Tiểu luận | ||||||||
Đọc “Tiểu Luận” Của Lê Đạt- 1 Đỗ Ngọc Thạch | ||||||||
Lê Đạt (1) có hai tập tiểu luận, đoản ngôn (Theo Lê Đạt, “Đoản ngôn” là một hình thức suy nghĩ ngắn gọn về nghệ thuật và cách ứng xử trong cuộc đời. Thể thơ đoản ngôn này thoải mái hơn thể thơ hai-kâu vì nó viết theo kiểu thơ văn xuôi) được xuất bản liên tục trong hai năm liền là Đối thoại với đời và thơ (NXB Trẻ, 2008) và Đường Chữ (NXB Hội Nhà Văn, 2009; 644 trang). Hơn hai tháng sau khi qua đời, bạn bè Lê Đạt đã tập hợp những bài viết, phát biểu của ông về thơ và về chuyện đời, chuyện người trên các tờ báo lớn trong nước, in trong tập sách Đối thoại với đời và thơ. Cuốn sách gồm 5 chương: Dân chủ và vốn xã hội; Về văn hóa và tính cách Việt; Khoa học và nghệ thuật, Nghĩ về thơ và cuối cùng là Đoản ngôn. Trong phần phụ lục của sách, độc giả có thể tiếp cận những bài viết xúc động của bạn văn, thơ dành cho ông, trong đó có cả bức thư cảm động cô con gái Đào Phương Liên gửi cho bố mình trước khi tiễn ông đến nơi an nghỉ cuối cùng. Phần phụ lục còn cung cấp nhiều hình ảnh của Lê Đạt và bạn bè. Sau “Đối thoại với đời và thơ”, “Đường chữ” (một sự “tập hợp chữ” khá đồ sộ: 650 trang in) là cuốn sách thứ hai của Lê Đạt được xuất bản kể từ khi nhà thơ “phu chữ” qua đời. Đường Chữ của Lê Đạt gồm có 4 phần: Thơ, Di cảo, Đoản ngôn và Tiểu luận. Đọc Đường chữ, ta thấy lịch sử một đời người giữa thăng trầm của dân tộc, và cuộc kiếm tìm không mỏi của một “phu chữ” trong rừng chữ nghĩa. Trong số những nhà thơ cùng thời, cùng nhóm “Nhân văn-Giai phẩm”, Lê Đạt là một phong cách độc đáo, một “nhân - cách - thơ” rất…Lê Đạt, Một-Người-Thơ “ngây ngô không biết lối về già”:
Đường chữ. * Trước hết, xin nói về những bài viết của bạn bè về Lê Đạt. Phải nói ngay rằng, với những người “ngây ngô” như Lê Đạt, nếu không có sự nhiệt tình của bạn bè, Lê Đạt không thể đến được với bạn đọc như hôm nay: trước hết là những bài giới thiệu Lê Đạt trên các báo chí (thường là Phỏng vấn, trò chuyện…) và sau là thu gom bản thảo, bút tích của Lê Đạt để in thành sách… Nhìn chung, những bài viết của bạn bè về Lê Đạt đều gặp nhau ở nhận định: Lê Đạt đã vượt qua “đại nạn” NV-GP theo cách của riêng anh, để trở nên một Lê Đạt như chúng ta biết, rất ít nói và rất khiêm nhường, rất súc tích cả trong lối sống lẫn trong phát ngôn. Có được như vậy bởi Lê Đạt rất từng trải, và theo Nguyên Ngọc (2) thì chỉ những người thật từng trải qua trầm luân đắng cay lắm mới có được, thâm trầm và nhân hậu trong cuộc sống, sâu sắc và uyên thâm trong tri thức, chín chắn mà mới mẻ, luôn mới mẻ và dồi dào đến lạ trong sáng tạo. Như một Người Hiền. Nói Lê Đạt là Người Hiền thật chính xác bởi Lê Đạt là người có ý thức sâu sắc, rõ rệt hơn cả về con đường đi của mình, cũng là con đường đi của người trí thức, người nghệ sĩ chân chính trong những điều kiện khắc nghiệt của chuyển động lịch sử và xã hội đầy éo le của đất nước thời mình sống. Và Lê Đạt hiểu điều đó vừa bằng một tâm hồn và một tài năng nghệ sĩ lớn, vừa bằng một tri thức lớn về văn hóa văn minh dân tộc và nhân loại mà anh kiên trì chiếm lĩnh suốt đời. Ở xứ ta, việc vinh danh ai đó là văn nghệ sĩ lớn thường là dành cho những văn nghệ sĩ đồng thời là quan chức lớn cho nên Lê Đạt được đánh giá như vừa nói trên cũng không hề đơn giản, cũng như tại sao chỉ sau khi chết thì những suy nghĩ, phát biểu của Lê Đạt về cuộc đời nói chung và văn thơ nói riêng - gọi là “Tiểu luận”, “Đoản ngôn” - mới được xuất bản đàng hoàng!...Dù sao thì bây giờ bạn đọc đã có trước mặt hai tập Tiểu luận, Đoản ngôn của Lê Đạt là Đối thoại với đời và thơ và Đường Chữ, chúng ta sẽ biết được nhà thơ đã nghĩ gì về cuộc đời, về văn thơ và sẽ phần nào “Giải mã” tập thơ Bóng chữ (1994)… Thông thường, nói đến sách “Tiểu luận” là phần đông ngần ngại. Song, với Tiểu luận và Đoản ngôn của Lê Đạt, tôi nghĩ rằng người đọc sẽ nhanh chóng bị cuốn hút bởi đó là những suy nghĩ, chiêm nghiệm qua hơn nửa thế kỷ của cả một đời người, đời thơ của một con người đặc biệt Lê Đạt. Đặc biệt vì Lê Đạt là một trong những nhân vật trung tâm của vụ án Nhân văn-Giai phẩm - vụ kỳ án lớn nhất trong lịch sử văn học Việt Nam. Đặc biệt vì Lê Đạt đã “rũ bùn đứng dậy sáng lòa”, đã vượt qua đủ “99 kiếp nạn” để thành đắc đạo! Những người bạn gần gũi Lê Đạt đều thấy ông luôn sống với cái tâm đắc đạo: nhà thơ Lê Đạt luôn giữ một tâm thế rất hồ hởi, dễ gần. Người ta cứ nghĩ, sau khi bị đày ải trong “bể khổ” của cuộc đời, Lê Đạt sẽ “thân tàn ma dại”, sẽ sống u uất…nhưng ông thường nói với người tới thăm ông: “Có người cứ bịa ra tâm trạng của tôi, chứ bản thân tôi không có thời gian ngoái nhìn quá khứ. Không nên quá quan trọng cuộc đời, vì khi ta quan trọng cuộc đời tức là ta tự đánh giá mình cao quá đó thôi! Bình thường tâm là đắc đạo!”.Với cái tâm đắc đạo ấy, ông trút lòng mình vào “kỳ trận chữ”. Suốt mấy mươi năm qua, Lê Đạt chưa bao giờ ngừng sáng tác, ngừng suy nghĩ. Lê Đạt thường nói với bạn bè, khi viết, ông luôn tràn đầy hy vọng và độ lượng, bao dung. Mỗi ngày ông say sưa viết 2-3 tiếng, kể cả khi đã qua tuổi “xưa nay hiếm” 70 rồi tới tuổi 80. Chính vì thế mà Hoàng Hưng gọi Lê Đạt là “Người lạc quan ngoan cố”(3). Từ “ngoan cố” ở Lê Đạt là do những người “chống NV-GP” đặt cho (“tên Nhân văn ngoan cố”), nay đặt cạnh từ “Lạc quan” thì quả là “rất Lê Đạt” bởi dường như chỉ có Lê Đạt mới luôn Lạc quan, Lạc quan dài dài như thế! Chính sự Lạc quan đã tạo nên phong cách hóm hỉnh mà sâu sắc ở những suy nghĩ của Lê Đạt. Chẳng hạn như khi ông nói “Văn hóa là bình tĩnh”, và khi ông lại nói “trong mọi thứ phải vội thì không nên vội khi làm chữ và khi tự tử” thì ý tưởng trở nên thú vị rất nhiều. Mặc dù Lê Đạt đã có một chiếc máy vi tính rất high-tech, nhưng trên bàn phím vẫn có những tờ giấy viết tay, ông đã giải thích: “…à, đấy là những tờ nháp Đoản khúc. Đoản khúc là những suy nghĩ về nghệ thuật, về sự đời. Suy nghĩ thì phải từ tốn chứ, vội gì đâu mà phải gõ tanh tách. Đấy, người ta cứ nhầm hiện đại với vội vàng, chụp giật. Phải có thì giờ để suy nghĩ, trừ khi không chịu nghĩ. Sợ nhất là chủ trương chạy đua theo các dịp kỷ niệm. Ngay kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long cũng thế. Tại sao ta cứ bịa ra các thứ nhân dịp ấy để tự trói buộc mình? Đã từng có vụ một nhà hát đổ sập ngay trong ngày khai mạc nhân dịp… rồi mà không sợ hay sao?”. Chính vì có sự “bình tĩnh” đó mà những nhận định của Lê Đạt về Thơ không hề cực đoan hoặc cảm tính như bao nhiêu người khác và có phong cách “rất Lê Đạt”: “ Theo tôi, Trần Dần là trưởng môn phái của thơ cách tân thế hệ chúng tôi, nên anh ấy rất quyết liệt, bận tâm với việc đổi mới thơ. Nhưng cái nhược điểm của anh là hơi cứng nhắc, hơi ý chí chủ nghĩa. Tôi vẫn coi thơ Trần Dần là một bản giao hưởng của lý trí. Còn Hoàng Cầm thì anh ấy không bận tâm về đổi mới, cách tân thi ca nhưng giời cho anh ấy thơ và tập Kinh Bắc là một tập thơ rất hay và có nhiều cái mới…Thế hệ trẻ rất được nhưng chưa nên nói nhiều về nó, họ là tương lai của thi ca Việt Nam nhưng họ cần phải thấy được trách nhiệm lớn lao và phải lao động thật sự nghiêm túc hơn nữa, học nhiều hơn nữa. Cái quan trọng là họ khác Thơ mới tiền chiến. Phần sôi nổi của thơ trẻ cũng quan trọng, nhưng phần lắng sâu mới là điều cốt lõi và phần lắng sâu trong thơ trẻ hơi ít trong khi phần sôi nổi thì hơi nhiều. Với các nhà thơ trẻ, cái khẳng định mình là quan trọng, nhưng cái suy nghĩ về bản thân mình cũng rất quan trọng. Các nhà thơ trẻ để tránh khỏi nhạt nhẽo, sáo mòn thì không nên đến cửa hàng đặc sản gọi cho mình một món bi kịch và không nên tự bịa ra bi kịch để tập dượt vì bi kịch chẳng phải ở đâu xa mà ở ngay trước mặt khi bạn chọn nghiệp làm thơ, thơ là một lạng cảm hứng cộng với một tạ mồ hôi”(4). Trong bài viết Chất vàng mười Lê Đạt của nhà Phê bình văn học Chu Văn Sơn ngay sau khi cuốn “Đối thoại với đời và thơ” của Lê Đạt ra mắt, nhà PBVH đã nhiệt tình khẳng định: “Là một cuốn tiểu luận, nhưng lối tiểu luận khá đặc biệt. Ta hoàn toàn có thể nói đến một phong cách tiểu luận Lê Đạt. Từ chối lối tiểu luận hàn lâm với những logic hình thức nặng nề, những trích dẫn rườm rà, cũng không giống những lối tiểu luận nghệ sĩ thường gặp, vốn ưa phóng túng đến độ la đà thừa thãi. Tiểu luận của ông là triết luận đầy chất thơ. Mỗi câu đều có được sự cô đúc, súc tích của một đoản ngôn. Thậm chí, có thể nói không ngoa rằng: tiểu luận Lê Đạt được dệt từ những đoản ngôn thông minh, mà mỗi ý tứ đều muốn trở thành một châm ngôn, dù không định áp đặt cho người đọc bất cứ lẽ gì gọi là tất định. Đây cũng là nét độc đáo của một phong cách viết coi trọng nguyên lí đối thoại” (5). Trong cuộc đời, ngoài cặm cụi, hì hục viết như một “Phu chữ”, người bạn trung thành nhất của nhà thơ Lê Đạt là sách. Lê Đạt nói: “Lúc khó khăn nhất, tôi đọc sách, tránh “nhàn cư vi bất thiện”. Khi đọc sách, tôi được giao lưu với những bậc đại gia của văn hóa nhân loại, làm cho mình sang trọng lên. Điều quan trọng là luôn sống bao dung và giữ gìn sự hài hước”. Có thể nói, chính là Sách - Tri thức nhân loại đã luôn tiếp cho Lê Đạt năng lượng sống. Chính vì thế, Lê Đạt luôn “Trẻ” và không ngưng nghỉ trong suy tư. Khi đã vào tuổi 80, nhưng gặp ông lúc nào cũng rất trẻ trung. Cái bắt tay rất chặt. Tiếng cười luôn nổ ran. Ông nói mọi chuyện, từ nghiêm túc đến đùa cợt đều “nhẹ như không”. Chính vì thế mà Lê Đạt, con người rất thường lẩn khuất và hết sức giản dị ấy lại là một cuốn tự điển sống hầu như bất tận. Cả về tri thức đông tây kim cổ, lẫn trải nghiệm muôn mặt cuộc đời. “Có lẽ rồi chúng ta sẽ dần dần nhận ra khoảng trống anh vừa để lại cho chúng ta hôm nay là một khoảng trống chẳng biết bao giờ mới lấp được của một nhà hiền triết, người đã gian nan mà nhẹ nhàng đi qua những tình thế chẳng hề đơn giản và dễ dàng của đất nước gần ngót một thế kỷ qua” - cảm nghĩ đó của Nguyên Ngọc khi Lê Đạt “cưỡi hạc về Trời” cũng là suy nghĩ của những người hâm mộ Lê Đạt. Nhìn chung, sau vụ “Nhân văn - giai phẩm”, các “anh hùng, hảo hán” một thời đều gặp nhiều khó khăn về sinh sống. Hoàng Cầm phải đi tô màu ảnh để sống, Trần Dần, Lê Đạt cặm cụi dịch sách kiếm tiền. Nhưng Lê Đạt dễ thở hơn nhờ bà mẹ buôn bán nhỏ thỉnh thoảng cho tiền. Chính vì thế, Lê Ðạt “trở lại tuổi ấu thơ” rất tự nhiên: Tuổi lú lẫn ngược nhầm ga trẻ dại Hay ngây ngô không biết lối về già Thơ thẩn chữ ngã ba… * Có thể có người nghĩ rằng Lê Đạt giả ngây giả ngô để “qua mắt” “Nhà chức trách”, riết như thế thành ra người ngây ngô thật? Cũng có thể là như vậy phần nào, nhưng nghe cái cách xưng danh “kiêu hãnh ngầm” rất Lê Đạt thì ta sẽ nghĩ khác: Phó thường dân / phố nhỏ vô danh / vô giai thoại / Thành tích / mấy trang giấy sờn / mấy câu thơ bụi / núi Vô Sơn. Hoặc: “Nhà thơ là người thiểu số vùng sâu vùng xa của ngôn ngữ, suốt đời chưa sõi tiếng phổ thông”. Ta hãy đặt câu hỏi tại sao Lê Đạt lại “đầu tư” nhiều cho “Đoản ngôn” trong khi người ta đa phần đều thích “ăn to, nói lớn” và viết lách thì phải “ra tấm ra món”, thậm chí nhiều chương hồi, nhiều tập rất hoành tráng? Câu trả lời có ngay sau khi cuốn “U75 Từ tình”, một tập thơ và đoản ngôn rất ấn tượng của Lê Đạt vừa ra mắt: “Tôi tiếp tục làm một tập đoản ngôn. Độ hai ba trăm trang gì đó. Già rồi nên có lẽ nên viết ngắn. Vả lại từ trẻ tôi vốn là một nhà thơ nghèo nên hết sức tiết kiệm…Khẩu hiệu của tôi là: “Chữ ngắn, tình dài, nghĩa nặng”, thơ không nên nói nhiều quá!”. Trong bài tiểu luận Đường chữ, Lê Đạt lại nói về cái sự “tiết kiệm chữ” này: “Lạm dụng những từ khoa trương rất không tốt cho sức khỏe ngôn ngữ quốc gia và có nguy cơ cao dẫn đến nạn lạm phát. Trong quốc sách tiết kiệm không nên quên tiết kiệm ngôn ngữ. Đừng sài ngôn ngữ như sài tiền chùa”. “Đoản ngôn” là một hình thức suy nghĩ ngắn gọn về nghệ thuật và cách ứng xử trong cuộc đời của Lê Đạt. Và người đọc như được tiếp cận với một nhà hiền triết sâu sắc mà hóm hỉnh bởi những đoản ngôn của Lê Đạt thường bất ngờ, nhiều dư âm và đa nghĩa. Người đọc có thể tìm thấy những đồng cảm riêng, thú vị: Người quân tử dùng mắt để nhìn Kẻ tiểu nhân dùng mắt để nhòm + Kẻ thù của bình đẳng là chủ nghĩa bình quân + Điểm tham quan nóng nhất của lịch sử là Suối Giải Oan + Chữ không cấp sổ đỏ cho bất cứ nhà văn nào + Nhiệm vụ của thơ không phải sản xuất ra chân lý, mà những chất cường cảm, những viagra phục tráng khả năng chân lý + Các triết gia cảnh báo nhiều về nguy cơ tha hóa mà hơi ít về nguy cơ đồng hóa, nó cũng là một hình thức tha hóa + Người ta có một cái đầu để làm khác chứ không phải làm theo. Bất hạnh là người có cái đầu máy photocopy. + Trong một bài thơ cổ điển, nghĩa thường đến đúng hẹn. Trong một bài thơ hiện đại nghĩa thường đến trễ giờ. + Cho rằng ngôn ngữ có thể hoàn toàn giải mã được là loại trừ nghĩa (sens) hoặc rút gọn nó thành những định nghĩa (signification). Định nghĩa minh bạch và hữu hạn Nghĩa mơ hồ và bất tận. Nghĩa có những khoảng trắng không thể lấp đầy dành cho cơ may. + Tôi trọng những nhà thơ sinh sự với văn phạm để tạo ra sự sinh của ngôn ngữ. + Viết là phép đối xử với văn phạm như một bạn chơi, chứ không phải như một nhân viên trật tự thô lỗ. + Trăng Ba Vì sao đổi chữ thiên di + Người đẹp lẩn khe hai dòng chữ tối Thủ thư mù lần lẻ một lối mê + Người ta thường đánh giá cái mới, cái chưa biết bằng những cái đã biết rồi. Đó là nguyên nhân sinh ra tình trạng oái oăm: thằng chết cãi thằng khiêng. + Người ta thường hiểu lầm rằng nghệ sĩ cách tân chủ trương xóa bỏ mọi gò bó. Không. Anh ta chỉ đòi xóa bỏ những gò bó lỗi thời và phi nhân tính để tự giác đề ra cho mình những gò bó tự do hơn. Không có gò bó thì cũng không có nghệ thuật. (9) Xin xem thêm một số đoản ngôn của Lê Đạt ở cuối bài. Chập mạch chấn động tình quên tiểu sử Lang thang trang lần quê chữ tìm mình … Lê Đạt cho rằng, “Mỗi công dân có một dạng vân tay. Mỗi nhà thơ thứ thiệt cũng có một dạng vân chữ. Không trộn lẫn” (Vân chữ). “Đã là một nghề thì phải có kỷ luật lao động. Không nên thụ động thắp hương chờ mà phải chủ động gọi hứng đến. Công việc này đòi hỏi một kỷ luật nghiệt ngã và gian khổ” (Nghiệp thơ)… Đọc tiểu luận Đường chữ, có thể nhận ra, cuộc tìm “đường chữ”, “vân chữ” của ông là cuộc tự nhận thức “trường kỳ và gian khổ” sau “đại nạn” Nhân văn giai phẩm. Những vấn đề thời cuộc được ông đề cập, nhiều suy tư trong các bối cảnh sáng tạo như bản sắc dân tộc (không phải là tiền có sẵn trong kho lấy ra xài, mà càng hiện đại thì càng nhận ra sự phong phú, đủ đầy), trí thức (là thái độ sống chứ không phải học vị), hay bình luận về khung cảnh tự do sáng tạo (một nền văn hóa dân chủ lành mạnh không nên gồm quá nhiều đường một chiều), tinh thần cách tân thơ (không nên kỳ thị bất kỳ thể thơ nào), chế độ tự kiểm duyệt (lập ra hàng rào “thuế quan” nghiêm ngặt của cái siêu ngã) và có thú vị khi ông “trả lời” cho việc vì sao đến hơi thở cuối cùng vẫn không viết nổi hồi ký Nhân văn giai phẩm… Cách nói của Lê Đạt, dù ở bất kỳ vấn đề nào, ta cũng thấy như một nghịch lý: “Tuổi Cao Biền tim vị thành niên”. Đó không phải “cưa sừng làm nghé”. Đó là sự nuôi dưỡng tâm hồn luôn tươi trẻ. Người trẻ, theo ông, là người có ngôn ngữ mới, tức tư duy mới. Và, với nhà thơ, thì “cái trẻ, cái già của nhà thơ quyết định không phải đo ở tuổi trời, mà ở nội lực chữ”. Tuy nhiên, ta không khỏi ngậm ngùi cùng nhà thơ trước một quy luật tất yếu: Hoa đào mải giục môi em thắm Mặc hoa mơ xui trắng tóc anh già . Đọc tiểu luận, đoản ngôn của Lê Đạt ta thấy cháy bỏng khát vọng đổi mới thi ca, chứa chan một tình yêu với cuộc đời - mà người ta thường gọi là tính nhân văn cao cả. Chính điều đó tạo nên độ lớn, tầm cao của Thi nhân. Có thể bây giờ, cái chức danh “Phó thường dân”, cái vẻ ngoài “ngây ngô không biết lối về già” đã khiến chúng ta chưa nhìn rõ tầm vóc thực sự của ông. Không biết ông có phải chờ đợi “tam bách dư niên hậu”? Từ lâu, người ta đã muốn tìm mối liên hệ tương đồng giữa Khoa học xã hội và Khoa học tự nhiên. Sự xích lại gần nhau của các ngành khoa học trên nhiều lĩnh vực đã hình thành một khoa học mới - khoa học liên ngành. Ở Việt Nam, xu hướng này cũng được đặc biệt chú ý, song kết quả thì còn rất khiêm tốn … Nay đọc bài những tiểu luận của Lê Đạt như Thơ và Vật lý hiện đại, Lý tính phê bình, Văn hóa đối thoại, Lời quê và Cái khác… thì tôi thấy thật thích thú. Chùm bài tiểu luận này của Lê Đạt là sự tìm đến với những công trình khoa học cơ bản thuộc những lĩnh vực “siêu khó” như vật lý lý thuyết và các ngành khoa học hiện đại khác - mới thấy tính chất quảng bác của trí tuệ Lê Đạt. Sự tiếp cận mới này của Lê Đạt, trước hết, như ông nói: “Cuốn sách (về Enstein - Đ.N.T) đã dậy tôi rất nhiều về lý thuyết tương đối nhưng hơn thế nó còn dậy tôi một bài học lớn lao vế cách sống và cách nghĩ của một người tìm tòi” trong thời đại mới khi mà “… những câu nói "hội nhập", "toàn cầu hóa" gần như đã trở thành lời nói cửa miệng của thế kỷ XXI”. Song, khi Lê Đạt đi sâu vào những “Lý thuyết về những phôtông”, “Lý thuyết xác suất”, rồi “Nguyên lý bất định”, “Vật lý lượng tử”,v.v…và rồi tìm “chứng cớ” giống nhau với Thơ ca để đưa ra những kết luận như sau thì quả là vội vã: “Lý thuyết về những phôtông đã khẳng định tầm quan trọng hàng đầu của những cấu trúc gián đoạn thay thế những cấu trúc liên tục tăng chế ngự khoa học cũng như thơ ca trong nhiều thế kỷ. Đã hết rồi thời đại của những chân lý tuyệt đối. Ngay từ cuối thế kỷ XIX, một nhà triết học Đức với trực giác nhạy bén của một nghệ sĩ thiên tài đã bận tâm đến nguy cơ con người có thể bị ngạt thở vì chân lý. Ai cũng biết xác suất là trung tâm của vật lý lượng tử mà đã nói đến xác suất không thể không đề cập đến ngẫu nhiên, đến may rủi nó cũng là cơ sở của thơ hiện đại. Những nguyên lý bất định, nguyên lý bổ sung của vật lý lượng tử đã giải phóng nhân loại khỏi lý thuyết nhân quả tất định từng nhắc cũng như những quy luật nghiệt ngã nhiều khi bảo thủ của ngữ pháp”. Sự nghiên cứu khoa học tự nhiên của Lê Đạt, như ông nói: “Tôi cũng xin phép được cộng hưởng lời kêu gọi thiết tha của nhà bác học người Bỉ, Prigogine cho một cuộc liên minh mới (nouvene alhance) giữa khoa học tự nhiên, khoa học nhân văn, triết học, văn học nghệ thuật nhằm tạo nên "một cái nghe mới thú vị" đối với cuộc sống muôn màu muôn vẻ” - là một thái độ văn hóa đúng, một hành động khoa học đúng. Song, để có được “một cái nghe mới thú vị” trong cuộc liên minh mới này thì không hề đơn giản. Có lẽ những ý tưởng của Lê Đạt trong chuyện liên minh mới này có xu hướng “vĩ mô” như Lê Đạt đã khẳng định một chân lý: “Nhà khoa học không có tưởng tượng chỉ là một công chức khoa học thồ một khối kiến thức nặng nề trên lưng như “cái bướu của anh gù” (chữ của Nietzsche). Nhà nghệ thuật thiếu lý tính chỉ là một nghệ sĩ thứ phẩm mắc bệnh vĩ đại cũng cần chữa trị hoặc nên đổi nghề”. Nhìn chung, những bài tiểu luận của Lê Đạt ở khu vực này đã giúp người đọc tiếp cận cái không khí của thời đại với những “tiến bộ như vũ bão của khoa học tự nhiên” và ông muốn nhắn nhủ những người làm ở khoa học nhân văn không thể cứ bảo thủ và giậm chân tại chỗ. Cách viết tiểu luận của Lê Đạt khá uyển chuyển và cũng cô đọng, ngắn gọn gần như nguyên tắc viết đoản ngôn, bất ngờ và lôi cuốn. Song, khi đi sâu tìm hiểu những vấn đề của khoa học tự nhiên mà Lê Đạt đề cập thì có nhiều vấn đề dường như chưa ổn và tôi đã gặp sự “trao đổi” của tác giả Đông La về bài viết Thơ và Vật lý hiện đại của Lê Đạt. Vì thế, để hiểu đúng vấn đề, cách tốt nhất là ta hãy đọc lại bài Thơ và Vật lý hiện đại của Lê Đạt và bài trao đổi của Đông La (6). Thơ và Vật lý hiện đại - Lê Đạt Vào những năm 60 của thế kỷ trước, một sự kiện văn học đã đẩy tôi vào một tình trạng hết sức trầm luân về vật chất cũng như tinh thần. Như thói quen mỗi khi gặp vận hạn tôi thường tìm đến sách như tìm đến những người bạn tử tế và trường kỳ tận tuỵ. Tôi nói khó với Hội Nhà văn giới thiệu xin một thẻ đọc thư viện Khoa học tại phố Lý Thường Kiệt. Đây là việc tối cần thiết trên hai phương diện: một là kiếm sống, thư viện có nhiều tài liệu có thể dịch sinh nhai, hai là bổ sung vốn kiến thức mà tôi cảm thấy còn nhẹ ký cũng như thiếu cập nhật vì đã gần hai chục năm do bận kháng chiến và hoạn nạn tôi không có điều kiện trau dồi. Từ khi cầm bút tôi đã quan niệm việc cách tân thơ Việt là mục đích quan trọng nhất của đời mình lẽ dĩ nhiên có làm được hay không lại là một chuyện khác). Một hôm một anh bạn trẻ (anh bạn trẻ thời đó hôm nay đã tóc bạc: đó là nhà vật lý lý thuyết Đặng Mộng Lân) giới thiệu với tôi cuốn “Emstein: cuộc đời, tư tưởng và lý thuyết” của Kouznetsov. Lâu lắm tôi mới được đọc một cuốn sách khoa học viết hấp dẫn đến thế. Tôi đọc đi đọc lại nhiều lần. Cuốn sách đã dậy tôi rất nhiều về lý thuyết tương đối nhưng hơn thế nó còn dậy tôi một bài học lớn lao về cách sống và cách nghĩ của một người tìm tòi. Khoa học thực nghiệm cổ điển đã đem lại cho nhân loại những bước tiến lớn thoát khỏi những vũng lầy mê tín nhưng nó cũng có nhược điểm là dễ khiến người ta quá chú trọng đến những hiện tượng tai nghe mắt thấy mà lơ là những khía cạnh sâu xa và bí ẩn của tự nhiên mà chỉ tư duy mới nhìn thấy. Vật lý hiện đại (và thơ hiện đại) khuyến khích những giả thuyết thoạt nhìn như rồ dại nhưng có khả năng mở ra những khía cạnh kỳ bí của ngoại giới (cũng như thiết kế những tập họp chữ mới vượt qua biên giới cảm nhận sang những vùng tri nhận phức hợp và quyến rũ, chuyển sự chú tâm của người làm thơ vào những tác hiệu (siguthants) đa nghĩa sống động hơn là vào những thụ hiệu (siguihés) minh bạch nhưng cằn cỗi). Lý thuyết về những phôtông đã khẳng định tầm quan trọng hàng đầu của những cấu trúc gián đoạn thay thế những cấu trúc liên tục tăng chế ngự khoa học cũng như thơ ca trong nhiều thế kỷ. Đã hết rồi thời đại của những chân lý tuyệt đối. Ngay từ cuối thế kỷ XIX, một nhà triết học Đức với trực giác nhạy bén của một nghệ sĩ thiên tài đã bận tâm đến nguy cơ con người có thể bị ngạt thở vì chân lý. Ai cũng biết xác suất là trung tâm của vật lý lượng tử mà đã nói đến xác suất không thể không đề cập đến ngẫu nhiên, đến may rủi nó cũng là cơ sở của thơ hiện đại. Những nguyên lý bất định, nguyên lý bổ sung của vật lý lượng tử đã giải phóng nhân loại khỏi lý thuyết nhân quả tất định từng nhắc cũng như những quy luật nghiệt ngã nhiều khi bảo thủ của ngữ pháp. Chúng đã đánh một đòn chí mạng vào lý thuyết chết người "loại trừ vế thứ ba" của logic cổ điển từng gây thảm họa cho loài người (mà không phải chỉ trong phạm vi tư tưởng). Không nên quên hệ quả cao điểm của nó là định thức “Kẻ nào không đi với ta là chống lại ta". Các nhà vật lý lượng tử đã góp phần thiết kế cho nhân loại một phạm trù mở, cái khác. Từ trước đến nay tư duy cổ điển chỉ vận hành trên hai trục đúng sai giờ đây cái vạc hai chân kia đã thêm một trụ mới, trụ thứ ba về cái khai thác góp phần tạo nên một cách ứng xử mới, mở ra kỷ nguyên đối thoại thay thế cho thói quen độc thoại chuyên chế và bạo lực. Hesenberg và Bohr được nhân loại tôn vinh không phải đơn thuần như những nhà vật lý kiệt xuất mà còn như những nhà tư tường dân chủ quan trọng trong lịch sử. Không nên quên rằng khái niệm “những trạng thái chung sống" (états coexistants), hệ quả của nguyên lý bổ sung đã xuất hiện trên diễn đàn vật lý rất lâu trước khi khái niệm "chung sống hòa bình" xuất hiện trên diễn đàn chính trị thế giới. Bài viết này của tôi không phải để nói về những vấn đề thuần túy vật lý mà chủ yếu là để nói lên lòng biết ơn của một nhà thơ già với vật lý hiện đại. Tôi cũng xin phép được cộng hưởng lời kêu gọi thiết tha của nhà bác học người Bỉ, Prigogine cho một cuộc liên minh mới (nouvene alhance) giữa khoa học tự nhiên, khoa học nhân văn, triết học, văn học nghệ thuật nhằm tạo nên "một cái nghe mới thú vị" đối với cuộc sống muôn màu muôn vẻ. [Xin xem thêm bốn tiểu luận khác có liên quan của Lê Đạt (7)]. Còn đối với những người theo trường phái “Nghệ thuật thuần túy”, “Nghệ thuật Tháp Ngà”…không liên can đến bất cứ cái gì thì hãy đọc bài tiểu luận nói về mối quan hệ giữa các loại hình nghệ thuật Người hàng xóm thân thiết (8) của Lê Đạt. * Bài tiểu luận Đường chữ của Lê Đạt là “bài đinh”, là “Át chủ bài” (Át cơ) trong tập Đường chữ của Lê Đạt. Trong bài viết này, vừa có tính chất “tiểu sử” vừa có tính chất “tiểu luận”, lại có đôi chút “Hồi ký” về cuộc đời “oan nghiệt”, cay đắng của Lê Đạt. Vì thế, bài tiểu luận này vừa như là sự “Giải mã” tập thơ Bóng chữ (1994) xôn xao thi đàn một dạo của Lê Đạt vừa cho ta thấy quá trình hình thành “quan điểm thẩm mỹ” của nhà thơ. Vì thế, có thể nói, nếu không đọc Đường chữ thì không thể hiểu Lê Đạt. Phần trích dẫn dưới đây chỉ giữ lại “tính tiểu luận” tức những ý nói về quá trình hình thành “quan điểm thẩm mỹ” của Lê Đạt: “…Ngay từ nhỏ tôi đã ôm ấp mộng cách tân thơ Việt - lẽ dĩ nhiên lúc đó tôi không ý thức được rõ rệt nên cách tân như thế nào. Sau Cách mạng tháng Tám, nhà thơ ảnh hưởng đến tôi nhiều nhất là nhà thơ Xô-viết Mayakovsky (*). Tôi thích những hình ảnh quả đấm hết sức táo bạo cũng như những bài thơ quảng trường mạnh mẽ tham gia trực tiếp vào quá trình thay đổi xã hội của ông. Ảnh hưởng của Maya rất đậm nét trong những bài thơ tôi cho in trên Giai phẩm mùa Xuân và báo Nhân Văn số một. Những hình ảnh sinh sự đã khiến tôi ít nhiều được công nhận như một nhà thơ cách tân… …Trong suốt hơn 30 năm đại hạn này, tôi có nhiều thời gian suy nghĩ về thơ mình cũng như về thơ nói chung. Tôi buồn rầu nhận ra rằng thơ tôi chưa có cách tân triệt để. Về cấu trúc mà nói, nó vẫn chưa thoát khỏi thơ “Mới” những năm 1930. Tính cách tân của nó chủ yếu chỉ là thay đổi dấu. Thiên hạ chủ yếu làm thơ ca ngợi (dấu cộng). Tôi chủ yếu làm thơ phê phán (dấu trừ). Thơ ca ngợi hay phê phán cũng đều trực tiếp bị thúc đẩy bởi thời sự. Việc tôi bị án treo bút (không biết đến bao giờ, có thể đến suốt đời) đã tách tôi ra khỏi sức ép của xuất bản. Tôi bắt đầu nghĩ đến những thay đổi triệt để hơn. Nhưng triệt để là thế nào tôi vẫn chưa hình dung được! Thời kỳ này tôi vẫn tiếp tục làm thơ nhưng bắt đầu chán thơ mình. Tôi viết và xé bỏ rất nhiều. Bế tắc. Tôi quyết định nghỉ làm thơ một thời gian dài để có điều kiện suy nghĩ. Rất nhiều đêm mất ngủ. Có lẽ bệnh mất ngủ của tôi bắt đầu từ thời kỳ này. Tôi luôn luôn tự hỏi: Chẳng lẽ mình thiếu nghị lức đến mức không tận dụng được những bất hạnh gây ra cho gia đình, bạn bè, người quen, người không quen cũng như cho chính bản thân mình để có đủ hơi sức tiến hành những cách tân thơ từng ôm ấp từ hồi nhỏ? Chẳng lẽ mình đành phí bỏ nghiệm sinh một cách vô ích và oan uổng? Làm thế nào để rũ bỏ được mặc cảm tội lỗi? Làm thế nào để không bị rớt lại như một rơ-moóc già tại một ga xép rêu mốc? Trần Dần (I) hình như ngay từ đầu đã tìm ra con đường của mình và anh tiếp tục đi một mạch. Tôi không có cái may mắn ấy. Tôi phục xuống đọc sách. Trong cuộc đời chìm nổi của mình, những lúc nản lòng tôi đều trở về với sách, hy vọng tìm ra một lời giải, một lý do để tin trong việc giao lưu với những con người “tử tế” của chữ. Rất may thời gian này Hội Việt kiều yêu nước tại Pháp gửi về tặng Thư viện Khoa học Xã hội rất nhiều sách, đặc biệt những sách về chủ nghĩa cấu trúc, về phong trào Thơ mới, Văn học mới, Phê bình mới… Những năm 50 là giai đoạn hoạt động tư tưởng sôi nổi của giới trí thức Pháp, có ảnh hưởng lớn đến diện mạo văn hóa nhân loại. Tôi mê mải đọc sách 4 năm liền, ngày 8 giờ vàng ngọc thứ thiệt. Nhiều hôm tôi đọc thông tầm từ 2 giờ chiều đến 9 giờ tối, giờ thư viện tắt đèn. Thấy tôi về muộn phải vét cơm nguội ăn, con gái lớn tôi đã nói đùa: “Bố phải lòng cô nào mà mê mệt thế!” …Tôi vẫn mê mải đọc sách. Cùng vào thời điểm này, Trần Dần ra thư viện để dịch thuê Althusser và Trần Đức Thảo (II) cũng “hội ngộ” để tìm tài liệu bổ sung cho những nghiên cứu của anh về giai đoạn sơ khai của ý thức. …Trong cuộc đời trầm luân một con người, đôi khi ta hạnh ngộ một vài câu nói nó cưu mang mình như một chiếc phao cứu sinh. Suốt đời tôi hàm ơn ba câu nói. Một của Trang Tử (**): “Mọi người đều biết lợi ích của cái hữu dụng, ít người biết lợi ích của cái vô dụng”. Hai của Lacan (***): “Vô thức được cấu trúc như một ngôn ngữ”. Ba của Mallarmé (****): “Hãy trả tính chủ động cho chữ”. Tôi bắt đầu cuộc hành trình vô dụng lần tìm vô thức thông qua việc giải phóng ngôn ngữ. Tôi xin phép được nhắc lại đây một đoạn viết khá dài trong tập Đời tôi và tâm phân học của Freud (*****), cũng sâu sắc như Lacan nhưng lại dễ hiểu hơn: “Người ta thấy miền tưởng tượng là một kho chứa được hình thành khi có sự chuyển đổi đau đớn từ nguyên lý khoái lạc sang nguyên lý thực tế nhằm tạo ra một thế vật cho việc thỏa mãn xung năng mà cuộc sống buộc con người phải từ bỏ. Người nghệ sĩ giống như một người loạn thần kinh, anh ta tự rút lui vào thế giới tưởng tượng ấy, tách khỏi hiện thực không làm anh ta thỏa mãn. Nhưng khác với người loạn thần kinh, nghệ sĩ biết cách làm thế nào tìm lại được con đường hiện thực vững chắc. Các tác phẩm của anh ta là sự thực hiện tưởng tượng những khát vọng vô ích giống hệt những giấc mơ… Nhưng trái lại với những giấc mơ phi-xã hội và nặng tính tự si, sáng tác của nghệ sĩ bộc lộ khả nãng gợi mối đồng cảm ở người khác, đánh thức và thỏa mãn chính những khát vọng vô thức ấy ở nơi họ.” Freud còn viết:“Mọi đứa trẻ khi chơi ứng xử như một nhà thơ với ý nghĩa nó tự tạo ra cho mình một thế giới hay nói chính xác hơn, nó chuyển dịch những đồ vật của thế giới nó đang sống sang một trật tự mới phù hợp. Nó coi trò chơi của mình là rất nghiêm túc.” (L.Đ. nhấn mạnh.) Nói một cách nôm na, người làm thơ thực hiện một trò chơi chữ nghiêm túc, sử dụng những phép tu từ học (ám dụ, hoán dụ, lược tỉnh, ghép âm, nói lái nói lối…) như một đứa trẻ chơi với những đồ vật chung quanh. Thế nào là chơi nghiêm túc? Chơi nghiêm túc là chơi thật, chơi hết mình, sống trò chơi như một nghiệm sinh thực thụ. Nghiêm túc không mâu thuẫn với trò chơi mà mâu thuẫn với chơi đùa hay tài tử. Từ một người chơi tài tử tôi đã nỗ lực nghiêm túc để trở thành một người chơi chuyên nghiệp. Người làm thơ chơi những phép tu từ như một thứ bẫy vô thức. Anh ta sinh sự với ngữ nghĩa và ngữ pháp để tạo ra một sự sinh mới cho thơ. Người làm thơ rắp tâm biến ngôn ngữ tiêu dùng thành một thứ ngôn ngữ trò chơi (hiểu theo nghĩa mạnh) trong một trạng thái nửa tỉnh nửa mơ mà Roland Barthes gọi là một sự chú ý bồng bềnh (attention flottante). Chính cái trò chơi hết mình này khiến Freud coi các nghệ sĩ như một thứ trẻ con lớn tuổi có khả năng đánh thức bản năng trò chơi của độc giả. “Mỗi người tự nhớ lại thời anh ta sống thực với những ham muốn trẻ thơ trong đó ngôn ngữ làm ra thế giới, thời gian là chiếc gậy của nàng tiên và tấm thảm bay, tóm lại thời của ma thuật”. (J. Bellemin-Noel) Tôi xin phép được mở ngoặc để nói thêm về từ chơi chữ vì từ này do bị sử dụng quá nhiều đã xuống cấp nghiêm trọng và thường bị nhiều người coi như một trò kỹ xảo đơn thuần có tính lý trí. Người chơi chữ dễ dàng được coi là một người thông minh. Như tôi đã trình bầy ở trên, chơi như vậy là chơi đùa. Nhà nghệ sĩ cũng như đứa trẻ không chơi đùa mà chơi thật khiến trò chơi chữ không còn là một trò chơi đơn thuần dựa trên óc thông minh của một người tỉnh táo mà dựa trên toàn bộ trí năng cũng như cảm năng của một kẻ đam mê bị thánh ốp trong một cơn thượng đồng của chữ. …Trong trò chơi phi ngựa của trẻ nhỏ, vật chơi chỉ là một chiếc gậy gỗ, chính tưởng tượng, chính sự đam mê của đứa trẻ đã biến chiếc gậy gỗ thành con ngựa. Cái thích thú nằm ở chỗ chiếc gậy gỗ không phải là con ngựa mà vẫn là ngựa hay nói một cách dân dã hơn “nói dzậy mà không phải dzậy”. Cái ấy bao giờ cũng có mặt và bao giờ cũng vắng mặt trong một trò ú tim vô tận. …Không nên quên ham muốn về cơ bản khác với nhu cầu. Nhu cầu thì hữu hạn và có thể thỏa mãn được, còn ham muốn thì vô hạn và luôn luôn “bất mãn”. Tôi bắt đầu tự làm khó dễ mình bằng những bài tập chơi chữ sử dụng tất cả những phép tu từ học có thể theo tiếng gọi của những âm tiết. Viết xong đến đâu lại xé lại đốt đến đó như một anh chàng lẩn thẩn. Tôi không muốn và cũng không dám cho ai xem. Sự tự cô lập này thật hết sức nặng nề. Trần Dần thỉnh thoảng có hỏi tôi: “Sao lâu nay không thấy cậu làm thơ?” Tôi chỉ cười xòa trả lời: “Vẫn làm nhưng không ra gì.” Đặng Đình Hưng (III) nửa nạc nửa mỡ: “Ông anh “xêriơ” quá… Phải côn huyền cồn như thằng em này thì thơ mới bốc được.” Không, tôi nhất quyết không sử dụng bất cứ một thứ “đôpinh” nào. Người ta có thể đạt tới sự xuất thần bằng nhiều cách, không nhất thiết phải cậy nhờ những chất ảo sinh (hallucinogène) và kích hoạt. Một nhà thơ mà phải nhờ đến chất “viagra” để thượng đồng thì yếu quá. Tôi đã nỗ lực rất nhiều để trở thành một kẻ rồ chữ. Tôi xin được phép nhắc lại một lần nữa. Người làm thơ hoạt động ở những vùng biên ngôn ngữ rất giống một người điên. Cái khác biệt giữa họ nằm ở chỗ người điên thì vượt biên đi thẳng tới cõi vô thức hoàn toàn của đêm tối mù mịt và ở lại đó, còn người làm thơ thì loạng choạng bước một vài bước sang cõi vô thức thì ngừng lại và biết đằng sau quay, trở về với cõi ngày của ý thức sau khi đã lượm dăm mảng đêm của vô thức để mở rộng địa giới của cõi chữ. Làm thơ không chỉ đòi hỏi sự buông lỏng mà còn một cảnh giới thượng thừa. Không một nhà thơ nào lại không muốn có người đọc mình bây giờ và ở đây. Lời tuyên bố hoàn toàn sáng tác cho tương lai chỉ biểu hiện của một thái độ hờn dỗi vạn bất đắc dĩ. Tháp ngà là một hình ảnh không lấy gì làm sáng giá của trường phái thơ lãng mạn. Nhà thơ không mong muốn sự cô đơn, nhà thơ chỉ chấp nhận nó. Không tháp ngà nào ngăn cản được những tiếng vang vọng của sự sống cũng như của những bận tâm nhân loại của người nghệ sĩ. Nhà thơ càng cô đơn càng cần san sẻ. Cần nhưng sợ. Đem những câu thơ đến bản thân mình cũng phải cố gắng mới làm quen được tung ra đời liệu có được thiên hạ thông cảm không? Cái tình trạng bồn chồn ấy thật đáng sợ. Và nó kéo dài trong nhiều năm. Thương anh nỗi trường kỳ nợ sợ / Một mình huýt gió nghĩa trang đêm Những năm đó tôi rất thân với hai câu thơ cực hoang vắng của Mạnh Hạo Nhiên (******): Bất tài minh chủ khí / Đa bệnh cố nhân sơ Vì bất tài nên minh chủ (chứ không phải vua ngu) không dùng, nhiều bệnh nên cố nhân (chứ không phải kẻ sơ giao) ít lui tới. Thái độ tri thiên mệnh và bình thản của họ Mạnh đã nâng đỡ tôi không ít trong dằng dặc trường kỳ bất hạnh. Sau khi làm những bài tập tự do ghép chữ một thời gian, tôi bắt đầu tập “chơi chữ” theo những đề tài nhất định hay nói một cách giản dị hơn, tôi bắt đầu tập sáng tác. Tôi đã mất ba tháng để viết xong bài “Ông phó cả ngựa” lần thứ nhất và ba tháng nữa để sửa đi sửa lại không biết bao nhiêu lần, nhiều câu chữa mãi có khi lại trở về câu lần đầu, đi chông chênh trong một vùng bất định đầy sương mù, luôn đối diện với một câu hỏi da diết… đâu là điểm tự do xa nhất chữ có thể đạt tới, đâu là cực hạn nhất thiết không được bước qua. Tôi vốn không phải là một nhà thơ sướt mướt. Trong những năm tháng bất hạnh của nghiệm sinh tôi đã tu dưỡng một nụ cười bất chấp, một “chủ nghĩa makênô” chính hiệu. Người yêu thì gọi tôi là “ông Di Lặc”, kẻ ghét thì là “tên Nhân Văn ngoan cố”. Không hiểu sao khi đọc lại bài thơ “Ông phó cả ngựa” còn nóng hổi những chữ mới ra lò, nước mắt tôi cứ ứa ra không cầm lại được. Tôi hiểu rằng mình đã được cứu rỗi. …(Khi tập Bóng chữ ra mắt). Phần lớn những người bạn “chính trị” của tôi cũng quở trách. Đ.P., một cựu tù Sơn La tỏ ra khá quyết liệt: "Ông im tiếng bao nhiêu lâu, giờ tái xuất giang hồ, anh em chờ đợi một tuyên ngôn của ông về dân chủ, tự do, ông lại cho in mấy bài thơ tình vớ vẩn”. Tôi cười trả lời: "Có tuyên ngôn đấy chứ, tuyên ngôn về quyền dân chủ của chữ”. Đ.P. cau mặt: “Ông thì lúc nào cũng đùa được”. Tôi trộm nghĩ rằng hành động yêu nước nghiêm túc nhất của một công dân với tư cách một người làm thơ là cúc cung tận tuỵ bảo vệ và mở mang bờ cõi chữ của dân tộc mình. Chỉ có một người (lẽ dĩ nhiên là theo chỗ tôi biết) tin là tôi nói thật: Trần Đĩnh (IV). …Thế là ít nhất đã có hai người tương đối hiểu thơ tôi, bản thân tôi và Trần Đĩnh. Tôi xin nhấn mạnh: thêm một người không đơn thuần là một thay đổi về số lượng, mà quan trọng hơn hết, đó là một thay đổi về chất lượng. Tôi đã thoát khỏi vòng cô đơn. Một người là số ít nhưng hai người là khởi điểm của số nhiều. Trần Đĩnh đã giúp đỡ tôi không ít trong quá trình Bóng chữ qua những nhận xét vừa tinh tế vừa bốc đồng của anh. Năm 1993, Hội Nhà văn chủ trương xuất bản cho những anh em vừa được “phục hồi” mỗi người một tập thơ. Hoàng Cầm (V) cho in tập Về Kinh Bắc, tập thơ đã đưa anh vào vòng lao lý. Phùng Quán (VI) cho in Thơ Phùng Quán. Trần Dần, tập Cổng tỉnh, một tiểu thuyết thơ và tôi cho in tập Bóng chữ. Trong mấy tập thơ trên, số phận tập Bóng chữ có phần long đong hơn cả. …Không biết xuất phát từ đâu dư luận dứt khoát rằng thơ tôi khó hiểu. Có người vừa mở tập Bóng chữ lướt qua đã gập sách lại và kêu ca rằng thơ tôi “hũ nút”. Trong thơ, nạn đọc bằng tai chứ không bằng mắt cũng khá phổ biến. Khi ta “mê” một người con gái nhiều khi ta cũng không hiểu tại sao. Các nhà thơ lãng mạn gọi đó là “tiếng sét ái tình”. Chỉ sau khi hết choáng váng ta mới có điều kiện sử dụng lý tính để “hiểu” và hiểu mãi vẫn chưa hiểu hết. Không phải bao giờ cũng hiểu mới cảm được”. --- Chú thích cho bài tiểu luận Đường chữ: (*) Mayakovsky (1893-1930): nhà thơ, nhà viết kịch Nga. Những sáng tác đầu tiên mang tính chất dân chủ. Các tác phẩm của ông gắn liền với con đường Cách mạng vô sản. Với nước Nga Xô-viết.. Đó là "Hành khúc", "Những cửa sổ Rôxta", thơ "Tôi yêu", "Về điều này", trường ca "Lê nin", trường ca "Tốt lắm"; tập văn xuôi "Tôi khám phá ra nước Mỹ", kịch "Con rệp", và tập luận văn "Làm thơ như thế nào" v.v... Thơ của Maia nổi tiếng thế giới và có ảnh hưởng đến văn học thế giới xã hội chủ nghĩa; nhiều đề tài và hình thức mới; một sự tổng hợp thiên tài của nghệ thuật và nhu cầu phục vụ xã hội. (**) Trang Tử (365-290 trước CN) là một triết gia và tác gia Đạo giáo. Tên thật của ông là Trang Chu và tác phẩm của ông sau đều được gọi là Trang Tử. Ông còn có tên là Mông Lại , Mông Trang hay Mông Tẩu . Ông sống vào thời Chiến Quốc, thời kỳ đỉnh cao của các tư tưởng triết học Trung Hoa với Bách Gia Chư Tử. Chí khí của bậc hiền triết Trang Tử cũng giống như căn bản nền tảng tư tưởng Đạo gia: ẩn dật mà khoáng đạt, quay trở về cuộc sống hòa hợp với tự nhiên, không muốn tham dự vào tranh quyền đoạt lợi, xa lánh những hệ lụy cuộc đời. Gần như đối lập với đạo Khổng mang bản thể trần tục, ưa thực tế, trọng thực nghiệm và đặc biệt tôn trọng chủ nghĩa nhân văn, Trang Tử kế tiếp truyền thống tư tưởng của Lão Tử, phát triển thành một hệ phái mà sau này người ta thường gọi một cách vắn tắt là Lão-Trang. Khác với Lão Tử cuối cùng vì chán ngán xã hội Trung Hoa đương thời đã vượt cửa ải Hàm Cốc, mất tích về phương Tây; với Trang Tử, người đời thường nhắc đến "Trang Chu mộng hồ điệp" như một huyền thoại. Trang Tử nổi tiếng với bộ sách Nam Hoa chân kinh. Theo Từ điển Thành ngữ Trung Quốc thì Nam Hoa là tên một hòn núi ở Tào Châu thuộc nước Tống thời xưa. Tương truyền rằng, khi Trang Tử đến ở ẩn nơi chân núi Nam Hoa, ông đem hết tinh hoa của Đạo giáo của Lão Tử viết thành bộ sách, lấy tên núi Nam Hoa mà đặt, gọi là Nam Hoa kinh, đời sau người ta gọi là "sách Trang Tử". Văn chương trong Nam Hoa kinh rất có tiết tấu, nhiều câu dùng phép biền ngẫu, lời văn luôn luôn bóng bẩy, trôi chảy, ảnh hưởng rất lớn đến các thi nhân đời sau như Kê Khang, Nguyễn Tịch, Sơn Đào,... và ngay cả đời nhà Đường như Lý Bạch, đời nhà Tống như Tô Đông Pha. Nam Hoa kinh, theo sách Hán thư Nghệ văn chí, gồm 55 thiên, nhưng ngày nay còn được 33 thiên. Cũng theo truyền thuyết là do Quách Tượng san định và sau này sắp xếp đặt tên Thiên Chương. Không ai biết được rằng quá trình sắp xếp, san định ấy đã làm tổn thất 19 chương hay do đã thất lạc từ trước. Câu hỏi này thật khó giải đáp vì bản hiện nay được hoàn chỉnh vào đời nhà Tấn (thế kỷ thứ 3), cách xa Trang đà hơn 500 năm. Các bản dịch Nam Hoa kinh tương đối phổ biến ở Việt Nam hiện nay là của Nhượng Tống, Nguyễn Duy Cần, Nguyễn Hiến Lê và Nguyễn Tôn Nhan. | ||||||||
Đỗ Ngọc Thạch | ||||||||
Ngày đăng: 19.11.2010 | ||||||||
| ||||||||
|
Tiểu luận | ||||||||
Đọc “Tiểu Luận” Của Lê Đạt- 2 Đỗ Ngọc Thạch | ||||||||
(***) Jacques Lacan Émile Marie (1901 - 1981) là một nhà tâm lý và bác sĩ tâm thần người Pháp, có những đóng góp nổi bật về phân tâm học , triết học , và lư thuyết văn học. Lacan đề xuất rằng “vô thức được cấu trúc như một ngôn ngữ”. (****) Mallarmé: “Hãy trả tính chủ động cho chữ”. Stéphane Mallarmé (1842 –1898):Mallarmé là người đầu tiên đặt ra vấn đề: làm thơ bằng “ chữ” hay bằng “ ý tưởng”? Theo quan niệm thông thường, đặc biệt ở những thời “tư tưởng là thống soái”, thì không thể khác được, làm thơ là bằng những ý tưởng. Quan điểm của Mallarmé: làm thơ “bằng những chữ chứ không phải bằng những ý tưởng”. Một cuộc cách mạng trong thi ca. Thơ hiện đại ngoài sự gắn bó với ngữ nghĩa những cảm xúc và tâm hồn như thơ truyền thống còn có sự thể nghiệm bản thân ngôn ngữ. Theo GS Hoàng Ngọc Hiến, có lẽ Lê Đạt đã xuất phát từ quan điểm của Mallarmé để định nghĩa nhà thơ là “phu chữ”. (*****) Tâm phân học của Freud : Xem trong bài : ĐỌC LẠI "BÓNG CHỮ" CỦA LÊ ĐẠT - ĐỖ NGỌC THẠCH (******) Mạnh Hạo Nhiên: (689 hay 691-740): là nhà thơ thời nhà Đường (TQ), thuộc thế hệ đàn anh của Lí Bạch. Lí Bạch rất hâm mộ học vấn, tài năng và nhân cách của Mạnh Hạo Nhiên. Không thành công trong nghiệp quan trường, ông đã chú tâm làm thơ và viết văn về quê hương của mình. Ông sinh ra tại Tương Dương, Hồ Bắc. Ông hầu như suốt đời sống ở quê và cảnh vật, lịch sử, các truyền thuyết quê hương đã đi vào thơ ca của ông. Có thể gọi thơ ông là thơ sơn thủy. Thơ năm chữ của ông luật lệ nghiêm cách, phóng khoáng, hùng tráng, rất nổi tiếng. Bài Lâm Động Đình được nhiều người truyền tụng: Lâm Động Đình Bát nguyệt hồ thủy bình Hàm hư hỗ thái thanh Khí chưng Vân mộng trạch Ba hám Nhạc dương thành Dục tế vô chu tiếp Đoan cư sỉ thánh minh Tọa quan tùy điếu giả Đồ hữu tiễn ngư tình Bản dịch của Trần Trọng Kim : Đến Hồ Động Đình Mặt hồ tháng tám phẳng bằng, Nước trời hỗn hợp một vùng trong xanh. Khí đầm Vân mộng vây quanh, Trồng trềnh sóng lượn lay thành Nhạc Dương. Muốn qua thuyền vắng nghẹn đường, Ở dưng thời trị, thẹn thuồng mày râu. Ngồi nhìn những kẻ buông câu Luống công mong cá, có màu gì đâu. Hai câu thơ Lê Đạt tâm đắc là ở trong bài “Xuân hiểu” của Mạnh Hạo Nhiên. Phiên âm Hán Việt, Dịch nghĩa: Xuân hiểu Xuân miên bất giác hiểu Xứ xứ văn đề điểu Dạ lai phong vũ thanh Hoa lạc tri đa thiểu? Buổi sớm mùa xuân Giấc ngủ đêm xuân không biết trời sáng Nơi nơi đều nghe thấy tiếng chim hót Đêm qua trong gió mưa Chẳng hay hoa rụng nhiều hay ít? (I) Trần Dần: Xin xem: PHÊ BÌNH VĂN HỌC: TỨ BỀ THỌ ĐỊCH - ĐỖ NGỌC THẠCH . (II) Trần Đức Thảo (1917- 1993) là nhà nghiên cứu triết học.Trần Đức Thảo sinh tại thôn Song Tháp, xã Châu Khê, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh, tháng 11 năm 2008, đã đổi thành Song Tháp, Phường Châu Khê, Thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Năm 1936, ông được nhận học bổng sang Paris , Pháp để thi vào trường Đại học Sư phạm Paris . Ông tốt nghiệp thạc sĩ triết học hạng nhất tại Pháp lúc mới 26 tuổi (1942). Thay mặt sinh viên và trí thức Việt Nam du học ở Pháp, Trần Đức Thảo đã viết thư gửi về Tổ quốc, bày tỏ tình yêu nước nồng nàn đối với đất nước vừa giành được độc lập hồi tháng 8 năm 1945. Lá thư được in trên tờ Cờ giải phóng, cơ quan của Đảng CS Đông Dương. Năm 1952 ông về chiến khu Việt Bắc tham gia kháng chiến chống Pháp. Năm 1955, ông trở thành giáo sư Triết học và là Phó Giám đốc Đại học Sư phạm Văn khoa, Chủ nhiệm Khoa Lịch sử, Đại học Tổng hợp Hà Nội (nay là Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội). Ông bị quy tội dính líu đến phong trào Nhân văn Giai phẩm khi công bố hai bài báo có bàn đến một số vấn đề về tự do, dân chủ. Sau vụ Nhân văn Giai phẩm, ông thôi giảng dạy ở trường Đại học và làm chuyên viên nghiên cứu. Năm 1992, ông sang Pháp chữa bệnh kết hợp với nghiên cứu và mất tại Paris vào năm sau. Di hài ông được nhà nước đưa về an táng tại Khu A Nghĩa trang Văn Điển, Hà Nội. Năm 2000, ông được nhà nước Việt Nam truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về khoa học xã hội. (III) Đặng Đình Hưng (1924-1990). quê làng Thụy Dương, huyện Chương Mỹ, Hà Đông..Bắt đầu làm thơ từ cuối những năm 1950, đến khi qua đời (21-12-1990) Đặng Đình Hưng để lại tất cả 6 tập thơ. Tất cả đều chưa từng công bố rộng rãi, song một vài đoạn trích được in trên các báo vào dịp ông qua đời khiến công chúng thơ sửng sốt vì một tính cách thơ, một thi pháp hết sức độc đáo. Bến Lạ là tập thơ đầu tiên xuất bản sau khi ông mất, NXB Văn Nghệ TP.HCM,1991. (IV) Trần Đĩnh xem: ĐỌC LẠI "BÓNG CHỮ" CỦA LÊ ĐẠT - ĐỖ NGỌC THẠCH (V) Hoàng Cầm (1922-2010), tên thật là Bùi Tằng Việt, sinh ra tại làng Lạc Thổ, nay là xã Song Hồ, huyện Thuận Thành, Bắc Ninh, trong một gia đình nhà Nho nghèo sống bằng nghề làm thuốc Đông y. Ông làm thơ từ năm lên tám, chín tuổi, bắt đầu được in từ những năm 1936 - 1937. Bút danh Hoàng Cầm xuất phát từ tên của một vị thuốc quý. Những năm kháng chiến, Hoàng Cầm gia nhập quân đội, chuyên hoạt động trong lĩnh vực văn hóa nghệ thuật. Năm 1957, ông là một trong số những hội viên tham gia sáng lập Hội Nhà văn Việt Nam . Sau đó, ông tham gia nhóm Nhân văn Giai phẩm và thôi công tác tại Hội Nhà văn. Những tác phẩm chính: Trương Chi (xuất bản năm 1993), Bên kia sông Đuống (thơ, 1948), Kinh Bắc (thơ, 1959), Men đá vàng (truyện thơ, 1973), Mưa Thuận Thành (thơ, 1959), Lá Diêu Bông (thơ, 1993), Đến từ hư không (thơ, 2000)...Năm 2007, Hoàng Cầm được trao Giải thưởng Nhà nước về văn học Nghệ thuật. (VI) Phùng Quán (1932-1995) quê xã Thủy Dương, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên - Huế. Bắt đầu viết trong khoảng thời gian của cuộc kháng chiến chống Pháp và khẳng định được văn tài với Vượt Côn Đảo nhưng ông được biết đến nhiều hơn sau Đổi mới. Năm 1945, ông tham gia Vệ quốc quân, là chiến sĩ trinh sát Trung đoàn 101 (tiền thân là Trung đoàn Trần Cao Vân). Sau đó ông tham gia Thiếu sinh quân Liên khu IV, đoàn Văn công Liên khu IV. Đầu năm 1954, ông làm việc tại Cơ quan sinh hoạt Văn nghệ quân đội thuộc Tổng cục chính trị Quân đội nhân dân Việt nam (tiền thân của tạp chí Văn nghệ quân đội). Tác phẩm đầu tay Vượt Côn Đảo của ông được giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam năm 1955. Không lâu sau đó, Phùng Quán tham gia phong trào Nhân Văn - Giai Phẩm. Khi phong trào này chấm dứt Phùng Quán bị kỷ luật, mất đi tư cách hội viên Hội Nhà văn VN và phải đi lao động cải tạo ở nhiều nơi. Từ đó đến khi được nhìn nhận lại vào thời kỳ Đổi mới, Phùng Quán hầu như không có một tác phẩm nào được xuất bản, ông phải tìm cách xuất bản một số tác phẩm của mình dưới bút danh khác. Năm 1988, cuốn tiểu thuyết Tuổi thơ dữ dội của Phùng Quán được xuất bản và nhận Giải thưởng Văn học Thiếu nhi của Hội Nhà văn VN hai năm sau đó. Ngoài văn xuôi, Phùng Quán còn sáng tác thơ và có nhiều bài thơ nổi tiếng như: Lời mẹ dặn, Hôn, Đêm Nghi Tàm đọc Đỗ Phủ cho vợ nghe...Năm 2007, ông được truy tặng Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật, do Chủ tịch nước ký quyết định tặng riêng. * Cuối cùng thì điều gì là “Đặc sáng” ở Tiểu luận của Lê Đạt? Tôi xin đưa ra hai điểm “Đặc sáng” ở Lê Đạt là: 1/Lê Đạt thường dẫn lời nói hay của những nhân vật mà ông tâm đắc rồi dùng đó làm “điểm tựa”, “bàn đạp” cho việc triển khai ý tưởng của mình. Đó là cách làm quen thuộc song Lê Đạt đã “Làm mới” lời dẫn bằng suy nghĩ bất ngờ và độc đáo của mình. Chẳng hạn như Lê Đạt viết: “Nhà thơ Valéry của Pháp từng nói: “Thượng đế bao giờ cũng miễn phí cho nhà thơ câu thứ nhất”,“Để khuyến khích anh ta tiếp tục câu thứ hai đừng xoàng quá”. Những câu thơ hay thường là sản phẩm của công ty hợp doanh giữa thượng đế và phu chữ. Nhà thơ phải suốt đời cần cù chữ. Phải có sự trao đổi giữa chữ và nhà thơ và nhà thơ với chữ, nhà thơ phải dân chủ với chữ, phải để chữ có quyền dân chủ và tham dự cuộc bầu cử”. 2/ Đối với những cái gọi là “Chân lý vĩnh cửu”, Lê Đạt tỏ thái độ rất dứt khoát, rõ ràng - đó là bản lĩnh và độ lớn của một Nhà thơ: “Quan niệm Đông phương “Văn dĩ tải đạo” nghĩa là ý tưởng có trước và ngôn ngữ chỉ để truyền tải ý tưởng. Tuy nhiên, quan niệm này không còn phù hợp với văn thơ hiện đại. Trong sáng tác, các nhà thơ thường phải lập tứ, lập ý, chữ chỉ để diễn đạt ý. Nhưng với tôi, văn và ý ngang nhau, cũng có thể ý có trước hoặc văn có trước, nếu ý đến trước thì phải tiếp nhận nó, và nếu chữ ðến trước thì phải mở cửa mời nó vào, không được đuổi nó đi. Nhà thơ phải lễ phép với chữ. Nhà thơ quan liêu với chữ là nhà thơ vứt đi…Chúng ta thường quen với việc đề ra một chủ trương rồi làm thơ thực hiện chủ trương. Nhưng với tôi, khi bước vào bài thơ ta phải quên chủ trương đó đi. Một nhà văn từng phát biểu: Tác phẩm nói lên sự thất bại của mọi chủ trương lý luận có trước! Khi viết phải tự do, phải thoải mái, phải vui. Nếu viết cứ theo lý thuyết thì cả đời sẽ buồn bã và có khi trở thành nhà thơ chán đời. Có ba câu thơ rất Lê Đạt mà mỗi lần đọc lên là thấy hình ảnh ông đang cười cười hiện ra: Tuổi lú lẫn ngược nhầm ga trẻ dại Hay ngây ngô không biết lối về già Thơ thẩn chữ ngã ba… Sài Gòn, tháng 11-2010 ---- Chú thích: (1) Lê Đạt (1929-2008): Tác phẩm chính: 36 Bài Thơ Tình (chung với Dương Tường, 1990); Thơ Lê Đạt - Sao Mai (chung với Sao Mai, 1991); Bóng chữ (Thơ -1994); Ngó lời (Thơ - 1997); Đối thoại với đời và thơ (NXB Trẻ, 2008); U 75 Từ Tình (thơ và đoản ngôn, NXB Phụ Nữ, 2008); Đường Chữ (tiểu luận, NXB Hội Nhà Văn, 2009; 644 trang). (2) Xem bài viết của Nguyên Ngọc: Lê Đạt, Người Hiền - Nguyên Ngọc(3) Nhà thơ Lê Đạt: Người lạc quan ngoan cố - Hoàng Hưng(4) "Thơ là một lạng cảm hứng cộng với một tạ mồ hôi!" - Nguyễn Việt Chiến (5) Chất vàng mười Lê Đạt – Chu Văn Sơn(6) Đông La: Thơ và Vật lý hay bỏ đường quang đâm quàng bụi rậm(7) Xem thêm 4 bài tiểu luận có liên quan của Lê Đạt như Lý tính phê bình, Văn hóa đối thoại, Lời quê và Cái khác…: Cái khác... – Lê ĐạtSau khi sáng chế ra những máy móc lực sĩ trợ giúp con người trong lao động cơ bắp, các nhà khoa học thế kỷ XX đã sáng chế ra những máy móc thông minh (một khả năng mà các nhà thần học cho rằng đó là ân sủng đặc biệt mà Thượng đế dành riêng cho con người). Một số nhà văn lo xa và quá giầu tưởng tượng đã nghĩ đến những cốt truyện khá hấp dẫn và đầy gay cấn về cuộc đua tranh giữa nguời máy và người thật.Và đã có những bộ óc sáng suốt không nghĩ rằng tin học có thể giải quyết được cơn khủng hoảng của lý tính. Máy tính đúng là một sáng chế vĩ đại của trí tuệ con người. Nhưng máy tính dầu ở thế hệ mấy chăng nữa cũng làm việc theo những chương trình đã định sẵn (dẫu là những chương trình mở) và chẳng bao giờ nó có thể trả lời được những câu hỏi cơ bản từng trăn trở nhân loại từ khi giã từ kiếp bốn chân để đứng thẳng bước vào kiếp người cho đến giờ: con người từ đâu đến? con người đi đến đâu? Con người sống để làm gì? Sự tiến bộ thần tốc của tin học, của kỹ học diễn ra trong nửa cuối thế kỷ đầy những bi kịch về mặt xã hội của loài người. Liên Xô tan rã kéo theo sự tan rã của Đông Âu. Các sắc tộc, các dân tộc đứng lên đòi hỏi quyền được sống với đặc tính văn hóa, với sắc thái của riêng mình. Về căn bản, đó là những đòi hỏi chính đáng, nhưng chen vào là những tham vọng, những thái độ cực đoan, phục thù. Và súng lại nổ - Và máu lại chảy - Những dân tộc hôm qua còn sống cùng một chung cư, nếu không phải như anh em thì cũng như những láng giềng tử tế, bỗng chĩa súng vào nhau đòi hỏi “quyền lợi chính đáng” của mình bằng bạo lực. Cơn thảm kịch của Nam Tư, của một số nước Cộng hoà trong Liên Xô cũ, những cuộc xung đột sắc tộc dữ dội tại nhiều nước. Rồi nạn đói thảm khốc tại Châu Phi, kết quả của những cuộc nội chiến đẫm máu. Rồi sự phát triển của bệnh cồng tín của đủ các thứ tôn giáo, của thái độ mê tin dị đoan đội lốt khoa học. Một cơn bão hằn thù không khoan nhượng đến những trận cuồng phong mây mưa trên khắp trái đất. Nạn khủng bố phát triển mau lẹ trên cơ thể nhân loại như những tế bào ác tính vào giai đoạn kịch phát. Trước những bước đi vũ bão của khoa học, hình như một số người đã quên rằng mọi sự sùng bái đều mù quáng, kể cả sự sùng bái lý tính. Sự sùng bái lý tính chỉ là cực đổi dấu của sự sùng bái tôn giáo – cả hai đều một chiều – và dựa trên một nguyên lý nổi tiếng đã có từ thời Arixtốt – nguyên lý loại trừ về thứ ba. Hoặc đúng hoặc sai, không có vế thứ ba. Hay nói một cách khác: Kẻ nào không đi với ta là chống lại ta. Chính nguyên lý nặng hệ quả của các quyết định luận cơ học, đã là cha đẻ của mọi tư duy máy móc, mọi thái độ không khoan nhượng, mọi sự hận thù, kỳ thị. Vật lý lượng tử khi đưa vào nguyên lý bất định đã buộc phải đổi mới cách tư duy loại trừ, từ lâu vẫn thống trị nhân loại. Bên cạnh hai vế đúng/ sai/ nó đưa vào một vế thứ ba và chúng ta có một bộ ba mới đúng/sai/khác. Tôi khác anh không có nghĩa là tôi chống lại anh. Hơn nữa tôi có thể bổ sung cho anh. Hệ quả lớn nhất của thuyết bất định là đề nghị dùng nguyên lý bổ sung thay thế nguyên lý loại trừ. Con người thế kỷ XXI phải làm quen với một thế ổn định động, lý tính phải làm quen với sự bất định lý tính phải mở cửa cho sự bất định thương lượng với nó, nhân nhượng ký kết với nó những thoả ước ổn định trong từng thời hạn, trung hạn, ngắn hạn... Nói vậy không phải hạ thấp lý tính, tuyên truyền cho sự thoả hiệp và lý tính ba phải. Mà là đẳng cấp lý tính lên một mức trưởng thành mới, rũ bỏ những định kiến, những ngộ nhận máy móc, tăng cường tính hiệu lực của lý tính. Việc phát triển một số những lý thuyết khoa học gần đây về hỗn độn học (chaologic) về những cấu trúc phân tán (structures dissipatives) cho ta thấy những bước đầu đầy khích lệ của lý tính kiểu mới. Một trong những khó khăn của loài người là ngôn từ thường phát triển chậm hơn tư duy. Và nhiều khi chúng ta phải sử dụng những ngôn từ đã quá đát chưa được xác định để biểu hiện những thay đổi mới. Tôi e rằng biểu thức rất phổ biến cũng như rất nổi tiếng “thương trường là chiến trường” vẫn còn mang hơi hướng của thời độc thoại, loại trừ cũ. Nhu cầu đối thoại đòi hỏi một cách ứng xử mới phù hợp, đó là sự chung sống hòa bình trên cơ sở những thương lượng nhiều khi rất gay gắt nhưng không phải để loại trừ nhau mà để cùng tồn tại, cùng có lợi. Thế kỷ XXI mong rằng sẽ là một thế kỷ hòa bình, cởi mở, hiệp thương và tương nhượng. Thế giới là một sân chơi lớn – và không ai chơi một mình. Con người phải tập làm quen với cái khác, bắt tay liên doanh với nó coi nó như một bên đối tác lâu dài. Văn hóa đối thoại – Lê Đạt Với đà phát triển tăng tốc của "toàn cầu hóa" đối thoại đã vượt khỏi giới hạn một kỹ năng và trở thành một phạm trù mới của đạo đức. 1) Một trong những tiến bộ đáng nể nhất của tư duy hiện đại là đã vượt qua thời nguyên lý loại trừ bước sang kỷ nguyên của nguyên lý bổ sung. Nguyên lý loại trừ có một sức ỳ thâm căn cố đế vì nó đã chế ngự tư duy nhân loại đằng đẵng hàng nghìn năm trời. Nó vận hành trên hai vế đúng/sai và không công nhận, tuyệt đối không công nhận có vế thứ ba. Cách hành xử của nó là độc thoại và cao trào của nó là định kiến: kẻ nào không đi với ta là chống lại ta. Phong cách của nó là khép kín, bảo thủ, hẹp hòi và độc đoán. Lịch sử còn nhớ lời phát ngôn nổi tiếng của Goebel một cánh tay đắc lực của Hitle: "Khi tôi nghe thấy từ văn hóa, tôi rút súng ra". Nguyên lý bổ sung cung cấp cho vận hành tư duy hiện đại một vế thứ ba: cái khác. Cách hành xử của nó là đối thoại. Phong thái của nó là cởi mở, dung nhận, thực sự cầu thị, bình đẳng và đoàn kết. Nó phủ-nhận mọi chân lý độc tôn, tất định. Nó khuyến khích mọi cuộc tranh luận, mọi ý kiến khác biệt trên con đường không có kết thúc (non finito) của hành trình chân lý. Nguyên lý bổ sung của Bohr và đôi bạn đồng hành nguyên lý bất định của Heisenberg và nguyên lý bất toàn của Godel hoạt động như bộ ba "ngự lâm quân pháo thủ" của tư duy hiện đại. Hiểu biết của con người ngày một trưởng thành. Con người ngày càng hiểu rằng tri thức của mình là hữu hạn, rằng chân lý là một quá trình tiếp cận trường kỳ, chân lý luôn luôn trên đường đi và không có ngày Chúa nhặt cũng như không có một công ty độc quyền chân lý. Xây dựng một nền văn hóa đối thoại hết sức bức thiết nhưng cũng trường kỳ khó khăn vì loài người sống quá lâu năm trong thói quen độc thoại- Nó như một bóng ma bất đắc kỳ tử luôn luôn ám ảnh hành trình đối thoại của loài người. 2) Tôi xin phép được nhắc lại và nhấn mạnh đề phòng mọi sự hiểu lầm. - Độc thoại là tin rằng mình đã nắm vững chân lý và chỉ có nhiệm vụ cao cả là thuyết phục kẻ khác chấp thuận. Tật cố hữu của nó là áp đặt cửa quyền và sốt ruột. Các nhà tri thức học gọi đó là phong cách nóng (hot). Như trên đã nói: với người độc thoại chân lý là đã có sẵn và ở phía sau lưng nên do đó thường có tính chất bảo thủ tự mãn và đa nghi. - Đối thoại, ngược lại, tin rằng chân lý không phải một tiền đề (précepte) mà một hậu đề (postcete) kết quả của một quá trình phân tích, thảo luận, xây dựng của nhiều người nên phong cách của nó là thành khẩn, bình tĩnh và dân chủ. Giới học thuyết gọi đó là phong cách mát (cool). 3) Từ thời mở cửa chúng ta đã bắt đầu xây dựng được một sinh hoạt đối thoại khá tốt. Trên báo chí và các phương tiện truyền thông đại chúng đã xuất hiện những cuộc thảo luận tương đối có chất lượng. Nhưng phải nói thật với nhau, để xây dựng được một nền văn hóa đối thoại thực chất còn rất nhiều điều cần phải làm. Một số cá nhân hoạt động văn hóa "nhà nọ nhà kia" hẳn hoi trong lúc tranh cãi về học thuật đã cãi nhau theo nghĩa đen với những lời lẽ rất mất vệ sinh của đám người ngoài chợ. Một số người còn mắc bệnh cay cú "cãi lấy được" cố tìm cách moi móc, cố tình đánh những đòn hiểm (?) để hạ "nốc ao" đối thủ. Chúng ta phải cố gắng trọng thị hơn nữa những bạn đối thoại với ta (đó cũng là thái độ tự trọng) và cố gắng "fair play" (chơi đẹp) đến mức tối đa có thể như những vận động viên có tư cách. Cái bi kịch cũng như cái lớn lao của con người là: Điều gì cũng phải học và điều gì cũng có thể học được. Học ăn, học nói, học gói, học mở. Học nói chính là văn hóa đối thoại. Ngay từ thời xa xưa các cụ ta đã có những lời khuyên hết sức tiên tiến và đậm đà bản sắc dân tộc về đối thoại. Chẳng hạn: "Lời nói không mất tiền mua/Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau", "Lời chào cao hơn mâm cỗ", "Một sự nhịn là chín sự lành", "Nói phải củ cải nghe cũng được". Trong đối thoại một đòi hỏi quan trọng là phải biết lắng nghe. Một thiền sư dạy: Không phải vô cớ mà trời sinh ra con người có hai tai và một miệng. 4) Đầu thế kỷ XX trước thiên hướng chuyên môn hóa cao của khoa học, Nitsơ đã lo rằng một ngày không xa con người sẽ chuyên môn hóa đến mức trở thành những thằng gù (?) Như những Cátxăngđrơ (cô đồng báo điềm gở), các trí tuệ lớn thường đứng ở điểm lâm nguy của nhân loại. Mặc dầu khả năng tiên tri lỗi lạc, Nietzsche cũng chưa vượt qua được nguyên lý loại trừ của thời đại mình. Cơ nguy chuyên môn đến mức "gù hóa" là có thật nhưng chưa bao giờ người ta đề cập đến những khoa học liên thông liên ngành nhiều như bây giờ. Nhà bác học lớn người Bỉ Prigogine còn công khai hô hào cho một khối liên minh mới giữa tất cả các ngành khoa học tự nhiên và xã hội để tạo dựng một cái nhìn nên thơ và đỡ khô cứng đối với sự sống. Và những câu nói "hội nhập", "toàn cầu hóa" gần như đã trở thành lời nói cửa miệng của thế kỷ XXI. Văn hóa đối thoại đã trở thành một yêu cầu bức thiết hơn bao giờ hết. Lý tính phê bình – Lê Đạt Khoa học và kỹ thuật cuối thế kỷ XX tiến như vũ bão. Hình ảnh chiếc hia bảy dặm trong cổ tích sợ còn lạc hậu so với tốc độ phát triển của ngành tin học. Cái “đổi mới" hôm nào hôm nay đã trở thành “đời cũ” bán hạ giá ở chợ trời. Người ta đã tạo ra con cừu Dolly bằng phương pháp sinh sản vô tính. Người ta đã phát hiện ra mật mã của gen, điều mà từ trước đến nay Thượng đế vẫn găm giữ trong cuốn sách ngữ pháp tuyệt mật của Thâm thiên cung cấm kỵ đối với hạ giới. Có người đã tính đến việc kinh doanh bất động sản trên mặt trăng như kinh doanh bất động sản ở những khu đô thị sắp mở. Hầu như không gì ngăn cản được bước tấn công của lý tính khám phá. Một lần nữa, một số các nhà văn, nhà thơ, nhà truyền thông lại có cơ hội ca ngợi sức mạnh vạn năng của khoa học thực nghiệm và bước đi bạt núi ngăn sông của nó. Giữa giàn kèn đồng ồn ào trên, tiếng nói nhỏ nhẹ của một nhà tri thức học (épistémologie) người Pháp gốc Nga, Koyrê thật lạc lõng, thậm chí hơi bị bất lịch sự: "Tôi từng nói rằng khoa học hiện đại đã lật nhào bức rào ngăn cách những vùng trời với quả đất, rằng khoa học liên kết và thống nhất vũ trụ. Điều đó đúng, nhưng tôi cũng nói rằng nó tiến hành công việc trên bằng cách thay thế thế giới những chất lượng và những tri giác cảm thụ của chúng ta, thế giới trong đó chúng ta sống, yêu và chết, bằng một thế giới khác, thế giới của số lượng, của hình học đã được thần thánh hóa, thề giới trong đó mặc dầu có chỗ cho tất cả mọi thứ, chỉ không có chỗ cho con người. Người ta có thể chê Koyrê là một nhà triết học nhiễu sự và hơi quá đát (ông mất năm 1964) nhưng Prigogin, nhà hóa học nổi tiếng, giải Nobel năm 1977, không những không phản bác ý kiến nhà triết học mà còn lớn tiếng phụ họa: "Việc thí nghiệm chất vấn tự nhiên theo cách một quan tòa nhân danh những nguyên lý đã định... đó là một tự nhiên bị đơn giản hóa, được chuẩn bị sẵn, đôi khi bị cắt xén tùy thuộc vào giả thiết có trước... Cái mà khoa học cổ điển đụng chạm tới tự khô héo và chết, chết đối với sự đa dạng chất lượng, đối với sự độc đáo, để đơn thuần trớ thành hệ quả một quy luật phổ biến". Ông còn nói thêm: "Khoa học cổ điển bao giờ cũng giá định từ trước sự xuẩn ngốc đơn điệu của thế giới mà nó chất vấn". Việc phá hoại nghiêm trọng tự nhiên với sự tiếp tay của khoa học kỹ thuật dưới chiêu bài cải tạo vũ trụ, việc trả đũa không kém phần quyết liệt của tự nhiên qua những trận bão lụt hạn hán kinh thiên động địa, qua hiệu ứng nhà kính đầy hậu họa khôn lường đã đánh thức mối bận tâm đột ngột có tính toàn cầu đối với việc bức thiết phải bảo vệ môi trường sống của con người, trước khi quá muộn. Nó đánh dấu một bước ngoặt của khoa học. Khoa học đã có khuynh hướng bỏ dần cuồng vọng vĩ đại làm chủ một tự nhiên, đơn giản, ù lỳ, ngoan ngoãn và dắt mũi nó theo những ý hướng chủ quan nhiều khi thiếu khôn ngoan của những hoạch định vội vàng. Càng ngày càng có nhiều nhà trí thức yêu cầu khoa học phải chú ý đến tính chất đa dạng, phức hợp, phong phú (thi vị nữa) của tự nhiên, lắng nghe và thành thật đối thoại với nó một cách khiêm tốn và hợp tác. Thời đại đòi hỏi khoa học phải mở một cuộc liên minh quy mô lớn với các ngành khoa học nhân văn khác, với triết học và nghệ thuật, nói tóm lại xây dựng một khoa học của con người với tư cách là thành viên của tự nhiên chứ không phải với tư cách một tiểu thượng đế từ trên nằm xuống. Prigogin nêu ra một hình ảnh rất hay: “Người ta nói rằng để quan niệm đầy đủ hơn những hệ quả tính chất hằng số phổ biến của tốc độ ánh sáng, Einstein đã tưởng tượng mình cưỡi một phôtông, nhưng cơ học lượng tử đã phát hiện được rằng chúng ta hoặc những dụng cụ đo của chúng ta quá nặng, để có khá năng cưỡi một phôtông hay một electron". Dầu là một thiên tài, nhà bác học vẫn chi là một con người nặng cân. Càng ngày con người càng nhận thức được rằng lý tính khám phá đôi lúc quá say sưa với những thành tựu mà thiếu tinh táo nhìn lại bản thân nó. Lý tính khám phá có phút quên mất rằng ánh sáng chiếu vào vùng này thì lại để tối ở vùng khác. Từ cổ xưa, các nhà triết học phương Đông đã nhắc nhở: “Bóng tối nằm ngay trên đĩa đèn”. Và thế giới lý tính còn không ít những “vùng mù”. Người ta thường nói thời đại mới là thời đại của khoa học, của trí thức. Nhưng tri thức không phải là một chức danh, một bằng cấp (dầu là thứ thiệt) để hưởng lộc suốt đời. Nó đòi hỏi một quá trình phấn đấu không ngừng để tự hoàn thiện. Hình như Kant tác giả bộ “Phê bình lý tính thuần túy” sau khi trở thành một nhà triết học lừng lẫy được nhiều người ca ngợi và bình giảng, đã nói: “Thượng đế hãy giúp tôi đối phó với đám bạn bè, còn kẻ thù thì tôi có thể đảm trách được”. Sự phát triển của khoa học thực nghiệm đòi hỏi sự phát triển của một ngành học anh em mà người ta gọi là trí thức học hay theo cách gọi của người Anglo Saxon, ngành triết - khoa học, nó chính là chuyên ngành của lý tính phê bình. “Người ta nhận ra tính duy lý thật sự ở khả năng tự nhận ra những thiếu xót của bản thân nó”. Lời quê – Lê Đạt Hai chân sau đứng thẳng chung chiêng vùng ẩn số, Hai chân trên nghều ngoào phôi chữ một khai nguyên 1. Vào buổi bình minh của lịch sử, khi khoa học tự nhiên còn sơ khai, trước sự chuyển động của dòng đời ngổn ngang trăm mối, các bộ óc của nhân loại, các nhà triết học đã cố gắng xây dựng những hệ thống kiến thức, tìm cách an bài mọi sự và cung cấp cho loài người những mô hình ổn định bao gồm mọi mặt sinh hoạt của xã hội. Đó là những tòa kiến trúc tổng thể vĩ đại nhằm minh giải nguồn gốc của vũ trụ cũng như quy định những thân phận rõ ràng cho từng thành phần trong cộng đồng. Người ta dễ dàng coi đó là những chân lý hiển nhiên. Nhưng cuộc sống muôn màu muôn vẻ vẫn cảm thấy chật chội trong những cấu trúc vĩ đại đó. Vì thế nảy nòi một loại những triết gia "bụi" luôn đề ra những nghịch lý cốt để chứng minh tính thiếu sót cố hữu của mọi kiến trúc tổng thể. Lâu đời và nổi tiếng nhất là “nghịch lý thằng Cuội”. Nghịch lý đó như sau: “Tất cả dân đảo Crete đều cuội” Các nhà triết học đã vò đầu bứt tai mãi mà không giải quyết ổn thỏa được nghịch lý này. - Nếu tất cả dân đảo Crète đều nói dối, thì với tư cách là một người dân đảo Crète, anh cũng nói dối, lời nói của anh không đáng giá nửa xu. Nếu anh nói thật, có nghĩa là dân đảo Crète không phải tất cả đều nói dối. Hình như mọi sự rắc rối đều phát sinh từ hai thứ "tất cả". 2. Bước tiến bộ như vũ bão của khoa học tự nhiên, đánh dấu sự suy tàn của siêu hình học. Khỉ Napoléon khen nhà thiên văn học Laplace : "Trong cuốn sách của ông tôi không hề thấy từ Thượng Đế xuất hiện dù chỉ một lần". Laplace điềm nhiên trả lời: "Tâu bệ hạ, Thượng Đế đã trở thành một khái niệm vô dụng". Sự xuất hiện của Newton cùng thuyết vạn vật hấp dẫn tuyệt mỹ của ông đã khiến nhà thơ mù người Anh Milton thốt lên:“Và Newton xuất hiện, mọi sự đều sáng tỏ”. Khoa học tự nhiên và quyết định luận của nó tưởng như đã có thể vĩnh viễn ngự trị tất cả thế giới. Những thể nghiệm nghiêm ngặt và công phu tại các phòng thí nghiệm khiến các nhà khoa học tin rằng cuối cùng mình đã nắm được hiện thực và do đó có thể điều khiển được nó - như tiểu Thượng Đế thực sự. Ngày hội đương đông vui rôm rả lại bỗng xuất hiện những khách không mời mà đến. Niels Bohr ông tổ thứ nhất của ngành vật lý lượng tử quẳng ra một lời phát biểu hết sức "chối tai": "Hiện tượng không phải là hiện thực, nó là hiện thực cộng với dụng cụ quan sát và người quan sát". Chưa hết, ông còn bồi thêm một đòn trí mạng nữa thông qua lý thuyết bổ sung: "Ánh sáng vừa là hạt vừa là sóng". Vậy thì kết cục ánh sáng là gì? Người bạn đồng hành của Bohr, Heisenberg bắn thẳng vào quyết định luận cổ điển bằng "nguyên lý bất định" và chứng minh rằng "chân lý thiêng liêng" kia không phải đúng ở mọi nơi mọi lúc, nó không hiệu lực trong thế giới các hạt. Nhà triết học người Áo Adomo kết luận một cách "tàn nhẫn": "Sự tất cả (latotalité) là điều phi chân lý". Còn nhà tri thức học người Anh, Popper thì khẳng định không úp mở: "Các lý thuyết khoa học thực nghiệm đều là giả thuyết". Các nhà khoa học dù vĩ đại đến đâu cũng chỉ là một con người với thân phận hữu hạn của nó. Và trời đất thì vô cùng. Khoa học chỉ là một chuỗi "tiếp cận trường kỳ không có dấu chấm hết" . 3. Bất giác nhớ tới nhà thiền học Nhật Suzuki: "Một sự vật trở thành hài hước khi bị kéo ra khỏi khung cảnh hạn hẹp của nó để được đặt vào một khung cảnh khác rộng lớn hơn". Và nhà văn lớn người Đức Herman Hesse: "Sự nghiêm túc là một hiểu lầm xuất phát từ thời gian. Nó là kết quả của sự phóng đại giá trị thời gian. Trong vĩnh hằng thời gian không tồn tại. Vĩnh hằng là một khoảnh khắc vừa đủ cho một lời bông phèng". 4. Người ta thường có thói quen phân định rạch ròi: a. Khoa học là thế giới của lý tính (logic); b. Nghệ thuật là thế giới của tưởng tượng. Đó là một sự phân định sai lầm và có hại. Nhà khoa học không có tưởng tượng chỉ là một công chức khoa học thồ một khối kiến thức nặng nề trên lưng như "cái bướu của một anh gù" (chữ của Nietzsche). Nhà nghệ thuật thiếu lý tính chỉ là một nghệ sĩ thứ phẩm mắc bệnh vĩ đại cũng cần chữa trị hoặc nên đổi nghề. Heisenberg nhận xét: "Khoa học và nghệ thuật trong quá trình nhiều thế kỷ, tạo thành một ngôn ngữ của con người qua đó chúng ta có thể đề cập đến những phần ẩn náu sâu kín nhất của hiện thực". Và Poincaré, một trong những ông tổ của ngành toán xác suất: "Điều cốt tử trong tinh thần toán học không phải tính logic mà mỹ học, sự sai không còn được coi như một khuyết điểm mà được coi như một yếu tố chức năng tham dự vào quá trình phát triển của trí tuệ". Nó chính là gốc của phương pháp “thử và sai" trong khoa học. 5. Tưởng tượng cũng có nhiều cấp. Có tưởng tượng cao cấp và tưởng tượng hạ cấp. Phải học tập để nâng cao tưởng tượng. Khi trái táo rụng xuống đầu, kẻ dung tục tưởng tượng ngay ra một đĩa bánh táo ngon lành. Còn Newton tưởng tượng ra trọng lực và thuyết vạn vật hấp dẫn. 6. Theo Borgès, một trong những nhà văn kiệt xuất nhất thế kỷ XX, không ít người trở thành độc ác vì thiếu óc tưởng tượng. Và ông hết lời ca ngợi một người bạn đã có khả năng tưởng tượng ra 12 tôn giáo "để mọi người có thể mỗi tháng thay đổi tôn giáo một lần và những người sinh vào tháng giêng có thể có một tôn giáo khác với những người sinh vào tháng chạp". 7. Tôi không phủ nhận vai trò những dụng cụ tinh xảo, nhưng tôi có cảm giác về số người quá nhấn mạnh đến vai trò (quyết định) của chúng.Người ta kể lại rằng khi hai vợ chồng nhà bác học Einstein được mời đến thăm một đài quan sát thiên văn nổi tiếng tại Hoa Kỳ, vị giám đốc có vẻ hơi tự đắc hỏi vợ nhà bác học: "Bà thấy trang thiết bị ở đây thế nào?". Vợ nhà bác học điềm nhiên trả lời: "Hơi nhiều. Khi nghĩ ra thuyết tương đối ông nhà tôi chỉ có một cuốn sổ tay và một cây bút chì". 8. Chúng ta đương đứng trước một thiên niên kỷ mới đầy sôi động, hay nói như các báo "đầy triển vọng nhưng cũng đầy thách thức", nó đòi hỏi chúng ta phải có một óc tưởng tượng táo bạo. Và một lý tính sáng suốt để khỏi rơi vào tình trạng "chân chậm uống nước đục". Nói như Prigorine, thời đại mới đòi hỏi một "cách nghe mới thi vị" trên cơ sở một sự liên minh "mở" rộng rãi giữa các ngành khoa học tự nhiên, khoa học xã hội, triết học và văn học nghệ thuật cố gắng đối thoại một cách sáng tạo với cuộc sống. (8) Người hàng xóm thân thiết - Lê Đạt Các nhà nghiên cứu lịch sử hội họa, nhất là vào khoảng 100 năm gần đây hình như đều chấp nhận một sự thật hiển nhiên: giới thơ là những người hàng xóm thân thiết nhất cũng như đáng tin cậy nhất của hội họa. Ta tạm dẫn ra một vài thí dụ tiêu biểu: Apollinaire từng là bạn của Picasso, Reverdi của Braque, Henri Michaux của Magritte , Aragon của Matisse... Trong vận hành của hội họa, tự nhiên vừa là nguồn cung cấp chất liệu hay nói nôm na là nuôi hội họa đồng thời cũng là đối thủ nguy hiểm nhất của nó. Cái đòi hỏi giống thật ngay từ những ngày đầu trăng đầu nước của mối lương duyên giữa tự nhiên và hội họa đã là nguyên nhân đáng tiếc của không ít những cảnh súp chẳng lành canh chẳng ngọt. Từ trên diễn đàn trang trọng này tôi xin phép tuyên bố ngoài luồng rằng kẻ thù ngoan cố và dai dẳng nhất của hội họa chính là chủ nghĩa tự nhiên. Một số nhà lý luận đứng đắn hẳn hoi cũng đã từng tuyên bố rằng nhiệm vụ chủ yếu của hội họa là ghi lại tự nhiên. Không đợi đến các trường phái hiện đại một trăm năm gần đây, từ thuở trưởng thành chưa bao giờ hội họa tự đặt ra cho mình nhiệm vụ phải ghi lại tự nhiên cả. Nó không có nhiệm vụ phải sao chép tự nhiên mà tạo ra một tự nhiên mang đậm dấu ấn văn hóa của con người. Bức tranh La Joconde của Leonardo da Vinci không đơn thuần là chân dung của bà vợ ngài thương gia Joconde thành phố Milan- Nó dzậy mà không phải dzậy- Nó còn là chân dung của nữ tình. Phân tích một cách chặt chẽ ra mọi tự nhiên trong một tác phẩm hội họa đều ít nhiều có tính chất siêu tự nhiên. Nhà thơ Pháp Jean Cocteau đã diễn đạt ý kiến này theo phong cách bay bướm đặc trưng của ông: "Cái chổi trong tranh Van de Velde bao giờ cũng là hơn một cái chổi, nó là một sinh linh có khả năng đối thoại với trăng sao". Người ta thường khen Cartierr Bretson nhà nhiếp ảnh người Pháp nổi tiếng thế giới đầu thế kỷ XX về những bức ảnh "đời thường" đã đạt tới mức kiệt tác của ông. Đó là một sự hiểu lầm đáng tiếc. Những bức ảnh "đời thường" của Bretson đã trở thành dị thường dưới lóe chớp đốn ngộ của nhà nhiếp ảnh. Việc ra đời của hội họa trừu tượng, dầu muốn hay không muốn đã đánh dấu một bước phát triển ngoạn mục của hội họa. Nhiều người nói rằng lời phát biểu "trên cả tuyệt vời" sau đây: Trừu tượng là một hiện thực khác là của Kandinsky. Điều quan trọng không phải nhà danh họa có nói như vậy hay không. Điều quan trọng là ông đáng được nói câu ấy. Những người cách tân trong hội họa (mà không phải chỉ riêng hội họa) thường bị chê trách là những kẻ phá bĩnh, không biết điều. (Thì ưu điểm nhất của họ là không biết điều). Thiên hạ cho rằng những gò bó của hội họa cổ điển quá khó nên một số họa sĩ trẻ bất tài mới phá phách làm càn. Một nghệ sĩ mà không chế ngự được những gò bó dầu khó khăn đến đâu của nghệ thuật là một nghệ sĩ vét đĩa. Những họa phẩm phong cách cổ điển của Picasso đã đạt tới cái đẹp thánh thiện không thua gì Raphael. Một nghệ sĩ cách tân coi khinh 15 phút những sự gò bó của nghệ thuật cổ điển, nghệ thuật nào chẳng có những cái gò bó của nó, những cách tân của họ chỉ nhằm loại bỏ những gò bó lỗi thời, phi mỹ học và phản nhân tính, để tạo ra những gò bó mới thỏa đáng hơn, cao cấp hơn, tự do hơn. Đã có thời người ta lòe rằng luật thơ Đường là cực khó. Số lượng khổng lồ thơ các cụ tại những đài phát thanh phường chứng tỏ rằng những niêm luật dọa người thật ra cũng chẳng có gì là ghê gớm. Hoạt động sôi động của hội họa Việt Nam một thập niên gần đây với sự ra đời của một số họa sĩ có cá tính đã chứng tỏ rằng các nghệ sĩ trẻ không phải một đám người lập dị, bất tài. Ngược hẳn lại, tôi cho rằng sự phát triển của hội họa không giá vẽ, nghệ thuật sắp đặt, trình diễn, thân thể họa, hội họa kết hợp với truyền hình là những nỗ lực đầy văn hóa của một lớp nghệ sĩ trẻ đã trưởng thành và dám chịu trách nhiệm về mình. Tự do chân chính bao giờ cũng gắn liền với trách nhiệm cao. Người nghệ sĩ một mình đứng trước tác phẩm, không còn được dựa vào những quy chiếu quen thuộc an toàn của quá khứ, chỉ hoàn toàn dựa vào lương tâm của mình có thể coi là hành động dũng cảm và mạo hiểm của những người mở đường. Mở đường bao giờ cũng là một công việc khó khăn, sao ta không giúp đỡ mà lại cản đường họ? Tôi rất tâm đắc câu của một nhà triết học già người Pháp, Paul Ricoeur: "Mỹ học hiện đại càng ngày càng gần với đạo đức học". (9) Một số đoản ngôn của Lê Đạt: Tình yêu Tình yêu có thể là phát minh tốt đẹp nhất, cũng nguy hiểm nhất của văn hóa người. Theo báo cáo mới nhất của W.L.O (World Love Organization): ¾ thế giới thành niên bị bệnh thất tình cấp hay mãn tính. Nói dối Trong các tội nói dối, có lẽ dối già là đáng tha thứ nhất. Người Pháp vốn đa tình đã gọi nó là một tội xinh (péchémignon) Luật đất đai Vĩ nhân ít nhiều đều vi phạm luật đất đai. Họ ăn tốn diện tích quá. Thanh tra thời gian Thanh tra thời gian có nhiệm vụ định kỳ kiểm tra khu ghế V.I.P. tàu xuyên lịch sử và khẽ nhắc nhở “Quý ông quý bà đã ngồi nhầm số”. Giải lao Nhà thơ X. nổi vì quá nhiều phao tiếp thị - Ông muốn chìm chốc lát để giải lao cũng không được. Thật bất hạnh! Thời trang và tu từ Thời trang là thuật của phái đẹp. Tu từ là thuật của nhà thơ, một phái đẹp khác. Thiện ý Các đấng cứu thế nhiều khi làm khổ loài người vì chính thiện ý của họ. Họ thường mắc bệnh sốt ruột. Nitsơ Đọc đâu đó ở Nitsơ: Tôi có một số ý tưởng hay họ toan tính dung tục hóa chúng thành những chân lý. Tham quan Điểm tham quan nóng nhất của lịch sử là Suối Giải Oan. Parménit Parménit, nhà triết học nổi tiếng thế kỷ thứ V trước C.N. là tác giả của câu nói rất hiện đại sau đây: “Người ta ít phát biểu những ý kiến của mình mà thường phát biểu những dư luận”. Thấy và tìm Jăng Cốctô có một nhận xét đặc biệt sâu sắc về người bạn Picatxô của mình: - Đối với Picatxô, điều quan trọng nhất là cường độ. Ông thấy trước, và tìm sau. Tác phẩm Mọi tác phẩm xuất sắc đều là những đứa con cầu tự. Kẻ thù Kẻ thù của bình đẳng là chủ nghĩa bình quân. Thơ cổ điển và hiện đại Trong một bài thơ cổ điển, nghĩa thường đến đúng hẹn. Trong một bài thơ hiện đại, nghĩa thường đến trễ giờ. Nhu cầu Nhu cầu là ham muốn bị quản thúc tại chỗ. Chữ tác, chữ tộ Các đấng thánh hiền dạy tông đồ phải chống lại bản thân, họ thường hiểu phải chống lại kẻ khác. Không có hậu Lộ trình của nhiều nhà cách tân thường không có hậu. Họ đi từ những phân tích mở và độc đáo đến những kết luận đóng và độc đoán. Tự điển mới Quan tham gồm những kẻ có quyền tham quan và cầm nhầm tài sản của Nhà nước.Có vị thẩm phán đề nghị xử lý hành chính họ thật nghiêm về lỗi thiếu trách nhiệm cũng như sơ ý và phạt họ 50.000 tiền pôlime, tiền có độ an toàn cao (!!!) Bình đẳng giới Không có con hoang chỉ có những người bố khai hoang trái phép. Ngôn ngữ bình đẳng giới gọi họ là lâm tặc. Cúng cơm bác Nguyễn Phở Giáo điều là những kẻ vô văn hóa ẩm thực ăn chủ nghĩa cả lông. Nghệ thuật sắp đặt Nghệ thuật sắp đặt có một nhược điểm: Nó thường quên chỗ của tác giả. Đó là một điểm mạnh trong bố cục nhân sự. (hết) | ||||||||
Đỗ Ngọc Thạch | ||||||||
Ngày đăng: 19.11.2010 | ||||||||
| ||||||||
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét