Thứ Tư, 12 tháng 10, 2011

PBVH - Tứ bề thọ địch - Đỗ Ngọc Thạch (bản viết lần 2 có bổ sung)

 http://nguoibanduong.net/mods/News/trumb_pic/1299966593.jpg
Đỗ Ngọc Thạch, Sài Gòn-2010

Tiểu luận

Phê bình văn học - Tứ bề thọ địch * - Đỗ Ngọc Thạch

1.Phê bình nghệ thuật nói chung cũng như phê bình văn học nói riêng ở xứ ta chưa bao giờ tồn tại như một  sinh kế đối với  nhà phê bình. Về lý thuyết, ai cũng thừa nhận phê bình là một bộ môn đặc biệt có “hai quốc tịch” vừa là khoa học vừa là nghệ thuật, và do đó phê bình cực khó, và ai cũng  khẳng định là cực khó, đến như nhà phê bình trác việt Lưu Hiệp (thời Trung Hoa cổ đại) đã viết nên kiệt tác  Văn tâm điêu long (1) ròng rã hơn ba mươi năm trời, được người thời nay nhìn nhận là tác phẩm lý luận, phê bình văn học hoàn  chỉnh và có hệ thống nhất của Trung Hoa cổ đại, đã phải thốt lên : “Tri âm thực là khó thay. Cái âm thực là khó biết, người biết thực là khó gặp. Gặp được người tri âm ngàn năm mới có một lần!”(Văn tâm điêu long).
Ở xứ ta, có lẽ bước vào Làng văn với tư cách là nhà phê bình văn học tài hoa chỉ có một Hoài Thanh với Thi nhân Việt Nam. Và có lẽ cũng chỉ có cuốn Thi nhân Việt Nam ấy là đứng sừng sững như Tháp Chàm (so sánh khập khiễng chăng?) trước bao biến thiên của lịch sử văn học! Ấy thế mà, Thi nhân Việt Nam đã từng bị chính tác giả của nó chối bỏ! Thật khó mà tin được những dòng này viết về Thi nhân Việt Nam là của Hoài Thanh: “…Cho nên sai lầm không chỉ ở chỗ đề cao quá đáng  nhà thơ này hay nhà thơ kia. Có thể nói, toàn bộ sự đánh giá ở đây là sai, vì sai từ gốc sai đi. Ngay những đoạn có vẻ đúng, thực ra vẫn là sai và sai về căn bản” (Lê Đình Kỵ: Thơ với Xuân Diệu, Hoài Thanh, Chế Lan Viên, NXB Cửu Long, l989, tr.71) (2).
Như thế, để có thể nhấn mạnh lại rằng làm nhà phê bình văn học quả là cực khó! Chính vì thế mà cho đến nay, người ta vẫn phàn nàn rằng đội ngũ nhà phê bình văn học (và nghệ thuật nói chung) ít và yếu, rằng không mấy ai chuyên tâm làm phê bình, rằng làm phê bình chỉ là “tay trái” hoặc thi thoảng “đá gà đá vịt” mà thôi!  Có một dạo, ý tưởng thành lập Hội những người làm phê bình văn học (và cả nghệ thuật nói chung) và sẽ có tờ báo chuyên về phê bình văn học làm nức lòng cả những người vốn lấy nguyên tắc đối nhân xử thế “im lặng là vàng” làm lẽ sống ! Nhưng thực ra ý tưởng đó chỉ là ảo tưởng bởi họ chưa thấy hết cái CỰC KHÓ của bộ môn có hai quốc tịch này !... Đúng là “Ảo tưởng chỉ để khổ để tủi “!... 
2. Ở bài viết ngắn này, người viết chỉ xin nêu ra bốn cái KHÓ đủ để thấy nhà phê bình văn học luôn ở trong cái thế “Tứ bề thọ địch” như thế nào ?
MỘT: Đối với những nhà phê bình “ngây thơ chính trị” thì luôn luôn vấp phải cái chuyện “tế nhị và phức tạp” này: không bắt vào được cái “gam”, cái cảm hứng chủ đạo, cái tư tưởng chính thống của thời cuộc, của bối cảnh xã hội, cũng tức là lý tưởng thẩm mỹ của thời đại. Anh ta - nhà phê bình - bị  tác phẩm hút hồn nên quá say mà  mất đi sự tỉnh táo cần thiết để biết rằng lúc nào cần khen, cần tuyên truyền cổ động cho tác phẩm nào và cần “đánh” tác phẩm nào! Chẳng hạn như Đống rác cũ (4) của Nguyễn Công Hoan không được “bới” ra trong lúc ấy; cũng vậy, lúc ấy Vũ Trọng Phụng (5) là “tự nhiên chủ nghĩa” cần phê phán mạnh;  cũng vậy, Màu tím hoa sim (6) của Hữu Loan lúc ấy là phải “đánh”, v.v…Cái chuyện “phức tạp và tế nhị” này có thể đổ lỗi cho THỜI GIAN, đổ tất tần tật, còn “chúng ta” chẳng ai có lỗi, nhưng riêng nhà phê bình thì có lỗi là nói không đúng lúc!... Có thể nói rằng, điều này cản trở rất lớn cho sự hiện diện đích thực của bộ mặt phê bình trong tiến trình lịch sử. Chính vì thế, người đời sau mới có nhiều việc phải làm lại, bộ môn “Khảo cổ học trong văn học” mới có hi vọng phát triển…
HAI : Đối với những nhà phê bình có tâm huyết, luôn khao khát sáng tạo, đi tìm cái mới, sự cách tân thì luôn vấp phải sự cản trở quyết liệt của sự bảo thủ, trì trệ thường được khoác cái áo đẹp: sự ổn định, nền nếp chắc chắn, vững vàng… Ở đây cần nói ngay về một ngộ nhận nguy hiểm thường thấy : người ta thường nói “ổn định để phát triển”; thực ra phải nói: muốn phát triển thì phải luôn đổi mới, cách tân - đó chính là thuộc tính cơ bản của sáng tạo nghệ thuật. Cái mới, sự cách tân nào cũng vậy, trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, khi mới xuất hiện là nguy cơ đe dọa cái cũ, nguy cơ hủy diệt cái cũ, cái lỗi thời, thậm chí có thể làm đảo ngược hoàn toàn mọi cái đã tưởng như an bài, vĩnh cửu, vĩnh hằng. Chính vì thế, người ủng hộ, bảo vệ cái mới luôn ở trong cái thế “một sống hai chết”. Do đó, đòi hỏi nhà phê bình sự dũng cảm tối đa, dám “chịu chơi”, dám đặt cược bằng  cả sự nghiệp của đời mình. Điều này  quả là một thách đố lớn đối với nhà phê bình ở xứ ta vốn bị gánh nặng áo cơm níu kéo tàn khốc…Đã có mấy ai dám “Đặt cược tận cùng chiếu manh”?... Điều này dẫn đến thực trạng đáng buồn của đời sống phê bình văn học là phê bình kiểu dĩ hòa vi quý, vui vẻ cả, thậm chí bốc thơm vô lối, lăng xê mù quáng cả những sản phẩm chưa hội đủ những tiêu chuẩn tối thiểu để được gọi là tác phẩm văn học. Thi thoảng, ở những dịp tổng kết này nọ, ta thường gặp những nhận định chung chung về một nền văn học, nghệ thuật “vừa thiếu vừa yếu”, không có đỉnh cao, không có tác phẩm lớn, không có nhà văn lớn, nghệ sĩ lớn…(7).
Nhưng khi nói về một nhà văn, nghệ sĩ cụ thể thì không tiếc lời tán dương. Nguy hiểm là chuyện này đã trở thành nếp quen cho nên nói nhà phê bình chỉ là anh hề đồng ăn theo sáng tác thì cũng không oan uổng chút nào. Trong bối cảnh đó, những nhà phê bình có nhân cách thì đành thúc thủ với nguyên tắc xử thế của người xưa “im lặng là vàng”!...
BA: Phê bình là sự thẩm định giá trị của tác phẩm. Sự thẩm định này đòi hỏi nhà phê bình phải đứng cao hơn tác phẩm, phải có “con mắt xanh” nhìn thấu suốt sự đa nghĩa, đa thanh, đa tầng của tác phẩm, có thế mới nói đúng và hay về tác phẩm. Vì thế, người ta thường  nói Phê bình vừa là khoa học, vừa là nghệ thuật. Đặc trưng này của phê bình luôn đòi hỏi ngày càng cao đối với nhà phê bình và không phải nhà phê bình nào cũng đáp ứng được. Ở xứ ta, phổ biến là tồn tại kiểu nhà phê bình nghiệp dư, không chuyên nghiệp cho nên không khỏi giật mình khi nhận ra rằng đòi hỏi cơ bản, tiên quyết này đối với nhà phê bình lại  không được coi trọng. Chính vì thế, lối phê bình tùy hứng, tùy tiện phổ biến tràn lan…Câu ca dao xưa “Lỗ mũi mười tám gánh lông / chồng  yêu chồng bảo tơ hồng trời cho” có thể vận đúng vào khá đông nhà phê bình hiện nay. Giá trị đích thực của một tác phẩm, thậm chí sự nghiệp của cả đời một văn nghệ sĩ có hiện tượng “lên voi xuống chó” là không hiếm !...(8)
BỐN : Phải nói rằng, ở xứ ta, nhà phê bình không có “đất dụng võ”.” Đất “ dành cho phê bình trên báo chí vốn rất hạn hẹp, trong khi đó các “Quan văn nghệ” lại tham gia vào khu vực phê bình khá đông, và thường đó là những tiếng nói “chính thống”, có tính chỉ đạo… Vậy là về thực chất, nhà Phê Bình lâm vào cảnh “không một tấc đất cắm dùi”!... Khi mà ý tưởng thành lập Hội Phê bình Văn học và sẽ ra tờ báo Phê bình văn học không thực hiện được như đã nói trên thì chuyện “đất đai” là bất khả kháng. Và câu chuyện về phê bình văn học bao giờ cũng thấy nói hoài mấy câu như: ta không có phê bình chuyên nghiệp, nhà phê bình vừa thiếu vừa yếu, diễn đàn phê bình văn học  vừa loạn chuẩn vừa thiếu văn hóa phê bình , v.v…Đó là chuyện “biết rồi khổ lắm, nói mãi” không dứt !...
3. Những năm “đổi mới” đầu tiên, phê bình tưởng như gặp vận hội mới, diễn đàn phê bình quả là  nhộn nhịp, thu hút cả  những vị giáo sư cao niên vốn chưa hề  viết phê bình bao giờ chẳng hạn như ông thầy học của người viết bài này là giáo sư Đỗ  Đức Hiểu. Giáo sư Hiểu xuất hiện liên tục trên diễn đàn với những bài viết xuất sắc và sau đó đã tập hợp lại trong cuốn ĐỔI  MỚI   PHÊ BÌNH VĂN  HỌC  do NXB Khoa học xã hội liên kết với NXB  MŨI  CÀ MAU in năm 1993. Theo tôi nghĩ , đây là cuốn sách  phê bình văn học  ĐÚNG và HAY nhất sau cuốn THI NHÂN VIỆT NAM của cái “nghiệp” phê bình văn học ở xứ ta…Sau một thập niên  “đổi mới” sôi động, phê bình văn học dường như lại quay về với “nền nếp truyền thống” và đôi khi người ta thấy diễn đàn Phê bình văn học chiêng trống inh ỏi thì chỉ là của mấy anh “múa võ bán thuốc cao” mà thôi. Múa võ bán thuốc cao thì khỏi phải nói gì thêm !...
Bài viết ngắn này không thể bàn kỹ và do đó không có lời kết về câu chuyện dài phê bình văn học. Người viết chỉ hi vọng đánh động “mặt hồ thu” cho các chủ báo nào có lòng yêu bộ môn phê bình văn học thì mở rộng “đất” cho nó, công lao này quả là không nhỏ!...Điều cần nói thêm là cần chú ý “đầu tư” cho các cây bút phê bình văn học có độ tuổi từ “ngũ thập tri thiên mệnh” trở lên, bởi  “sức trẻ” không phải là điều kiện tiên quyết trong phê bình văn học (trẻ người non dạ) mà phải là người có bản lĩnh với “kinh nghiệm đầy mình” trong “trường văn trận bút”!(9)... 
Sài Gòn, tháng 11-2010
----
Chú thích:
(1) Văn Tâm Điêu Long  (Dịch giả: Phan Ngọc, NXB Lao động,  H. 2007). Lưu Hiệp (465 - 520 hoặc 521 CN), tự Ngạn Hòa, người nguyên quán ở Huyện Cử, Quảng Đông (nay là Huyện Cử, Tỉnh Sơn Đông, TQ).
Những suy nghĩ của Lưu Hiệp về Phê bình văn học tập trung ở chương Tri âm, khá sâu sắc và cho đến hôm nay vẫn rất đúng. Chẳng hạn khi nói về cái khó của nhà phê bình, Lưu Hiệp nói trước hết phải có kiến thức sâu rộngthái độ công bằng: “Phải đàn đến ngàn khúc rồi mới hiểu được cái âm thanh. Phải nhìn một ngàn thanh kiếm rồi mới hiểu được vũ khí. Cho nên muốn thấy sáng được toàn bộ tác phẩm thì trước hết phải nhìn rộng. Xem núi lớn rồi mới bàn được gò đống, ra biển khơi rồi mới hiểu được ngòi lạch. Chớ có thiên về mặt kinh hay mặt trọng. Chớ có lệch về mặt yêu hay mặt ghét. Có thể sau đó mới xét đoán được công bình như lấy cân mà cân, nhìn lời văn rõ ràng như lấy kính soi vậy” (Văn tâm điêu long - Tri âm). Và nói về “Chuẩn” của phê bình, Lưu Hiệp đã đưa ra sáu tiêu chuẩn trong phê bình văn học gọi là “Lục quan”: “Muốn xem xét tình cảm và tư tưởng trong văn chương thì trước hết phải theo sáu mặt để mà quan sát như sau: một là Vị thể; hai là Trí từ; ba là Thông biến; bốn là Kì chính; năm là Sự nghĩa; sáu là Cung thương. Nếu xem xét được các tiêu chuẩn này thì sẽ rõ chỗ hay chỗ dở của tác phẩm” (VTĐL Tri âm). Vị thể là chỉ nội dung và tư tưởng của tác phẩm. Trí từ là xem cách dùng từ đặt câu có xác đáng hay không. Thông biến là nội dung và hình thức có kết hợp hài hòa hay không. Sự nghĩa là xem điển cố, dẫn chứng có thỏa đáng hay không. Cung thương là xét âm điệu của tác phẩm có hài hòa hay không. Có thể thấy “Lục quan” của Lưu Hiệp là bao quát vừa nội dung vừa hình thức, chú ý đến tính tư tưởng và cả tính nghệ thuật của tác phẩm văn học.
(2) Hãy xem thêm Hoài Thanh đã phê phán tận gốc rễ tư tưởng của những người theo phái “Nghệ thuật vị nghệ thuật” mà mình đã từng làm “Chủ soái” trong cuộc tranh luận “Nghệ thuật vị nghệ thuật hay vị nhân sinh” hồi 1936-1939. Hoài Thanh viết: “Nói chung trong lòng họ đều có sự ấm ức đối với tình hình chính trị xã hội đương thời; nhưng tinh thần họ thì yếu đuối, nên họ cam tâm sống trong cảnh tủi cực, có khi còn cố tìm chút vui thừa trong cảnh tủi cực, ngại những thay đổi lớn…Họ muốn ai làm gì thì làm, miễn là họ được yên thân trong cái xó bếp mà họ đã tô điểm thành mộng ảo…Họ ít quan tâm đến chính trị và cố tìm mọi cách bào chữa cho sự vô tâm của họ. Một thứ bạc nhược có lý luận nên lại càng khó gỡ gấp hai” (Hoài Thanh:  PB&TL, T.I, tr.168-170; Lê Đình Kỵ: Thơ với…, tr.69).  Và khi “Nhìn lại” những nhà thơ của “Phong trào Thơ Mới” mà Hoài Thanh đã đưa vào cuốn Thi nhân Việt Nam, quả thật không thể tin được là Hoài Thanh đã viết: “Thơ mới cơ hồ không biết đến tiếng nói đau khổ, tiếng nói căm thù, tiếng nói quật khởi của các chiến sĩ cách mạng, của quần chúng cần lao. Cuộc đấu tranh cách mạng sôi sục trong mười mấy năm trời không hề có tiếng vang trong Thơ mới. Có những lúc người ta phân vân không biết người làm thơ còn nhớ mình là người dân mất nước nữa hay không?” (Hoài Thanh: PB&TL, T.II, tr.222; Lê Đình Kỵ: Thơ với…,tr.70). Và còn nữa: “Nhìn chung, Thơ mới chìm đắm trong buồn rầu, điên loạn, bế tắc. Đó là chưa nói đến phần hiển nhiên là sa đọa. Nguy hiểm nhất là nó lại tạo ra một thứ say sưa trong đó…Ngay những nhân tố tích cực cũng chìm ngập trong không khí bế tắc ấy, không gỡ ra được. Như cái tình về đất nước, mặc dầu đượm tình trìu mến, vẫn không phải là cái nhìn của chúng ta…chưa phải là cái nhìn đất nước của những người sẵn sàng chiến đấu hy sinh để bảo vệ đất nước” (PB&TL, T.II, tr.224-225; Lê Đình Kỵ: Thơ với…, tr.71). Chính vì những lời “tự phê bình” này mà Xuân Sách đã viết Thơ Chân dung Hoài Thanh rằng:
Vị nghệ thuật nửa cuộc đời
Nửa đời sau lại vị người ngồi trên
Thi nhân còn một chút duyên
Lại vò cho nát lại lèn cho đau
Bình thơ tới thuở bạc đầu
Vẫn chưa thể tất nổi câu nhân tình
Giật mình mình lại thương mình

Tàn canh tỉnh rượu bóng hình cũng tan!
Trong “cuộc đấu tranh chống nhân văn giai phẩm”, Hoài Thanh cũng tham gia và có bài viết khá “nổi tiếng” bởi “đánh trúng” vào một nhân vật “cộm cán” của NVGP là nhà thơ Trần Dần (2*): Hoài Thanh: Vạch trần tính chất phản động trong bài thơ "Nhất định thắng" của Trần Dần - Báo Văn Nghệ số 110, ngày mùng 7 tháng 3/1956 (Tháng 2-1956, Hội Văn Nghệ đã tổ chức hội nghị phê bình bài thơ Nhất định thắng của Trần Dần với 150 văn nghệ sĩ tham dự. Ông bị kết án là đồ đệ của Hồ Phong, mất lập trường giai cấp và đi ngược lại đường lối của Đảng và bị giam 3 tháng tại nhà tù Hỏa Lò, Hà Nội).

(2*) Trần Dần tên thật là Trần Văn Dần (1926- 1997): Nguyên quán thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định, cha Trần Dần là một viên chức kho bạc Nam Định. Ông học qua bậc Thành chung ở quê rồi lên Hà Nội học tiếp và đỗ Tú tài Triết. Năm 1946, Trần Dần cùng Trần Mai Châu, Đinh Hùng, Vũ Hoàng Địch, Vũ Hoàng Chương thành lập nhóm thơ tượng trưng Dạ đài. Khi Kháng chiến chống Pháp bùng nổ, ông trở về Nam Định tham gia công tác thông tin tuyên truyền ở huyện Vụ Bản rồi làm việc ở Sở Tuyên truyền Khu IV.
Năm 1948, ông tham gia Vệ quốc quân, ở Ban Chính trị Trung đoàn 148 Sơn La (nay thuộc Sư đoàn 316), làm công tác tuyên truyền cùng Vũ Khiêu, Vũ Hoàng Địch, sau đó làm báo ở mặt trận Tây Bắc và phụ trách văn công Trung đoàn 148 Sơn La. Trần Dần cùng Trần Thư, Hoài Niệm tham gia sáng lập nhóm văn nghệ quân đội đầu tiên - Nhóm Sông Đà. Thời gian này ông bắt đầu làm thơ bậc thang và vẽ tranh lập thể, bị cho là khó hiểu. Ông là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam (lúc ấy có tên là Đảng Cộng sản Đông Dương) từ năm 1949 (Năm 1955 xin giải ngũ và viết đơn xin ra khỏi Đảng).
Năm 1954, cùng với Đỗ Nhuận, Tô Ngọc Vân, Trần Dần tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ và viết truyện dài Người người lớp lớp. Bài thơ Nhất định thắng đăng trong Giai Phẩm Mùa Xuân số tháng Giêng 1956 (Giai phẩm Mùa Xuân do nhà thơ Hoàng Cầm và Lê Đạt chủ trương, về sau bị tịch thu).
Tham gia Phong trào Nhân văn-Giai phẩm, Trần Dần lên tiếng đòi tự do, đòi xuất bản các tác phẩm mang tính cách tân của mình, mặc dù đã bị Chính quyền lúc bấy giờ nhiều lần cảnh cáo nhưng ông vẫn giữ vững sáng tác, ông liên tiếp cho ra đời các tác phẩm phê phán như "Lão rồng" và chuyện "Anh Cò Lấm" phê phán cải cách ruộng đất để rồi sau đó bị bắt giam. Ông phải đi lao động cải tạo ở nhiều nơi cho đến năm 1960.
Năm 1960: Có hai lần đi cải tạo lao động tại khu gang thép Thái Nguyên. Đến tháng 8 thì ốm nặng về Hà Nội.Từ đó sống âm thầm tại Hà Nội bằng nghề dịch sách và tô ảnh màu, đứng ngoài mọi sinh hoạt văn nghệ chính thống.
Năm 1988: Trần Dần, Lê Đạt, Hoàng Cầm,... được mời tham gia sinh hoạt văn học trở lại.
Đến thời kỳ Đổi mới, bước vào giai đoạn tác giả có thể bỏ tiền tự in, tự phát hành với sự cấp giấy phép của Nhà xuất bản, vài tác phẩm của ông được xuất bản trở lại như Trường ca "Bài thơ Việt Bắc”(viết năm 1957) năm 1990 (cho dù chương 12 của bản Trường ca là toàn bộ bài thơ Nhất định thắng phải bỏ) và tập thơ tiểu thuyết Cổng tình (viết năm 1959-1960) năm 1994, tác phẩm sau này đã đoạt giải thưởng của Hội nhà văn. Ông được truy tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật năm 2007.
Đầu năm 2008, Công ty Nhã Nam và NXB Đà Nẵng đã cho phát hành cuốn Trần Dần -Thơ, được coi là công trình đồ sộ nhất từng được xuất bản về Trần Dần. Trần Dần - Thơ được Giải Thành tựu trọn đời của Hội Nhà văn Hà Nội.
Về Vụ Nhân Văn - Giai Phẩm: Khởi xướng đầu năm 1955 và bị chính thức dập tắt vào 6-1958.
Tố Hữu, khi ấy là Ủy viên Trung ương Đảng Lao Động Việt Nam, phụ trách về công tác văn hóa văn nghệ, tuyên truyền được coi là người dập tắt phong trào Nhân Văn-Giai Phẩm. Trong cuốn Qua cuộc đấu tranh chống nhóm phá hoại "Nhân Văn - Giai Phẩm" trên mặt trận văn nghệ, NXB Văn Hóa, 1958, mà ông là tác giả, Tố Hữu đã nhận định về phong trào này và những người bị coi là dính líu như sau:
Lật bộ áo "Nhân Văn - Giai Phẩm" thối tha, người ta thấy ra cả một ổ phản động toàn những gián điệp, mật thám, lưu manh, trốt-kít, địa chủ tư sản phản động, quần tụ trong những tổ quỷ với những gái điếm, bàn đèn, sách báo chống cộng, phim ảnh khiêu dâm; (trg 9. Sđd).
Trong cái công ty phản động "Nhân Văn - Giai Phẩm" ấy thật sự đủ mặt các loại "biệt tính": từ bọn Phan Khôi, Trần Duy mật thám cũ của thực dân Pháp đến bọn gián điệp Thụy An, từ bọn trốt-kít Trương Tửu, Trần Đức Thảo đến bọn phản Đảng Nguyễn Hữu Đang, Trần Dần, Lê Đạt. Một đặc điểm chung là hầu hết bọn chúng đều là những phần tử thuộc giai cấp địa chủ và tư sản phản động, và đều ngoan cố giữ lập trường quyền lợi giai cấp cũ của mình, cố tình chống lại cách mạng và chế độ;. (trg 17. Sđd).
Báo cáo tổng kết vụ "Nhân Văn - Giai Phẩm" cũng do Tố Hữu viết có kết luận về tư tưởng chính trị và quan điểm văn nghệ của phong trào Nhân Văn-Giai Phẩm như sau:
Những tư tưởng chính trị thù địch:
1.Kích thích chủ nghĩa cá nhân tư sản, bôi nhọ chủ nghĩa cộng sản.
2.Xuyên tạc mâu thuẫn xã hội, khiêu khích nhân dân chống lại chế độ và Đảng lãnh đạo.
3.Chống lại chuyên chính dân chủ nhân dân, chống lại cách mạng xã hội chủ nghĩa.
4.Gieo rắc chủ nghĩa dân tộc tư sản, gãi vào đầu óc sô-vanh chống lại chủ nghĩa quốc tế vô sản.
Những quan điểm văn nghệ phản động:
1.Nhóm "Nhân Văn - Giai Phẩm" phản đối văn nghệ phục vụ chính trị, thực tế là phản đối văn nghệ phục vụ đường lối chính trị cách mạng của giai cấp công nhân. Chúng đòi "tự do, độc lập" của văn nghệ, rêu rao "sứ mạng chống đối" của văn nghệ, thực ra chúng muốn lái văn nghệ sang đường lối chính trị phản động.
2.Nhóm "Nhân Văn - Giai Phẩm" phản đối văn nghệ phục vụ công nông binh, nêu lên "con người" trừu tượng, thực ra chúng đòi văn nghệ trở về chủ nghĩa cá nhân tư sản đồi trụy.
3.Nhóm "Nhân Văn - Giai Phẩm" hằn học đả kích nền văn nghệ xã hội chủ nghĩa, nhất là văn nghệ Liên Xô, đả kích nền văn nghệ kháng chiến của ta. Thực ra, chúng phản đối chế độ xã hội chủ nghĩa, chúng đòi đi theo chế độ tư bản chủ nghĩa.
4.Nhóm "Nhân Văn - Giai Phẩm" phản đối sự lãnh đạo của Đảng đối với văn nghệ, chúng đòi "trả văn nghệ cho văn nghệ sĩ", thực ra chúng đòi đưa quyền lãnh đạo văn nghệ vào tay bọn phản cách mạng.

Về “Vụ án Nhân văn Giai phẩm” xin xem thêm bài viết đầy đủ: VỤ NHÂN VĂN – GIAI PHẨM MỘT TRÀO LƯU DÂN CHỦ, MỘT CUỘC CÁCH TÂN VĂN HỌC KHÔNG THÀNH của LÊ HOÀI NGUYÊN (trên nguyentrongtao.org).

 (4) Nguyễn Công Hoan (1903 - 1977): quê ở làng Xuân Cầu, xã Nghĩa Trụ, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên (thời ấy thuộc tỉnh Bắc Ninh). Đống rác cũ (tiểu thuyết, 1963) của Nguyễn Công Hoan bị “đánh” vì “tội” “bôi đen” xã hội. Với  những người lính mới như Phù Thăng (4*), Hữu Loan…thì đã “tiêu đời”, nhưng với Nguyễn Công Hoan, một tiền bối đáng kính (Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam khóa đầu tiên năm 1957-1958) thì cũng chỉ như bị muỗi đốt, kiến cắn!  Xuân Sách có thơ Chân dung Nguyễn Công Hoan rằng:
 Bác Kép Tư Bền rõ đến vui
Bởi còn tranh tối bác nhầm thôi
Bới tung đống rác nên trời phạt
Trời phạt chửa xong bác đã cười.

(4*) Phù Thăng: Xin xem phần viết về Phù Thăng trong bài XUÂN SÁCH VÀ TẬP THƠ CHÂN DUNG NHÀ VĂN (Bài 2) - ĐỖ NGỌC THẠCH .

(5) Vũ Trọng Phụng: Xin xem bài viết : Đỗ Ngọc Thạch : VŨ TRỌNG PHỤNG - TÀI HOA ...

(6)     Hữu Loan (1916 - 2010): Tên khai sinh Nguyễn Hữu Loan. Quê xã Nga Lĩnh, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Ông học thành chung ở Thanh Hóa, đậu tú tài Tây năm 1938 tại Hà Nội, sau đó đi dạy học. Ông tham gia Mặt trận Bình dân năm 1936, tham gia Việt Minh ở thị xã Thanh Hóa (nay là thành phố Thanh Hóa). Năm 1943, ông về gây dựng phong trào Việt Minh ở quê và khi cuộc Cách mạng tháng Tám nổ ra, ông làm Phó Chủ tịch Ủy ban Khởi nghĩa huyện Nga Sơn. Trước năm 1945, ông đã từng là cộng tác viên trên các tập san Văn học, xuất bản tại Hà Nội . Sau Cách mạng tháng Tám, ông được cử làm Ủy viên Văn hóa trong Ủy ban hành chính lâm thời tỉnh Thanh Hóa, phụ trách các ty: Giáo dục, Thông tin, Thương chính và Công chính. Kháng chiến 9 năm, Hữu Loan nhập ngũ, làm tới chính trị viên tiểu đoàn thuộc Đại đoàn 304.
    Sau năm 1954, ông làm việc tại Báo Văn nghệ một thời gian. Trong thời gian 1956-1957, ông tham gia Phong trào Nhân Văn-Giai Phẩm do nhà văn Phan Khôi chủ trương. Ông sáng tác những tác phẩm lên án thẳng thắn và quyết liệt đến những tiêu cực của các cán bộ cộng sản nịnh hót, đố kỵ, ám hại nhau v.v... như tác phẩm Cũng những thằng nịnh hót và truyện ngắn Lộn sòng. Trong tác phẩm của mình, ông coi mình là nạn nhân của xã hội cộng sản và phê phán xã hội này một cách kịch liệt. Sau vụ “Nhân Văn Giai Phẩm”, năm 1958, nhà thơ Hữu Loan phải vào trại cải tạo vài năm, tiếp đó bị giam lỏng tại địa phương. Cuối đời ông về quê nhà làm tiều phu và thồ đá trên rừng, trên núi kiếm sống…
Ông nổi tiếng với bài thơ Màu tím hoa sim do ông sáng tác trong thời gian tham gia kháng chiến chống Pháp và được lưu hành rộng rãi trong vùng kháng chiến. Có thông tin cho rằng, do nội dung bài thơ nặng nề tình cảm và ảnh hưởng tiêu cực đến tâm lý quân dân, nên ông bị giải ngũ.
Một số bài thơ đã được phổ biến của ông: Cũng những thằng nịnh hót; Đèo Cả; Đêm; Màu tím hoa sim (1949); Hoa lúa (1955); Ngày mai; Thánh mẫu hài đồng; Tình Thủ đô; Yên mô… Năm 1990, tập thơ  Mầu tím hoa sim của Hữu Loan lần đầu tiên được NXB Hội Nhà văn xuất bản. Xin mời đọc lại nguyên văn Màu tím hoa sim đã rất nổi tiếng và có khá nhiều dị bản:
Màu tím hoa sim
Nàng có ba người anh đi bộ đội
Những em nàng
Có em chưa biết nói
Khi tóc nàng xanh xanh
Tôi người Vệ quốc quân
xa gia đình
Yêu nàng như tình yêu em gái
Ngày hợp hôn
nàng không đòi may áo mới
Tôi mặc đồ quân nhân
đôi giày đinh
bết bùn đất hành quân
Nàng cười xinh xinh
bên anh chồng độc đáo
Tôi ở đơn vị về
Cưới nhau xong là đi
Từ chiến khu xa
Nhớ về ái ngại
Lấy chồng thời chiến binh
Mấy người đi trở lại
Nhỡ khi mình không về
thì thương
người vợ chờ
bé bỏng chiều quê…

Nhưng không chết
người trai khói lửa
Mà chết
người gái nhỏ hậu phương
Tôi về
không gặp nàng
Má tôi ngồi bên mộ con đầy bóng tối
Chiếc bình hoa ngày cưới
thành bình hương
tàn lạnh vây quanh
Tóc nàng xanh xanh
ngắn chưa đầy búi
Em ơi giây phút cuối
không được nghe nhau nói
không được trông nhau một lần
Ngày xưa nàng yêu hoa sim tím
áo nàng màu tím hoa sim
Ngày xưa
một mình đèn khuya
bóng nhỏ
Nàng vá cho chồng tấm áo
ngày xưa…

Một chiều rừng mưa
Ba người anh trên chiến trường đông bắc
Được tin em gái mất
trước tin em lấy chồng
Gió sớm thu về rờn rợn nước sông
Đứa em nhỏ lớn lên
Ngỡ ngàng nhìn ảnh chị
Khi gió sớm thu về
cỏ vàng chân mộ chí
Chiều hành quân
Qua những đồi hoa sim
Những đồi hoa sim
những đồi hoa sim dài trong chiều không hết
Màu tím hoa sim
tím chiều hoang biền biệt
Có ai ví như từ chiều ca dao nào xưa xa
Áo anh sứt chỉ đường tà
Vợ anh chưa có mẹ già chưa khâu
Ai hỏi vô tình hay ác ý với nhau
Chiều hoang tím có chiều hoang biết
Chiều hoang tím tím thêm màu da diết
Nhìn áo rách vai
Tôi hát trong màu hoa
Áo anh sứt chỉ đường tà
Vợ anh mất sớm, mẹ già chưa khâu…

Màu tím hoa sim, tím tình trang lệ rớm
Tím tình ơi lệ ứa
Ráng vàng ma và sừng rúc điệu quân hành
Vang vọng chập chờn theo bóng những binh đoàn
Biền biệt hành binh vào thăm thẳm chiều hoang màu tím
Tôi ví vọng về đâu
Tôi với vọng về đâu
Áo anh nát chỉ dù lâu…

(1949, khóc vợ Lê Đỗ Thị Ninh)
(7) "Phê bình văn học - bản chất và đối tượng" là chủ đề cuộc tọa đàm được Viện văn học tổ chức vào cuối tháng 5 năm 2004, nhằm tìm hiểu sâu hơn thực trạng yếu kém và đề ra những giải pháp thúc đẩy công tác phê bình văn học. Vấn đề nổi bật là: Thiếu chuẩn, loạn chuẩn trong phê bình văn học. Các tham luận của PGS.TS Phạm Quang Long, PGS.TS Phan Trọng Thưởng, nhà phê bình Lê Quang Trang, TS Nguyễn Đăng Điệp, TS Hà Công Tài, nhà phê bình Nguyễn Hòa... đã nêu lên vấn đề thiếu chuẩn, loạn chuẩn trong phê bình văn học. Sự thiếu chuẩn mực có thể xuất phát từ sự yêu - ghét mang tính cá nhân, có thể xuất phát từ sự thiếu tri thức khoa học hay "yếu lý thuyết" như Phạm Xuân Nguyên đề cập.

Tình trạng trên đây kéo dài đã nhiều năm làm cho đời sống phê bình văn học trở nên nhiễu loạn, người đọc không phân biệt được đúng / sai, hay / dở. Nhiều người biến phê bình thành việc quảng cáo, lăng xê tên tuổi hoặc hướng tới những mục đích ngoài văn học. Điều đó khiến cho phê bình văn học nhiều khi không làm trọn nhiệm vụ của mình. (Xem: Phê bình văn học trước yêu cầu mới).

(8) Trong hội thảo khoa học về lý luận văn học được tổ chức tại Viện Văn học năm 2005, PGS.TS Phan Trọng Thưởng (Viện trưởng Viện Văn học) có bài phát biểu "Lý luận văn học trước yêu cầu đổi mới và phát triển", nói về Thực trạng của phê bình hiện nay có viết:

 “1-Thiếu một đội ngũ những người hành nghề phê bình chuyên nghiệp và có phẩm chất nhà nghề. 2 -Bên cạnh những thành tựu đã có, văn học nước ta từ sau 1986 đến nay vẫn thiếu những yếu tố hấp dẫn và kích thích sự phát triển của phê bình. 3- Phê bình hiện nay đang thiếu một hệ thống chuẩn mực nghệ thuật (cốt lõi là hệ thống quan điểm lý luận văn học và mỹ học) và chuẩn mực giá trị làm thước đo. 4- Ảnh hưởng của cơ chế thị trường vào văn chương và phê bình đã khiến cho phê bình văn học nhiều khi không làm trọn chức năng và đạo lý phê bình”.
Năm năm sau, cũng nói về thực trạng của Phê bình văn học hiện nay, một nhà Phê bình văn học của Viện Văn học đã viết: “Nói chung, phê bình có vẻ ngày càng trở nên "tạp" hơn xét cả về người viết, người đọc lẫn tác phẩm phê bình. Tuy nhiên ở một phía khác (dĩ nhiên với phạm vi rất hẹp) ở khu vực "đại học" và "viện hàn lâm" nó lại trở nên trừu tượng hơn, có nguy cơ trở thành một thứ triết học ngôn ngữ, triết học văn hoá siêu thoát khỏi thực tiễn sáng tác văn học.
Việc "đại chúng hóa" phê bình (kết quả của thời đại thông tin) mang đến sự đa dạng và dân chủ, song rõ ràng cũng đã làm cho phê bình tổn thất nặng nề. Tính chiết trung và chủ quan tăng lên, các nguyên tắc mĩ học và hệ tư tưởng làm cốt lõi cho phê bình văn học bị suy giảm mạnh. Các ấn phẩm phê bình không có điểm tựa mĩ học và triết học lan tràn. Phê bình dễ biến thành một hiện tượng ngữ văn thuần túy. Vị thế của phê bình văn học trong đời sống xã hội do vậy mà kém đi nhiều…”.( Xem: PGS-TS Trịnh Bá Đĩnh: Phê bình trong thời kỳ bùng nổ thông tin).
(9) Nói về “Phê bình Trẻ” xin xem: Phê Bình Trẻ chưa một đồng xu dính túi .
(Hết)
Đỗ Ngọc Thạch
Ngày đăng: 08.11.2010
[ Trở lại ] [ Tiếp ]

In tác phẩm Góp ý Gởi cho bạn
Cùng thể loại



Xuân Sách Và Thơ Chân Dung Nhà Văn (Bài 2) - Đỗ Ngọc Thạch
Xuân Sách Và Tập Thơ Chân Dung Nhà Văn - Đỗ Ngọc Thạch

(*) Bản viết lần hai có bổ sung.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét