thủ đô Hà Nội như thế nào nên rất háo hức, muốn chiếc ô tô có cái dấu “Hồng Thập Tự” chở chúng tôi phóng thật nhanh! Và quả là xe chạy rất nhanh, tôi chưa kịp nhận biết là đã tới Hà Nội chưa thì xe dừng, mấy chú Quân Y đi cùng xe nói “Tới Thủ đô rồi!”, rồi nhấc bổng mấy chị em chúng tôi xuống đường! Tôi cũng chưa kịp quan sát kỹ con phố mà chúng tôi đứng chân lần đầu tiên nó như thế nào (sau này tôi mới biết đó là đoạn đầu Phố Tràng Thi, phía gần Cửa Nam, còn đi ngược lên là tới Hồ Hoàn Kiếm), thì mẹ tôi đã dắt tay hai chị tôi và bảo tôi dắt tay hai đứa em trai đi theo (Năm chị em chúng tôi sàn sàn tuổi nhau, sinh từ 1945 đến 1951)...Đi được khoảng chục bước thì cậu em sát tuổi tôi giằng tay ra khỏi tay tôi, có lẽ do tôi nắm tay em tôi quá chặt? Thấy người em giằng tay ra, tôi cũng thả luôn bàn tay của người em kế sau ra và đứng lại…sửa sang lại y phục! Cúi xuống chân, thấy dây giày bị tuột (tôi đang đi loại giày Ba-ta của Pháp, khá phổ biến lúc đó), tôi liền ngồi xuống buộc lại dây giày. Buộc xong, tôi đứng lên nhìn quanh thì không thấy hai cậu em trai của tôi đâu! Nhìn ra phía mẹ tôi vừa dắt hai người chị cũng không thấy ai!
Lúc đó là thời khắc chuyển giao giữa ban ngày và ban đêm, vào khoảng gần sáu giờ chiều. Người đi lại trên phố đang nhiều dần lên, chắc dân thành phố thích đi chơi ban đêm? Nếu như ở quê thì giờ này chúng tôi đang ăn cơm tối. Nghĩ tới hai từ “ăn cơm”, lập tức tôi thấy đói bụng, cái bụng như đang réo sôi! Tôi liền mở cái túi vải đeo bên sườn, có dòng chữ thêu trên nắp túi “Hoan hô chiến sĩ Điện Biên”, thò tay vào đụng phải cái nắm cơm to bằng quả bưởi. Tôi tính lấy nắm cơm nắm ra ăn thì chợt nghĩ, ai lại ăn giữa đường thế này? Vả lại, phải đi tìm Mẹ và các chị, các em chứ đứng mãi ở đây không phải là cách tốt nhất! Đi vài bước tôi lại nghĩ, nếu lát nữa mẹ quay lại tìm thì sao, với lại tôi đã biết đường phố Hà Nội như thế nào? Nghĩ vậy, tôi quyết định đứng đợi…
Khoảng một khắc, tức mười lăm phút trôi qua, đường phố đã sáng đèn, tôi đang đứng nhìn về phía Cửa Nam có ánh đèn điện nhấp nháy rất vui mắt thì bỗng có một thằng bé trạc tuổi tôi, không biết từ đâu tới và đứng sát trước mặt tôi từ bao giờ, dùng một bàn tay xoa đầu tôi và nói một câu gì đó bằng tiếng Pháp rồi co chân phải định đá đít tôi. Không ngờ tôi lại phản ứng rất nhanh, dùng một tay hất bàn chân của thằng bé lên và tay kia đấm thẳng vào mặt, tức thì nó ngã té ngửa trên hè phố! Thằng bé kêu ối một tiếng và lập tức ngồi bật dậy, tính lao vào tấn công tôi! Nhưng nó chưa kịp hành động gì thì thì bị một cô bé cũng trạc tuổi cản lại với giọng nói rõ ràng, dứt khoát: “Bạn không được đánh nhau! Đó là bài học cho bạn đừng có thấy ai cũng bắt nạt!” Dường như tiếng nói của cô bé có uy lực đặc biệt nên cậu bé kia không nói gì mà chuồn mất tăm!
Nhìn thằng bé đi như chạy về phía Cửa Nam, tôi giật mình khi nghe tiếng cô bé nói: “Hình như bạn lần đầu tới Hà Nội?”. Tôi gật đầu tỏ vẻ đồng ý. Cô bé lại nói: “Hành động vừa rồi của đứa bạn tôi thật là mất lịch sự, tôi thay mặt Người Hà Nội xin lỗi bạn!”. Tôi nói lí nhí: “Không sao!... Không dám!...”. Cô bé lại nói: “Bạn đứng chờ người nhà hay là bị lạc đường?”. Tôi ngạc nhiên trước cách nói năng rất nhẹ nhàng, dịu dàng của cô bé và nói: “Tôi đứng chờ mẹ tôi! Vì tôi chưa đi khỏi chỗ này nên không thể gọi là bị lạc đường được!”. Cô bé bỗng bật cười, tiếng cười như tiếng chuông ngân! Vừa nghĩ như vậy, tôi liền nói với cô bé: “Bạn có tiếng cười rất hay! Tiếng cười như tiếng chuông ngân!...”. Cô bé nhìn tôi bằng ánh mắt lấp lánh như hai hòn bi ve…Tôi lại nói ra ý nghĩ ấy thì cô bé lại cười và nói: “Bạn nói năng như người lớn!... Nếu bạn đồng ý thì tôi sẽ là Người Hà Nội đầu tiên để lại trong bạn ký ức đẹp về Hà Nội: Tôi sẽ dẫn bạn đi dạo vòng quanh Hồ Gươm, ăn Kem ở Nhà Thủy Tạ và tới Nhà Kèn nghe hòa nhạc!...”. Câu nói ấy cứ trở đi trở lại bên tai tôi và quay như đèn kéo quân trước mắt tôi khi chúng tôi đã nghe xong buổi hòa nhạc đặc biệt ở Nhà Kèn!... Đến khi Cô bạn gái dẫn tôi tới địa chỉ mà tôi đoán rằng bố tôi sẽ ở đó là Bệnh viện Đồn Thủy (sau là Bệnh viện Quân đội 108), tôi vẫn chưa kịp hỏi tên và bất cứ một thông tin gì về cô bé!
3.Về Thủ đô lần thứ hai
Tôi đã đi khỏi Hà Nội rồi lại trở về Hà Nội có đến gần trăm lần. Chẳng hạn như thời kỳ tại ngũ đóng quân ở mấy tỉnh xung quanh Hà Nội, thi thoảng lại được các thủ trưởng cho “tranh thủ” về Hà Nội thăm gia đình, họ hàng hoặc “công cán” gì đó cho đơn vị. Hoặc khi học Đại Học phải đi sơ tán ở Hà Bắc, Hà Nam tôi thường xuyên đạp xe đi đi về về mỗi tuần một lần, nhân lên với bốn năm thì không biết là bao nhiêu lần? Khi đi tới các tỉnh phía Bắc tôi đi qua Cửa Bắc, khi đi về phía Nam tôi đi qua Cửa Nam, qua ga Hàng Cỏ rồi xuôi xuống ga Giáp Bát, khi đi về phía Đông, tôi qua cầu Long Biên, khi đi về phía Tây, tôi đi qua Cầu Giấy…Lối đi nào cũng có nhiều điều thú vị, những kỷ niệm khó quên, nhưng vui ít buồn nhiều, không hiểu tại sao?
Lần ấy, tôi đi cùng Trung đội trưởng, làm một cuộc hành trình dài từ Nghệ An ra Hà Nội. Đó là vào thời kỳ cuộc chiến tranh phá hoại của không quân Mỹ đối với miền Bắc rất ác liệt. Đơn vị Ra-đa của tôi lúc đó đang hoạt động ở chiến trường Khu Bốn. Việc tôi được đi cùng Trung đội trưởng về Hà Nội, lúc đó tôi chỉ được biết là: do tôi thông thuộc Hà Nội nên có nhiệm vụ làm người dẫn đường cho Trung đội trưởng, còn Trung đội trưởng ra Hà Nội làm gì thì tôi không được biết vì đó là “Bí mật quân sự”!
Thực ra, tuyến đường mà chúng tôi đi thẳng một mạch từ ga Vinh tới ga Hàng Cỏ là xuống tàu, vào ngay phố phường Hà Nội. Nhưng tôi thích được đi tàu qua cầu Long Biên nên khi tàu tới ga Hàng Cỏ, tôi lôi Trung đội trưởng qua tàu đi Hải Phòng. Lúc đó, Trung đội trưởng đang ngủ gà ngủ gật, không biết mô tê gì, thấy tôi nói phải chuyển tàu thì đi theo mà không hỏi han gì!... Khi con tàu đưa chúng tôi qua cầu Long Biên thì cũng là lúc bình minh hé rạng. Đằng đông, những ngón tay hồng của Nàng Bình Minh đang như mơn trớn trần gian, vạn vật! Nhìn xa xa, dòng sông Hồng uốn lượn như một dải lụa lớn, màu hồng ấm áp, còn hai bên bờ là những vạt ngô đang trổ bắp xanh rờn, như đang nhẹ trôi theo dòng sông!...Một bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp mà không một họa sĩ tài ba nào có thể vẽ nổi!
 Song, khoảng thời gian tuyệt vời đó đã qua mau khi tàu đỗ ở ga Gia Lâm. Lúc đó, nắng vàng đã rực rỡ mà chưa có tàu Hải Phòng – Hà Nội. Chúng tôi đành ngồi đợi trên sân ga. Trung đội trưởng dường như đã tỉnh táo, vươn vai ngáp dài một cái rồi hỏi: “Đang ở ga nào vậy? Sắp tới Hà Nội chưa?” Tôi nói: “Chúng ta đang ở ga Gia Lâm! Gia Lâm là huyện ngoại thành của Hà Nội, chỉ qua cầu Long Biên là vào ngay trong ḷòng Thủ đô!” Trung đội trưởng gắt: “Thôi, đừng dài dòng nữa! Bao giờ mới có tàu vào Thủ đô!” Tôi nói: “Anh hỏi em, em biết hỏi ai? Hình như đầu máy bị hỏng, họ đang sửa, không biết đến bao giờ!” Tôi vừa dứt lời thì tiếng còi báo động vang lên, kèm theo là tiếng nói rất to từ hai cái loa trên sân ga đồng thanh phát ra: “Đồng bào chú ý! Đồng bào chú ý! Máy bay địch cách Hà Nội một trăm cây số về hướng Đông! Các lực lượng phòng không sẵn sàng chiến đấu! Người không có nhiệm vụ xuống ngay hầm trú ẩn!...” Tôi vừa nghe xong câu nói, ngoảnh lại không thấy Trung đội trưởng đâu cả! Tôi ngồi ôm hai cái ba lô con cóc, nhìn lên sân thượng của mấy cái nhà lầu cạnh ga, đã thấy những khẩu súng 12,7 ly và cả súng trường của dân quân hướng nòng về phía Đông, sẵn sàng nhả đạn!... Tôi rất thích cái hình ảnh đặc trưng này của Thủ đô Hà Nội, và cũng có ở các thành phố khác trên Miền Bắc những năm chiến tranh chống Mỹ, bởi mỗi khi có còi báo động máy bay địch như thế, là chúng tôi – những trắc thủ Ra-đa đang phải ngồi trong xe hiện sóng kín mít, và cái tin có máy bay địch kia chính là do những trắc thủ Ra-đa sinh ra!...Tôi đang mơ màng suy nghĩ về một trận bắn máy bay địch ác liệt, nòng súng 12,7 ly của tôi đã đỏ rực thì có ai đó đá vào chân tôi, hỏi: “Tại sao đồng chí không vào hầm trú ẩn?” Tôi ngẩng nhìn, thì ra là một cô nàng nhân viên nhà ga. Tôi nói ngay: “Tôi mới bị thương ở chân, không đi được! Trung đội trưởng của tôi đã đi thay xuất của tôi rồi!” Cô gái bật cười khanh khách rồi nói: “Cái anh lính binh nhất này coi thường mạng sống lại còn hài hước nữa chứ, định rỡn mặt Tử Thần hả? Tôi sẽ dìu anh vào hầm trú ẩn!” Cô gái cầm cánh tay tôi định kéo lên thì tôi nắm lấy cánh tay cô gái, thay vì đứng lên, tôi kéo mạnh, khiến cô gái bị bất ngờ, ngã đè xấp lên người tôi!...
Chúng tôi đang lúng túng trong tình huống bất ngờ thì tiếng còi “Báo an” vang lên, cùng với tiếng nói đều đều, chứ không gấp gáp như lúc báo động, của hai cái loa phóng thanh:” Đồng bào chú ý! Máy bay địch đã đi xa!...Mọi sinh hoạt trở lại bình thường!” Cô gái nhân viên nhà ga đứng được lên thì xấu hổ chạy vút đi!...
Khoảng năm phút sau, trung đội trưởng mới quay lại, lấy ba-lô đeo lên vai rồi nói: “Chúng ta đi ra cầu phao! Chưa có tàu thì đi cầu phao! Ngồi chờ ở đây rất nguy hiểm vì nhà ga là mục tiêu ném bom của máy bay Mỹ!” Tôi nghĩ, không hiểu sao Trung đội trưởng lại “Nhát chết” như thế? Lại còn là người rất thích chải chuốt nữa chứ! Là nông dân vùng chiêm trũng Hà Nam đã năm đời, nhưng trong hai cái túi ngực áo lính của anh ta lúc nào cũng có tới hai cái gương và hai cái lược! Hai cái gương để có thể nhìn được phía sau gáy, còn hai cái lược là để “sơ-cua”, lỡ quên ở đâu mà mất thì có cái dùng thay thế ngay, bởi cứ khoảng mười phút là anh ta phải chải đầu một lần, mỗi lần phải hơn chục nhát lược!...
Chúng tôi đi dọc theo bờ sông Hồng… Những vạt ngô đang kỳ trổ bắp thật là ngoạn mục! Ra tới cầu phao mới biết là ban ngày thì tháo ra năm phao cho thuyền bè đi lại, đến tối mới nối cho xe pháo và người bộ hành qua lại. Chúng tôi chui vào một vạt ngô, trải tấm ni-lông dã chiến ra và ngồi ăn lương khô! Trung đội trưởng ăn xong thì lăn ra ngủ ngon lành, lại còn ngáy nữa chứ! Tôi vốn không thích nằm cạnh người ngủ ngáy nên đứng dậy, tính đi dạo một lúc trên bờ bãi Sông Hồng đẹp như mơ này thì một cô gái bất ngờ xuất hiện ngay trước mặt! Tôi vừa kịp định thần nhận ra chính là cô gái nhân viên nhà ga ban nãy thì cô gái lừ lừ nhìn tôi nói: “Thì ra là anh lính ở trên sân ga!...” Tôi làm điệu bộ chào lễ phép rồi nói: “Thì làm sao ạ? Có phải chúng ta có duyên nợ hay không mà lại gặp nhau nơi phong cảnh hữu tình này?” Cô gái trợn mắt la to: “Duyên nợ cái con khỉ! Anh đừng hòng dở trò ra với tôi lần nữa! Cuốn gói đi ngay chỗ khác để tôi chăm sóc bãi ngô của tôi!” Tôi cũng lấy giọng nghiêm nghị đáp lại: “Chúng tôi, chiến sỹ lực lượng Phòng không – Không quân đang trên đường làm nhiệm vụ, không ai được gây trở ngại! Tôi đề nghị được người dân hỗ trợ, giúp đỡ, cho chúng tôi nằm ngủ trên vạt ngô chờ nối cầu phao!” Cô gái khẽ nhếch mép cười, liếc nhìn Trung đội trưởng đang ngủ ngon lành, rồi hạ giọng: “Thôi được, cho các nghỉ nhưng phải chuyển cho tôi thư và quà tới bố của tôi đang chiến đấu ở chiến trường Khu 4 ác liệt, tên là Trần Đình Hợi, hòm thư X”. Nghe xong tên và hòm thư của bố cô gái, tôi reo lên: “Trời!...Đó là Thủ trưởng Trung đoàn của tôi! Ông thường xuống đơn vị tôi mỗi khi đơn vị có nhiệm vụ đặc biệt!” Cô gái còn tỏ vẻ bất ngờ hơn tôi và thế là chúng tôi trở nên thân mật như…cá với nước! Cô gái nói đã ba năm bố cô chưa về thăm nhà, cô rất muốn gặp bố mà không biết làm sao! Tôi nhận lời chuyển thư và quà cho bố cô, cô liền chạy về nhà, chỉ mười phút sau đã quay lại, thì ra nhà cô gần đó và cô đã chuẩn bị từ trước! Nhìn tên cô gái trên phong thư “Trần Thị Ga” tôi thoáng nghĩ, chắc là cô gái đẻ rơi trên sân ga! Khi hỏi chuyện thì quả nhiên là như vậy! Thấy tôi giỏi “đoán mò”, Ga nói: “Anh có biết xem tướng không? Em sẽ lấy chồng làm gì và bao giờ thì cưới?” Tôi làm bộ lẩm nhẩm bẩm đốt ngón tay rồi nói: “Cô có tướng vượng phu ích tử, chồng cô sẽ là người tài và thành đạt. Có lẽ chỉ hai năm nữa là cô sẽ lên kiệu hoa lấy được chồng như ý!”…Tôi vừa ngừng lời thì Trung đội trưởng ngồi bật dậy, nói: “Ai đã phá giấc ngủ của ta, sẽ bị phạt!...À, thì ra là anh chàng Binh nhất láu tôm láu cá! Đi mua ngay cho ta một chai rượu!” Tôi đã quen với “cái vụ sai vặt” nên chạy đi ngay!
Tôi đi dạo một vòng phố xá thị trấn Gia Lâm, ăn một bát phở gà thơm phức rồi mới xách chai rượu trở về ruộng ngô cho Trung đội trưởng, nếu tính thời gian thì phải gần một giờ đồng hồ. Về tới nơi, tưởng rằng sẽ được nghe Trung đội trưởng kể lại “chiến tích chinh phục người đẹp” ai ngờ thấy Trung đội trưởng hai tay ôm “hạ bộ” đang rên i ỉ!... 
Đến tối, cầu phao vẫn chưa được nối, hỏi ra mới biết có hai cái phao cầu do không neo buộc kỹ đã bị nước cuốn trôi mất tiêu! Người ta đang khắc phục sự cố! Trung đội trưởng sốt ruột nói: “Chờ cả ngày, giờ lại chờ cả đêm thì biết đến bao giờ? Cậu đi hỏi xem có thuyền nào nhận chở ta qua sông không?” Tôi liền đi hỏi những người dân xung quanh thì họ đều nói, hôm nay có lũ ở thượng nguồn, nước sông dâng cao và chảy xiết, không ai muốn mạo hiểm cả. Tôi bèn nghĩ bụng, mình chưa bao giờ đứng trước sự nguy hiểm thực sự, vậy lần này thử xem sao? Không đả động gì đến chuyện nước lũ kéo về, nước sông chảy siết và dâng cao, tôi nói với Trung đội trưởng: “Không có thuyền nào nhận chở người ban đêm. Tôi thấy chúng ta có thể bơi qua sông!” Trung đội trưởng tròn mắt, nói: “Bơi qua sông? Cậu có điên không đấy?” Tôi bình thản nói: “Lúc nước cạn, cát nổi lên giữa dòng sông, chúng tôi còn ra đá bóng vui lắm! Chúng ta sẽ bơi qua sông ở chỗ có cát nổi lên đó!...Chúng ta đã cùng bơi vượt sông La ở Đức Thọ (Hà Tĩnh), rồi sông Lam ở Nam Đàn (Nghệ An), rồi sông Gianh ở Quảng Bình, chẳng lẽ lại sợ Sông Hồng của Hà Nội, như thế thì làm sao mà dám ngẩng mặt nói chuyện với Người Hà Nội? Anh có biết hồi tôi mới học lớp Một, nhà ở Quân Y viện 103, chỉ vì tôi bơi vượt qua sông Nhuệ mà đám trẻ con trong vùng gặp tôi là cúi rạp chào Đại ca đấy!” Hình như lời “khích tướng” của tôi có tác dụng tức thì, Trung đội trưởng và tôi đi ra ngay bờ sông, cởi quần áo cho vào ba-lô rồi lấy tấm vải ni-lông buộc túm lại thành một bọc lớn, đó sẽ là cái phao cho chúng tôi vượt sông. Khi chúng tôi, chỉ mặc cái quần đùi, vác bọc đồ ni-lông trên vai, bước xuống sông, trông không khác gì đặc công thủy xuất quân! Khi nước tới rốn, tôi quay lại thì thấy Trung đội trưởng vẫn đang ở chỗ nước tới đầu gối! Thấy tôi nhìn lại, Trung đội trưởng xốc lại bọc đồ trên vai rồi bước tới! Nghĩ tới câu thành ngữ “Khi nước đã tới rốn thì cho ngập luôn”, tôi nhào ra giữa dòng nước…
4.Về Thủ đô lần thứ ba
Sau lần tôi và trung đội trưởng bơi vượt sông Hồng thành công, mọi việc dường như xảy ra rất tốt đẹp khiến Trung đội trưởng lại đề nghị cho tôi được đi cùng ra Hà Nội lần nữa, chỉ cách lần trước ba tháng. Lúc tàu dừng ở ga Hàng Cỏ (Ga Hà Nội), Trung đội trưởng mới nói với tôi: “Tớ cho cậu đi “Tranh thủ” lần này là để thưởng công cho cậu đã góp phần vào kết quả rất tốt đẹp của chuyến đi lần trước: Bộ Tư Lệnh Binh chủng đã quyết định điều tớ ra Phòng Tham mưu, từ Thiếu úy phong vượt cấp lên Thượng úy. Cứ cái đà này, chẳng mấy chốc mà lên tá, rồi lên tướng là cái chắc! Vì thế, tớ sẽ vào thẳng Bộ Tư Lệnh. Còn cậu, có thể tới nhà người quen hoặc về gia đình ở Hải Phòng tùy ý! Chủ nhật tới, nếu rảnh thì vào BTL kêu tớ, chúng ta lại đi dạo Hồ Gươm rồi ăn kem Nhà Thủy Tạ, sau đó đi bơi thuyền Hồ Tây!... Nhưng đừng dắt tớ vào mấy chỗ Thư viện Quốc Gia, Bảo Tàng Mỹ thuật hay Văn Miếu gì đó nữa nhé!...Mấy chỗ đó chẳng có gì thú vị cả!...”
Không biết Trung đội trưởng còn nói gì nữa hay không mà tôi thì bàng hoàng, sửng sốt và “Chết đứng như Từ Hải” bởi, thì ra Trung đội trưởng đang thực hiện một âm mưu “chạy chọt” để được ra Hà Nội, như ngoài đời dân sự thường xảy ra! Tôi ngạc nhiên bởi không nghĩ một người lính thời chiến, một sĩ quan – đảng viên – tấm gương cho bọn lính tráng chúng tôi noi theo hàng ngày, lại có hành động “đào ngũ” một cách tinh vi đến như thế! Tôi chỉ ước mình có được đôi cánh để bay trở vào đơn vị, lúc này đơn vị đang ở Nghi Lộc, Đô Lương (Nghệ An) hay Can Lộc, Đức Thọ (Hà Tĩnh)? Khi tôi kịp định thần thì không thấy Trung đội trưởng đâu nữa mà mấy người xích lô xúm vào lôi lôi, kéo kéo! Đúng lúc tâm trạng hỗn độn như vậy, tôi vụt nhớ đến cái lần về Hà Nội đầu tiên, gặp em ở đầu phố Tràng Thi!... Tôi liền nói với người xích lô chở tôi tới đầu phố Tràng Thi. Khi tôi và người xích lô đang cò cưa về tiền công chở tôi từ Ga về thì một cô gái xuất hiện, như một Nàng Tiên, chợt hóa thành cái cô gái bé nhỏ mà tôi đã gặp 14 năm trước!...Thật khó mà tin được đó lại là sự thật: đó chính là cô bé đã gặp tôi ở chính chỗ này khi tôi tới Hà Nội lần đầu 14 năm trước! Chỉ nhìn tôi khoảng một hay hai phút, cô gái nói: “Anh chính là cậu bé tôi đã gặp 14 năm trước ở đây!...”.
Giải quyết xong “vụ xích lô”, cô gái mời tôi vào nhà, chỉ cách “điểm dừng lịch sử” vài bước chân. “Em đã nằm mơ thấy người bạn bé nhỏ là anh của 14 năm trước hoài! Đêm qua cũng vậy, còn thấy rất rõ ràng là sẽ gặp lại ở chính chỗ này! Vì thế, suốt ngày hôm nay, em cứ ngóng nhìn ra đây và quả nhiên đã “tóm” được anh!...Em đã là cô giáo, còn anh chỉ là một anh lính Binh Nhất, vì thế anh phải nghe theo sự sắp đặt của em!...” – cô gái nói một tràng mà tôi nghe như là cô đang hát những liên khúc dài bất tận, bởi khi cô ngừng nói – thì tôi đã thấy mình đã tắm rửa sạch sẽ, ngồi bên một mâm cơm hương thơm ngào ngạt!... Hương, tên cô gái, ngồi tiếp tôi ăn cơm và kể cho tôi nghe biết bao nhiêu chuyện. Thì ra, Hương cùng tuổi với tôi, là người Hà Nội đã ba đời, cha mẹ đều là nhà giáo từ thời Pháp thuộc, hiện vẫn còn dạy ở trường Chu Văn An. Hết lớp 10, Hương học ở Trường Sư Phạm 10+3 rồi dạy cấp 2 ở ngoại thành…
Hôm sau, Hương dẫn tôi tới những chỗ lần đầu tiên tôi đến Hà Nội, Hương đã dẫn tôi tới: Hồ Hoàn Kiếm, rồi vào nhà Hàng Thủy Tạ, rồi Nhà Kèn, v.v.…
Ở nhà Hương một ngày, tôi qua cầu Long Biên tới Ga Gia Lâm tìm cô gái có tên Ga để báo tin rằng bố cô đã hy sinh. Nhưng khi tới Ga thì chỉ gặp mẹ cô, cũng làm việc ở Ga. Bà nói cô đã tình nguyện vào chiến trường chiến đấu, sau khi gia đình nhận được giấy báo tử!
Khi người ta không giải thích được nhiều nỗi buồn cùng đến một lúc thì người ta thường trở về với cái nơi người ta đang sống. Vì thế, tôi chỉ ở lại Hà Nội thêm một ngày, đi lang thang khắp nơi, rồi trở về đơn vị…Hương tiễn tôi ra ga, khi gần chia tay, Hương nói: “Nếu chúng ta có duyên thì chỉ một, hai năm nữa là sẽ gặp lại. Ông bố mình rất giỏi xem tướng, nhìn tướng bạn, ông bảo chỉ hai năm nữa là bạn sẽ trở lại con đường học hành mà thôi!” Nghe Hương nói vậy, tôi nghĩ là cô nói đùa cho vui, ai ngờ đúng hai năm sau, tôi trở lại trường cũ thật. Nghĩ tới lời nói của Hương khi chia tay, tôi tới phố Tràng Thi tìm Hương, nhưng thấy cửa nhà đóng khóa im ỉm. Người hàng xóm cho biết Hương đã đi lấy chồng được một tháng!...
*
Được trở lại học, đó là điều không phải dễ dàng, vì thế tôi lấy đó làm vui và quyết “Làm lại từ đầu”. Tuy nhiên, cũng có lúc buồn chán, tôi thường thả bộ dọc con đường Nguyễn Trãi trước cổng trường (là Khu Thượng Đình – đối diện nhà máy Cao-Xà-Lá Hà Nội)… Một hôm, đi mãi, qua Ngã Tư Sở thì tôi rẽ vào đường Sân Bay từ lúc nào không hay! Đây là con đường dẫn vào Bộ Tư Lệnh Binh chủng Ra-đa, có những ngôi nhà mới xây rất đẹp, hình như đang cùng nhau “ăn tân gia”. Và thật bất ngờ, đứng ở trước cổng một ngôi nhà hoành tráng đó là cô gái Hương Tràng Thi và bên cạnh là một viên sĩ quan đeo lon Thiếu Tá, và tôi không thể gọi một cái tên khác mà phải thốt lên: “Trung đội Trưởng của tôi!”.
Sài Gòn, 2008-2009
Đỗ Ngọc Thạch
**
QUANH HỒ GƯƠM
Truyện ngắn của Đỗ Ngọc Thạch
“Quanh Hồ Gươm không ai bàn chuyện Vua Lê…”, biết là như thế, vậy mà khi đi dạo quanh Hồ Gươm, thấy có ai đang nói chuyện với nhau, tôi cũng đi sát họ và dỏng tai nghe xem họ có bàn chuyện Vua Lê hay không? Đó là thói quen thứ nhất và không hề mất đi của tôi.
Thói quen thứ hai là đã đến Hồ Gươm thì động tác đầu tiên là ngó nhìn xuống mặt hồ xem Rùa có nổi lên hay không? Nếu có thì reo lên rồi chỉ chỏ kêu người đứng gần tới xem, còn nếu không có thì chốc chốc lại ngó xuống mặt hồ tìm kiếm. Thói quen này cũng không hề mất đi.
Thói quen thứ ba là đã đến Hồ Gươm thì thế nào cũng phải ăn kem Bờ Hồ, bất kể mùa hè hay mùa Đông. Cụm từ “Kem Bờ Hồ” để nói về hai vị trí: Kem que bán ở cái Ki-ốt nằm trên bãi đất trống ở góc có hai đường cắt nhau là đường Lý Thái Tổ và đường Tràng Tiền và Kem Cốc (Ly) bán ở trong Nhà Thủy Tạ. Tôi xin đưa ra nhận xét về Kem Bờ Hồ rằng: Tính từ năm 1954 (năm tôi về sống ở Hà Nội) trở lại đây, chất lượng ngày càng kém đi. Mỗi lần từ phương xa trở về Hà Nội, tôi đều đến Bờ Hồ ăn Kem và đều phải nuối tiếc cái cảm giác tuyệt vời khi “ăn Mùa Đông” đã bị mất dần độ khoái cảm!... 

Lúc còn nhỏ, việc đi chơi Hồ Gươm là một việc quan trọng, phải được bố trí, sắp xếp trước bởi nhà tôi ở khá xa Hồ Gươm, và lúc đó, đi dạo công viên hoặc đi dạo Hồ Gươm là hình thức giải trí “Cao cấp” của tầng lớp “Quý tộc” hoặc giới ăn trắng mặc trơn nhàn hạ. Tuy nhiên, ngày Chủ Nhật, ngày Lễ, Tết thế nào anh chị em chúng tôi cũng làm một chuyến đi chơi Bờ Hồ. Đối với trẻ con lúc ấy (cuối những năm 1950), Bờ Hồ còn có món đặc sản rất hấp dẫn nữa là “Thịt Bò khô”, bán trên cái tủ cơ động của mấy người Việt gốc Hoa, thường tụ tập ở gần bến Xe Điện Bờ Hồ… 

Không hiểu tôi có cơ duyên gì với Hồ Gươm mà có tới ba lần sống gần Hồ Gươm và Hồ Gươm trở thành một phần quan trọng trong Ký ức của tôi về Hà Nội… 

Lần thứ nhất là vào tháng 8 năm 1966, tôi có giấy gọi vào Khoa Toán trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, (lúc đó đã sơ tán về tận huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên) nhưng vì bố tôi muốn tôi vào Trường Đại học Y Dược Hà Nội, tôi lại không nghe theo nên ông đã giận mà xé giấy gọi của tôi đi, đồng thời không cấp “Lộ phí” cho tôi đi Thái Nguyên! Không còn cách nào khác, tôi phải đi làm thuê kiếm tiền và rất may cho tôi, sau khi làm một giấc ngủ ngon lành trên băng ghế đá ở góc Bờ Hồ, đối diện nhà hàng Phú Gia ở bên kia đường Lý Thái Tổ, tôi tính vào nhà hàng này làm một bữa no cho biết mùi “Nhà giàu” (Phú Gia) thì thấy một bà già đi bộ bị một người đi xe mô-by-lét (xe máy tay ga loại nhẹ khá phổ biến ở Hà Nội lúc đó) quệt phải người, ngã lăn quay giữa đường, tôi liền đỡ bà cụ dậy và đi về phía nhà hàng Phú Gia. Vừa tới trước cửa nhà hàng Phú Gia thì có một người đàn ông trung niên đi từ trong nhà hàng ra, nhìn thấy tôi dìu bà cụ tới thì giật mình ào tới, hỏi han rối rít…Thì ra ông ta là đầu bếp trong nhà hàng Phú Gia, sau khi biết rõ tình cảnh và nguyện vọng của tôi, đã cho tôi vào làm phụ bếp và tôi cũng xin được ngủ đêm tại Nhà hàng.
Lần thứ hai là khi tôi còn đang học tại Khoa Toán ĐHTH (lần thứ hai, sau khi đi lính về), tôi thường về nhà người bạn ăn ngủ, ở ngay đầu phố Cầu Gỗ, đối diện bến xe điện Bờ Hồ.
Lần thứ ba là khi tôi làm việc (và ăn ngủ tại phòng làm việc) tại Viện Văn học, ở phố Lê Thái Tổ, không sát Hồ Gươm nhưng cũng chỉ bước vài bước qua phố Hàng Dầu là tới Hồ Gươm.
Truyện ngắn Quanh Hồ Gươm này chủ yếu nói về ba lần sống bên Hồ Gươm đó!...
2.
Từ lúc được sinh ra đời, tôi chưa bao giờ nghĩ đến cái Chết (mặc dù đã phải đối mặt với không ít hiểm nguy), cho nên tôi thực sự ngạc nhiên khi thấy có người tự t́m đến cái Chết (tự tử) và không hiểu tại sao họ lại muốn chết? Một buổi chiều bình lặng, khoảng bốn, năm giờ, tôi vừa đi dạo một vòng quanh Hồ Gươm, tính vào cầu Thê Húc ngắm cảnh hoàng hôn quanh hồ, vừa đặt chân lên cầu thì thấy ở giữa cầu, có một người vừa nhảy xuống hồ. Tôi chạy lại, ngó xuống thì thấy đó là một người đàn bà, đầu còn ló trên mặt nước, hai tay đập nước loạn xạ! Tôi liền nhảy xuống, tóm tóc người đàn bà lôi vào bờ!...Thì ra chị ta chính là phục vụ bàn của nhà hàng Phú Gia, nơi tôi đang làm phụ bếp! Khi nhận ra tôi, chị ta nói: “Chú cứu tôi làm gì! Tôi đã bị lừa, bị cướp đi cái quý giá nhất của người con gái, còn sống làm gì nữa?” Tôi bảo: “Chị bị lây bệnh thất tình của các tiểu thư đài các trong tiểu thuyết ái tình rồi! Không có cái gì quý giá bằng sinh mạng! Chị hãy quên “chuyện lừa đảo” ấy đi, nó cũng chỉ như người ta bị mất trộm mà thôi! Nếu có bản lĩnh thì nghĩ cách báo thù, cho kẻ Sở Khanh kia một bài học là xong! Đó là cách nghĩ của người lao động chúng ta!”. Chị ta suy nghĩ một lúc thì thở dài rồi nói: “Cậu còn trẻ tuổi mà sao nghĩ sự đời rành mạch quá, tôi sẽ nghe theo cậu! Nhưng tôi phải nhờ cậu bày cho một mưu kế để trả thù thằng cha Sở Khanh kia, hắn thường đến ăn ở nhà hàng Phú Gia đó!”…Tôi liền bày cho chị ta một mẹo nhỏ trong “Tam thập lục kế”. Ba ngày sau, chị phục vụ bàn gặp tôi nói: “Mẹo của anh hay quá, nhưng liều thuốc mê tôi cho vào ly rượu của hắn lại lấy nhầm gói thuốc độc, nên hắn đã chết luôn rồi! Bây giờ phải làm sao?” Tôi nói ngay: “Thì kéo hắn ra khỏi cái buồng Thuyền trưởng rồi thả xuống sông nhờ Long Vương phán xử!” (gã Sở Khanh Kia là Thuyền trưởng một con tàu vận tải đường sông). Thời gian cứ bình thản trôi đi mà không thấy chị phục vụ bàn nói gì, chắc không ai điều tra về cái chết của gã Thuyền trưởng vì điều tra làm sao khi trong phòng Thuyền trưởng của gã có rất nhiều dấu vết và hiện vật của rất nhiều cô gái khác nhau và điều đặc biệt là người ta còn tìm thấy trong một cái thùng giấy các-tông có tới ba chục bộ đồ lót của ba chục cô gái khác nhau!...Thì ra gã Thuyền trưởng là một “Yêu râu Xanh” đã làm hại đời biết bao cô gái dại dột! Lão ta chết cũng đáng đời!... 

Một tuần sau nữa, chị phục vụ bàn cưới chồng, chồng là cửa hàng trưởng một cửa hàng ăn uống khác, thường qua lại Phú Gia. Sau khi giới thiệu tôi là ân nhân cứu mạng trong vụ nhảy cầu Thê Húc, người chồng liền đưa tôi một món tiền lớn gọi là ủng hộ “Sinh viên nghèo” làm lộ phí lên Đại Từ, Thái Nguyên nhập học!...”. Tôi cảm tạ vô cùng vì tính ra cho đến lúc đó, tôi làm phụ bếp ở nhà hàng Phú Gia đã gần một tháng mà vẫn chưa để dành được đồng nào vì cứ mỗi tuần lĩnh tiền xong, tôi lại vào Nhà Sách Tràng Tiền và mê mẩn thế nào mà mua sách hết số tiền công mới được nhận!...
3.
Trong thời gian ở nhà anh bạn ở phố Cầu Gỗ (gọi là phố Cầu Gỗ nhưng tôi chẳng thấy có cái cầu bằng gỗ nào?), tôi cũng thường xuyên đi dạo quanh Hồ Gươm và cũng thường lên cầu Thê Húc bởi mỗi khi tới cầu Thê Húc là lại nhớ đến vụ nhảy cầu năm xưa của chị phục vụ bàn nhà hàng Phú Gia. Hôm ấy, tôi vừa đặt chân lên cầu Thê Húc thì hệt như cái hồi năm 1966, tôi vụt thấy ở giữa cầu có người vừa nhảy xuống hồ! Tôi lại nhảy xuống và tóm tóc nạn nhân lôi vào bờ. Và tôi thật sự kinh ngạc khi nạn nhân lại chính là người phụ nữ đã nhảy cầu năm năm trước, tức chính là chị phục vụ bàn nhà hàng Phú Gia ngày xưa!... Chị ta cũng kinh ngạc khi nhận ra tôi rồi òa khóc, hồi lâu mới nói: “Chồng tôi bây giờ nó có nhân tình trẻ đẹp, nó không còn ngó ngàng gì đến vợ con nữa! Vậy thì tôi sống mà làm gì? Mà tại sao lại là anh? Anh cứu tôi mà làm gì?” Tôi nói: “Sao chị cũng không đi kiếm nhân tình giống như ông ấy? Chị không thể chịu thua ông ấy được, chị không biết câu “Ông ăn chả bà ăn nem” sao? Việc gì mà lại dại dột đi tìm cái chết?” Chị ta nghe nói vậy thì như là bừng tỉnh sau cơn mê ngủ, sau đó sửa sang lại nhan sắc, để trái tim hòa cùng nhịp sống! Chẳng mấy chốc ong bướm lượn lờ quanh mình, chỉ quờ tay ra là bắt được nhân tình, nhân ngãi! Từ đó mải mê với những cuộc tình gió trăng, chị ta quên luôn chuyện người chồng phụ bạc!... 

Người bạn tôi ở Cầu Gỗ cũng đi lính với tôi một đợt năm 1966, học ở Khoa Lý, lại trúng tuyển vào Không quân, được sang Liên Xô học lái máy bay nhưng sau đó do sức khỏe có vấn đề nên lại trở về trường cùng một đợt với tôi, lại học ở khoa Lý. Người bạn này rất quan tâm đến cuộc sống của bạn bè và thường khuyên tôi nên cưới vợ cho ổn định cuộc sống. Một hôm, anh dẫn tôi đến nhà một người quen, trên đường đi, anh nói: “Tôi có người bà con họ hàng xa, đã một đời chồng, hiện sống với cô con gái bốn tuổi, nhà cửa đàng hoàng, làm việc ở một cửa hàng ăn uống, không lo đói! Tôi đã nói chuyện về ông với chị ta, cơ bản là xong rồi, chỉ còn ở phần của ông nữa mà thôi!”. Nhưng khi chúng tôi tới nhà người họ hàng của anh bạn thì người ở trong nhà là chủ nhà mới, người này nói chị chủ nhà cũ (tức người bà con với anh bạn tôi) đã bán nhà cho anh ta được ba ngày nay và hình như đã vào Sài Gòn rồi! Anh bạn tôi nghe nói vậy thì lẩm bẩm: “Đúng là cuộc sống luôn vận động nhanh và mạnh hơn ta nghĩ!” Còn tôi thì sực nhớ ra rằng cách đây một tháng, tôi đã đưa chị phục vụ bàn ở chân cầu Thê Húc về chính ngôi nhà này. Thì ra người bà con họ hàng xa mà anh bạn tôi định giới thiệu cho tôi lại chính là người đã hai lần nhảy cầu Thê Húc để tìm cái chết! Lần này chị ta đi vào phương Nam xa xôi ngập nắng, chắc sẽ là điều tốt bởi từ lâu chị ta thường hay nói câu: “Tôi muốn đi thật xa, đến một nơi nào đó không biết tôi là ai, tôi sẽ làm lại từ đầu!”. Tôi thường nghe câu nói này ở khá nhiều người và tôi luôn nghĩ, sao người ta không “làm lại từ đầu” ở ngay nơi đã sống, đã quen thuộc?
4.
Tám năm sau, tôi về làm việc ở Viện Văn học, ăn ngủ ngay trong phòng làm việc ở 20 Lê Thái Tổ, coi như cũng là ở cạnh Hồ Gươm. Ngày nào tôi cũng đi dạo quanh Hồ Gươm ít nhất là ba lần: sáng chạy bộ quanh Hồ Gươm hai vòng, trưa đi tới Thư viện Quốc Gia ở phố Tràng Tiền cũng phải qua Hồ Gươm và khoảng Mười giờ đêm thường đi dạo quanh Hồ Gươm vì đọc sách và viết bài gì đó xong thì… đói! 

Có lẽ thời gian từ nửa đêm về sáng ở quanh Bờ Hồ là có nhiều chuyện nhất với đủ các sắc thái tình cảm khác nhau. Ở đây, tôi chỉ rút ra hai, ba chuyện có liên quan tới đề tài của Truyện ngắn này!
Một hôm, như mọi ngày, tôi vừa viết xong một bài tiểu luận bắt buộc thì đã mười một giờ đêm. Bụng đói cồn cào, tôi liền tới Phở Thìn tự thưởng cho mình một tô đặc biệt. Ăn được nửa tô thì có một người thiếu phụ khoảng hơn năm chục tuổi bước vào, ngồi xuống bàn cạnh bàn tôi. Bà ta lặng lẽ ăn phở, bình tĩnh, thong thả … Khi ăn xong tô phở, tôi nhìn lại người thiếu phụ và bỗng nhận ra bà ta chính là người đã hai lần nhảy từ cầu Thê Húc xuống Hồ mà tôi đã nói trên. Tôi định hỏi chuyện bà ta nhưng lại nghĩ, “Trời đánh còn tránh miếng ăn”, người ta đang ăn không nên làm phiền và lỡ ra nhận lầm người thì sao? Tôi liền ra khỏi quán phở và đi về phía cầu Thê Húc. Không có ai trên cầu. Tôi đi vào cầu và khi tới giữ cầu thì ngồi xuống, dựa lưng vào thành cầu. Gió nhẹ thổi, không khí mát lạnh khiến cho tôi có cảm giác buồn ngủ và cái ngủ ập tới từ lúc nào!...
Tôi đang mơ màng với những ý nghĩ và hình ảnh lộn xộn thì nghe có tiếng nói rì rầm: “Có ai đang ngồi trên cầu thế này? Đúng chỗ của chúng ta!”, “Đệ tử Cái Bang chứ còn ai nữa! Mặc kệ người ta! Chúng ta tiến hành đi!”, “Nào, ba chúng ta cầm chặt tay nhau. Đào nói trước đi!”, “Thưa Thần Rùa, em là Hoa Đào, 18 tuổi, nguyên học sinh lớp 12A1, vì thi trượt Đại học mà bị bố mắng nhiếc thậm tệ rồi đuổi khỏi nhà! Em xin xuống làm nô tỳ cho Phu nhân Thần Rùa!”, “Thưa Thần Rùa, em là Hoa Cúc, 18 tuổi, nguyên học sinh lớp 12A1, bị bạn trai bỏ rơi rồi lại bị thầy giáo Chủ nhiệm cưỡng bức, có thai đã ba tháng! Em xin xuống làm nô tỳ cho Phu nhân Thần Rùa!”, “Thưa Thần Rùa, em là Hoa Lan, 18 tuổi, nguyên học sinh lớp 12A1, em không thể học được vì khó quá, mà bố mẹ cứ bắt em học. Em bỏ nhà đi hoang nhưng đi hoang thì đói và rét, lại không có chỗ ngủ. Vậy em xin xuống làm nô tỳ cho Phu nhân Thần Rùa!”. Tôi nghe các cô bé nói khá rõ nhưng muốn mở mắt ra nhìn mà không được, muốn đứng dậy mà đôi chân như không phải của mình! Tôi thoáng nghĩ, đây hẳn là một vụ tự tử tập thể, vậy phải ngăn lại ngay! Tôi định la to “Dừng lại!” nhưng mồm lưỡi cũng như là không điều khiển được! Rồi có tiếng “ùm” rất lớn và nước từ dưới hồ văng lên người tôi như một cơn mưa bóng mây! Vừa ngớt “cơn mưa bóng mây”, mắt tôi mở ra được và nhìn rõ mọi vật xung quanh thì thấy người thiếu phụ ở quán Phở Thìn ban nãy xuất hiện và nói: “Chào cậu! Cậu bị “Đóng băng” rồi, chỉ nghe chứ không cử động gì được! Từ trong quán Phở Thìn, tôi đã nhận ra cậu, những tưởng cậu sẽ lại ngăn cản tôi xuống Thủy Cung, nhưng lần này thì cậu bị “Đóng băng”, chẳng thể làm gì được đâu! Cậu muốn biết tại sao tôi lại muốn chết chứ gì? Bởi vì thằng “Bồ” của tôi nó thật táng tận lương tâm, sau khi “no xôi chán chè”, nó bán cả hai mẹ con tôi cho một “ổ Nhện” ở tận bên Campuchia! Nói sao hết nỗi tủi nhục ê chề, con gái tôi đã mất tích! Tôi không thể bỏ xác nơi đất khách quê người được, tôi phải trở về lòng Hồ Gươm, nơi có người mẹ trẻ của tôi đã an nghỉ từ thế kỷ trước!” Tôi thoáng nghĩ, thì ra người mẹ của bà ta cũng đã trầm mình nơi đây, hèn chi cứ gọi con gái hoài! Tôi định nói lời từ biệt với người thiếu phụ nhưng bà ta đã nhảy xuống hồ từ lúc nào, nước hồ lại văng lên người tôi như cơn mưa bóng mây!
*
Mười năm sau, tôi mới có dịp trở lại Hà Nội sau những năm dài phiêu bạt giang hồ. Đêm hôm ấy, tôi ra Hồ Gươm và vừa đặt chân lên cầu Thê Húc thì thấy một thiếu nữ chưa tới tuổi đôi mươi đang đứng khóc giữa cầu. Cô gái vừa khóc vừa nói nên nghe không rõ lắm, khi tôi lại gần mới nghe được rõ đoạn cuối: “…Mẹ ơi, con chưa thể xuống với mẹ được vì chưa tìm thấy kẻ thù của mẹ con mình! Con xin hứa là sẽ tìm bằng được dù nó có phép thăng thiên, độn thổ hay tàng hình!...Mẹ hãy phù hộ cho con, mẹ ơi!...”. Tôi đi sát tới cô gái thì giật mình kinh ngạc vì cô ta giống người thiếu phụ đã ba lần nhảy xuống hồ từ cầu Thê Húc như hai giọt nước!
Sài Gòn, tháng 11-2009
Đỗ Ngọc Thạch
nguồn: bichkhe.org
NHẬT KÝ CỦA SIÊU NGƯỜI MẪU CHÂN DÀI 


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét