57 truyện ngắn Đỗ Ngọc Thạch trên phongdiep.net - Trích: Kiếm sống; Giá một cái...
KIẾM SỐNG - Đỗ Ngọc Thạch - PHONGDIEP.NET :: PHONGDIEP.NET
PHONG ĐIỆP -SÁNG TÁC MỚI. Ông đừng réo ... Truyện ngắn của Đỗ Ngọc Thạch ... Non lửa thì bìa bánh sẽ sống, quálửa thì tất nhiên là cháy khét, đều bỏ. ...57 truyện ngắn trên phongdiep.net - YuMe.vn
blog.yume.vn/.../57-truyen-ngan-tren-phongdiep-net.dongocthach18... Bản lưu27 Tháng Tám 2011 – 2 Tháng Tám 2011 – YuMe.vn - 55 truyện ngắn trên phongdiep.net 1- ĐỖ NGỌC THẠCH: Quà tặng tuổi hai mươi. 2. ĐỊA LINH NHÂN KIỆT 3. QUA SÔNG ...56 truyện ngắn trên phongdiep.net - YuMe.vn
blog.yume.vn/.../56-truyen-ngan-tren-phongdiep-net.dongocthach18... Bản lưu22 Tháng Tám 2011 – YuMe.vn - ĐỖ NGỌC THẠCH Đỗ Ngọc Thạch năm 1993 Đỗ Ngọc ...
:: PHONGDIEP.NET :: PHONGDIEP.NET :: - QUA SÔNG BẰNG ĐÒ
QUA SÔNG BẰNG ĐÒ. Truyện ngắn của ĐỖ NGỌC THẠCH. QUA SÔNG BẰNG ĐÒ. ( Con ơi nhớ lấy câu này. Sông sâu chớ lội, đò đầy chớ qua. Lời mẹ dặn ...Đỗ Ngọc Thạch và lối viết hiện thực huyền ảo Việt ... - trieuxuan.info
trieuxuan.info/?pg=tpdetail&id=1699&catid=6 Bản lưu22 Tháng 2 2009 – Ở “ Qua sông bằng đò”, Đỗ Ngọc Thạch tạo tính ảo ngay từ cách đặt tên truyện. Đây là một tựa đề tuyệt hay. Như một mini công án của nhà Phật. ...
Trích đăng:
KIẾM SỐNG - Đỗ Ngọc Thạch
KIẾM SỐNG
Truyện ngắn của Đỗ Ngọc Thạch
Khi tôi đến làm việc tức “kiếm sống” ở cái lò bánh ngọt “tiểu thủ công” này thì đội ngũ “thợ thuyền” ở đây đã có 11 người: 4 người đứng lò, 4 người làm thành cái bánh và đóng gói sản phẩm và một người làm nhiệm vụ “nuôi quân” tức nấu ăn. Những người thợ ở lò bánh này làm việc từ 6 giờ sáng cho đến 6 giờ tối, buổi trưa nghỉ ăn cơm tại chỗ khoảng nửa giờ. Trừ hao những lúc nghỉ giữa giờ vì nhiều lý do thì tổng số giờ lao động của thợ bánh là tròn Mười giờ, tức hơn giờ làm việc của Nhà nước hai giờ. Đó cũng là thời gian lao động nói chung của hầu hết những cơ sở sản xuất tư nhân và có thể nói cái thời gian lao động “dôi ra” này chính là một trong những “yếu tố” làm nên lợi nhuận của giới chủ.
Khi tôi đến lò bánh làm việc, ông chủ lò bánh nói: “Lò bánh của chúng ta đang phát triển và đã có “thương hiệu” trên thị trường, vì thế tất cả hãy cố gắng làm thật tốt phần việc được giao. Số người của chúng ta vừa đủ bộ 12 con giáp Tý Sửu Dần Mão Thìn Tỵ Ngọ Mùi Thân Dậu Tuất Hợi, vì thế mỗi người sẽ mang tên một con giáp, cứ thế mà gọi. Tại sao lại gọi như vậy? Đây là con số tuyệt đẹp, nó sẽ giúp chúng ta làm ăn phát tài, vì thế ta sẽ giữ con số màu nhiệm này, không thêm không bớt”. Nói rồi ông chủ đưa ra một cái rổ nhựa, trong có sẵn mười hai mảnh giấy viết sẵn từ Tý cho đến Hợi, ai bốc được chữ nào thì sẽ mang “thợ danh” chữ đó. Tôi chờ cho mọi người bốc hết, mở mẩu giấy cuối cùng ra có chữ “Tý”, đúng là số trời đã an bài! Điều kỳ lạ là không chỉ riêng tôi mà năm người nữa là Sửu Dần Mão Thìn Tỵ cũng bốc được chữ trùng với năm sinh của mình. Năm người này, cùng với tôi là sáu, còn có đặc điểm giống nhau nữa là không phải thuộc nhóm “lao động phổ thông” tức lao động chân tay chuyên nghiệp mà tối thiểu là đã tốt nghiệp đại học nhưng đang thất nghiệp (do gặp “nạn” bi kịch gia đình và bè phái đấu đá ở công sở nên bỏ nhà, bỏ nhiệm sở đi hoang). Cái truyện ngắn này chủ yếu nói về năm người này: Sửu đã từng du học nước ngoài thời bao cấp, có bằng Tiến sĩ về Toán học, được rất nhiều trường đại học ở nước ngoài mời làm giáo sư nhưng vì nhớ quê hương, nhớ vợ mà trở về Việt Nam; Dần là cựu Sinh viên trường Đại học TDTT, chuyên về võ thuật (đã từng làm chân trụ cho đoàn xiếc của một tỉnh ở ĐBSCL, tức giữ thăng bằng cho một cái cột lớn đặt trên vai, trên có một, hai người làm những động tác uốn dẻo…); Mão là cựu học viên Học viện Kỹ thuật Quân sự, chuyên về vũ khí có sức công phá lớn; Thìn và Tỵ đều là “thầy giáo mất dạy” tức đã trải qua giáo viên Phổ thông Trung học, về môn văn và sử. Sáu người còn lại (từ Ngọ tới Hợi) tuy không qua đại học nhưng đều đã qua chốn quan trường, thấp nhất cũng là Trưởng phòng, cao nhất là Tổng giám đốc và đều giống nhau ở chỗ đã từng qua vòng lao lý vì nhiều tội danh khác nhau… * Công việc ở lò bánh thủ công tuy là lao động giản đơn (còn gọi là lao động phổ thông, lao động chân tay) nhưng cũng có những công đoạn rất khó, đòi hỏi tính chuyên nghiệp cao, nếu không sản phẩm sẽ hỏng, tức quăng sọt rác, tức ông chủ lò bánh sẽ lỗ vốn! Đó là khâu đánh kem và nướng bìa bánh. Sản phẩm bánh ngọt ở đây gọi là bánh xốp, gồm có hai thành phần chính: lớp kem nằm giữa hai hoặc ba lớp bìa xốp. Kem là đường trắng xay thành bột, trộn với dầu mỡ và cho vào một ít tinh dầu, tạo mùi vị thơm ngon. Bìa xốp là bột năng được nướng cho giòn, khi nướng cho vào chút bột nở thì sẽ giòn và xốp. Nướng khéo thì sẽ giòn thơm, cộng với hương thơm của lớp kem tạo thành mùi thơm đặc trưng của bánh. Nói thì đơn giản thế, nhưng cái khó là để có được chậu kem sóng sánh, sủi bọt li ti và thơm lừng, mới nhìn đã muốn ăn thử…thì người đánh kem phải có sức mạnh cử đỉnh của Hạng Võ để dùng tay ngoáy nhào cho đám bột đường trộn với đầu mỡ kia biến thành kem (nếu làm bằng máy thì…tốn điện!). Còn cái khó của nướng bìa bánh là người làm phải đứng bên lò lửa, đổ bột đã trộn nước vào những cái kẹp đặc dụng bằng sắt, mỗi cái to bằng cái cặp sách học trò, lật qua lật lại trên ngọn lửa sao cho đến đều hai mặt. Non lửa thì bìa bánh sẽ sống, quá lửa thì tất nhiên là cháy khét, đều bỏ. Vì thế người nướng bìa bánh phải là loại “Người chịu lửa” và có sự nhạy cảm về thời gian (cũng có phần giống với tố chất của Nhà thơ). Nhóm sáu người của nửa trên 12 con giáp phụ trách đánh kem và nướng bìa bánh, tức phần công việc nặng nhọc và đòi hỏi “tay nghề” cao (riêng tôi, người viết truyện ngắn này, “học nghề” chỉ nửa buổi là đã thành thạo mọi công đoạn nên được giao làm nhiệm vụ “đốc công”, tức khâu nào làm sai thì chỉnh sửa, hoặc thiếu người thì tạm lấp chỗ trống). Còn nhóm nửa dưới của 12 con giáp thì làm nhiệm vụ tiếp theo, tức trét kem vào bìa bánh rồi cưa cắt thành những cái bánh nhỏ, đoạn cho vào những bịch ni-lon to bằng nửa cuốn vở học trò, buộc kín miệng bịch là xong. Nhóm sáu người của nửa trên 12 con giáp làm rất tốt công việc, chỉ sau hai ngày được ông chủ lò bánh “cầm tay chỉ việc”. Dần đặc trách việc đánh kem nặng nhọc, khi đánh kem xong, cả cái xưởng bán ngào ngạt hương thơm. Xong việc đánh kem, Dần làm cái việc cắt bìa bánh, sau khi đã trét kem thành những cái bánh nhỏ. Việc này cũng đòi hỏi sức khỏe vì khi cắt thành những cái bánh nhỏ (những bìa bánh lớn sau khi đã trét kem thì xếp đầy một cái khuôn bằng gỗ, kích cỡ của bánh đã có trong khuôn), phải kéo lưỡi cưa thật nhanh như máy, nếu không bánh sẽ nát vụn hoặc không vuông thành sắc cạnh! Cắt xong sẽ chuyển cho nhóm đóng gói. Công việc nướng bìa bánh chủ yếu do bốn người Sửu, Mão, Thìn và Tỵ đảm trách. Bốn người này đều đã kinh qua công tác nghiên cứu, giảng dạy nên sự nhạy cảm vế thời gian rất tốt, tức bìa bánh không bao giờ quá lửa đến nỗi cháy khét hoặc non lửa tức còn sống, bánh sẽ dai như cao su! Tuy nhiên, về khả năng chịu lửa thì cả bốn người đều không thể như Tôn Ngộ Không khi bị nhốt trong Lò bát quái của Thái Thượng Lão Quân. Vì thế, cứ hai người làm thì hai người ngồi nghỉ, cứ phải luân phiên từng 30 phút! Nhưng khi lò bánh đắt hàng, ông chủ tăng thêm hai lò nữa, tức tổng số là bốn lò, thì không có thể ngưng nghỉ luân phiên được nữa. Những lúc thấy các “giáo sư”, “viện sĩ” kiệt sức, tôi thường tới “chia lửa”! Nhóm nửa dưới của 12 con giáp, tức từ Ngọ cho tới Hợi chủ yếu là làm công đoạn sau, đóng gói bao bì tức hoàn thành sản phẩm và lo chuyện cơm nước cho đám thợ. Trong nhóm sáu người này có ba người là nam, ba người là nữ. Từng đôi một, họ đều là “bạn tù” ở trên mức tình cảm bạn bè và sau khi mãn hạn tù, không trở về với gia đình cũ (vì vợ hoặc chồng của họ đã ly hôn ngay từ khi họ bị khởi tố) mà rủ nhau đi làm thuê kiếm sống, sống cuộc đời mới với “hai trái tim vàng” cho dù chưa có nổi một “túp lều tranh”! Công việc đóng gói bao bì không có gì khó khăn và cũng phù hợp với “xuất thân” (tầng lớp quan cách, chuyên “chỉ tay năm ngón” chứ không phải đụng tay đụng chân vào việc gì cụ thể) của họ nên họ rất hào hứng làm việc. Hơn nữa, trong những khoảng thời gian thọ án bị quản thúc ở trong các trại giam, họ cũng được “rèn luyện” qua những công việc tương tự, có khi còn nặng nhọc hơn nhiều ngồi gói bánh! * Tôi “Kiếm sống” ở lò bánh xốp được nửa năm thì một hôm, một người bạn đồng nghiệp của ông chủ lò bánh (hai vợ chồng ông chủ lò bánh đều là giáo viên một trường đại học) đứng ra thành lập một trường PTTH Dân lập, kết hợp ngày khai trương trường học với lễ cưới vợ lần thứ hai, đã đích thân tới tận lò bánh đưa giấy mời vợ chông ông chủ lò bánh. Khi nhìn thấy tôi đang ngồi uống trà với ông chủ lò bánh thì tân Hiệu trưởng kiêm tân chú rể nhào tới tôi, nắm chặt lấy tay tôi mà rối rít nói: “Người bạn Đầm Mây của tôi!...Thảo nào đêm qua tôi nằm mộng thấy Bồ Tát bảo sáng nay thế nào tôi cũng nhặt được Vàng! Thì ra là ông bạn Vàng của tôi ở Đầm Mây!”. Tôi nhận ra ngay đó là Lương, học cùng lớp Toán với tôi ở Khoa Toán trường ĐH Tổng hợp hồi năm 1966, khi Khoa Toán đang sơ tán ở Đầm Mây thuộc huyện Đại Từ, Thái Nguyên. Hồi đó, cuộc sống của sinh viên bị chữ “Đói” hành hạ tối ngày, tôi và Lương thường rủ nhau vào các thôn xóm ở sát chân núi mua các loại quả như chuối, bưởi, đào mận… ăn cho đỡ đói. Ăn hoa quả nhiều tới mức thành nghiện như đám con cháu của Tôn Ngộ Không ở Hoa Quả Sơn! Gặp lại tôi, Lương nói ngay: “Cậu là một thầy giáo văn võ song toàn (ý nói tôi có thể lên lớp cả Toán và Văn) không thể cứ ngồi đây mà làm thợ bánh được!”. Sau đó, Lương thỏa thuận với ông chủ lò bánh rồi đưa tôi về ngay cái trường PTHT Dân lập mới thành lập của anh ta. Quả nhiên, giáo viên còn thiếu nhiều, tôi vừa phải dạy cả môn Toán và môn Văn. Được trở lại làm Thầy (sau khi tốt nghiệp Khoa Văn ĐH Tổng hợp Hà Nội, tôi có đi dạy học hai năm), tôi cũng thấy đỡ buồn tẻ hơn chuyện làm bánh, ngày nào cũng làm những công việc lặp đi lặp lại, không hề có tính cách tân, sáng tạo. Nhưng, niềm vui cũng chỉ lóe lên như ánh sáng đom đóm bởi một hôm, có hai học sinh, một nam, một nữ tìm gặp tôi tại phòng giáo viên mà nói: “Thầy không được cho em điểm kém, vì nếu em bị bố mẹ đánh đòn bao nhiêu thì em sẽ trả lại thầy đủ bấy nhiêu!” - đó là lời học sinh nam. Còn học sinh nữ thì nói: “Các nơi người ta “đổi tình lấy điểm” rầm rầm. Vậy em xin thông báo với thầy bảng giá trị đổi điểm của em: cầm tay tám điểm, hôn má chín điểm, hôn môi mười điểm. Còn nếu muốn “chuyện kia” thì “Mười điểm trọn đời”! Sau khi hai học sinh kia ra khỏi, tôi nghĩ cái môi trường “tiên học lễ hậu học văn” này thật bất an!
Được sáu tháng, một người bạn học cùng Khoa Văn trường Đại học Tổng hợp bất ngờ gặp tôi giữa đường thì chặn lại như cướp đường và nói: “Cái nghề “bán cháo phổi” này bây giờ tổn thọ lắm, học trò không chỉ dám đánh thầy mà còn có thể lấy mạng thầy như chơi! Mà học trò bây giờ vừa dốt vừa lười học, lời thầy giảng chỉ như “đàn gảy tai trâu” mà thôi!”. Nói rồi người bạn lôi tôi tới một tờ báo ngành, đang chuẩn bị cho ra rất nhiều ấn phẩm khác như Bán Nguyệt san, Nguyệt san, Tủ sách và Cẩm nang… đủ kiểu ngoài tờ báo chính ra hàng tuần.
Không hiểu sao, lần này cũng được sáu tháng thì lại có một người bạn học thời Lớp Một tới lôi tôi tới một nhà hàng máy lạnh loại sang và nói: “Từ ngày tớ bỏ kinh doanh địa ốc chuyển sang kinh doanh hôn nhân, tức mai mối tình yêu thì lên như diều gặp gió. Cậu không thể tồn tại trong cái đám suốt ngày cãi lộn như mổ bò như thế. Dù cậu có trung lập chủ nghĩa thì trâu bò húc nhau ruồi muỗi chết, vì thế hãy nghe tớ, tẩu vi thượng sách. Hãy sang làm việc cho công ty Dây Tơ Hồng của vợ chồng tớ, nó sẽ là bến đậu cuối cùng của cậu!”. Quả là tôi có tính cả nể, hay bị bạn bè rủ rê lôi kéo. Khi tôi theo người bạn thời Lớp Một về tới trụ sở công ty Mai mối Dây Tơ Hồng thì gặp ngay một cặp vợ chồng mới đi hưởng tuần trăng mật ở Đà Lạt về đòi gặp và nói ngay: “Chúng tôi muốn thanh lý hợp đồng cũ và ký ngay hợp đồng mới. Nghĩa là chúng tôi sẽ ly hôn và nhờ Công ty Dây Tơ Hồng mai mối cho chúng tôi một người chồng khác và một người vợ khác!”. Người bạn Lớp Một hỏi: “Tôi muốn biết lý do vì sao hai người lại nhanh chóng ly dị như thế? Mới một tuần làm sao đã khám phá hết mọi vẻ quyến rũ, hấp dẫn của đối tượng?”. Người đàn bà định nói nhưng rồi nhìn người đàn ông như bảo “Ông nói đi!”. Người đàn ông liền nói: “Tưởng là vui duyên mới nhưng lại hóa ra là đồ cũ! Tức cách nay hơn mười năm, chúng tôi đã sống như vợ chồng với nhau tới hai tháng rồi còn gì!”. Người bạn Lớp Một của tôi cười sảng khoái rồi lấy ra hai bản hợp đồng mới, nội dung là trong vòng một tuần sẽ mai mối cho mỗi người một đối tượng vạn sự như ý! Khi hai người khách hàng đã ra về, người bạn Lớp Một nói với tôi: “Đó, câu thấy chưa, cứ gọi là làm không hết việc, mà loại công việc này chỉ là uốn ba tấc lưỡi, chẳng phải ăn no vác nặng như làm thợ bánh, cũng chẳng phải rát cổ bỏng họng như cái nghề “bán cháo phổi” và cũng chẳng phải tả xung hữu đột trong trường văn trận bút như nghề làm văn làm báo! Cậu còn muốn gì nữa?”.
* Quả là người bạn Lớp Một không khác chi Bồ Tát hạ trần gian, tôi đến làm việc cho Công ty Mai Mối Dây Tơ Hồng được hai tháng thì bạn tôi đã cưới cho tôi một người vợ mười phân vẹn mười, chỉ sau khi “động phòng hoa chúc” hai tháng đã có “tin vui”! Tôi sực nhớ đến những người “bạn đồng nghiệp” một thời ở lò bánh xốp, muốn mai mối cho các “giáo sư, viện sĩ” đã “mồ côi vợ” ấy mỗi người một thục nữ đảm đang để nâng khăn sửa túi trong cuộc sống làm thợ bánh vất vả! Song, khi tôi đến lò bánh xốp ấy thì thật bất ngờ: tất cả nhóm năm con giáp trên tức Sửu, Dần, Mão, Thìn và Tỵ đều đã được vợ chồng chủ lò bánh cưới cho mỗi người một người vợ thôn nữ miệt vườn thứ thiệt, còn “Din” trăm phần trăm và mỗi người đã có một con. Còn nhóm sáu người phần dưới 12 con giáp tức Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất và Hợi thì cả ba cặp đã chính thức bái đường thành thân, mỗi cặp cũng đã có con cái xinh xắn, bụ bẫm! Lò bánh đã phát triển không ngờ, ông chủ đã mua lại căn hộ kế cạnh, xây bốn tầng lầu để phát triển cơ sở sản xuất và có chỗ ở cho cả năm cặp vợ chồng nhóm năm con giáp phía trên (sáu người nhóm con giáp phía dưới thì ở nhà thuê gần cơ sở lò bánh). Khi nhìn những người thợ bánh đang làm việc, tôi thấy không khí của xưởng bánh thật chuyên nghiệp và trên từng gương mặt đều lộ rõ niềm vui lao động say mê, có người còn vừa làm vừa hát, thi thoảng lại có người kể chuyện tiếu lâm và mọi người cười hưởng ứng như pháo ran! Ông chủ lò bánh nói với tôi: “Bây giờ tất cả đều rất an tâm và say mê làm việc, coi lò bánh là nhà, không muốn chuyển đi đâu cả!”. Mặc dù đã “mục sở thị”, tôi vẫn chưa tin là những “giáo sư”, “viện sĩ” kia sẽ gắn bó hết đời với lò bánh, liền đến bên Sửu, người đã từng lấy bằng Tiến sĩ Toán ở MGU (Đại học Tổng hợp Quốc gia Matxcơva, mang tên nhà bác học Lômônôxốp nên còn gọi là trường Đại học Tổng hợp Lômônôxốp) để “phỏng vấn” xem sao thì Sửu nhìn tôi cười rạng rỡ rồi cất tiếng hát bài “Cuộc sống ơi, tôi mến yêu người” bằng tiếng Nga: Я люблю тебя, жизнь Что само по себе и не ново, Я люблю тебя, жизнь Я люблю тебя снова и снова… Rồi bằng tiếng Việt:
Cả tình yêu trao cuộc sống
Mãi mãi ta mến yêu người tình yêu thắm nồng. Cả tình yêu trao cuộc sống Mãi mãi ta hiến dâng người tình yêu thiết tha.Đèn rực sáng trên tầng cao Là khi ta chân khẽ đưa thong thả bước về. Ta càng thấy yêu con người Mong cuộc sống ta mỗi ngày sẽ tươi thắm hơn… Kìa trời khuya chim rộn hót Những bóng đêm đang tan dần bình minh thức dậy. Từ lòng ta, ngon lửa cháy Hỡi trái tim của con người thèm sống khác xưa. Một ngày mới vẫy chào ta. Bạn đời ơi ta muốn dâng ngọn lửa cháy này Cho cuộc sống bao vui buồn.
Xin hạnh phúc, dẫu muộn màng sẽ đến với ta…
Nghe Sửu hát say sưa, tôi lẩm nhẩm hát theo từ lúc nào (sở dĩ tôi thuộc bài này vì có anh bạn thời lính Ra-đa tên Võ Trí Tâm, sau có đi học ở Nga về, thường hay hát bài này lúc … chán đời). Sửu hát say sưa tới ba lần, tôi còn “phỏng vấn” gì nữa!
Khi tôi đi khỏi lò bánh xốp, ông chủ lò bánh tiễn tôi và nói: “Bất cứ lúc nào ông thích quay trở lại lò bánh, tôi và mọi người đều hoan nghênh!”. Tôi không nói gì vì còn phải chờ Bồ Tát hiển linh báo mộng! Sài Gòn, 16-5-2011
Đỗ Ngọc Thạch
GIÁ MỘT CÁI HÔN- Đỗ Ngọc Thạch
Truyện ngắn của Đỗ Ngọc Thạch
GIÁ MỘT CÁI HÔN
Hôn nhau là biểu hiện của tình yêu. Ông Kha biết như vậy. Thế mà cuộc đời ông đã sáu mươi nhăm tuổi rồi ông chưa hề hôn ai, ngay cả đối với vợ, người đàn bà gắn bó với ông suốt đời và ông yêu thương hơn ai hết. Vậy mà bây giờ, cái hôn ấy bỗng “từ trên trời rơi xuống” trúng ông, nó làm cho cuộc đời ông như có bão tố, nó làm ông buồn khổ vô cùng !...Ông đi lang thang trong thành phố đã vào đêm vắng, đi mãi như người mộng du. Chốc chốc, từng quãng thời gian của quá khứ lại hiện về rõ mồn một …
***
Ông Kha thuộc dòng dõi lực điền chất phác . Ở làng ông, khi nói về gia đình ông, người ta đều hình dung hình ảnh những người thợ cày khỏe mạnh, hiền lành và tốt bụng. Riêng về chuyện “nam nữ”, dòng họ nhà ông nổi tiếng “lành như bụt”. Suốt cuộc đời ông cho đến lúc ấy, ông Kha không bao giờ đứng nói chuyện riêng với một người khác giới ở chỗ vắng, nhất là đêm hôm tối trời. Ông lấy vợ là do người ta mai mối, cha mẹ định liệu. Cho đến lúc cưới vợ, ông chưa hề đứng nói chuyện riêng với cô dâu tương lai chứ đừng nói đến chuyện cầm tay nhau rồi hôn nhau ! Đêm tân hôn, ông “nhát” đến nỗi không dám nằm sát vào vợ. Mỗi khi có cảm giác vợ đụng vào người mình, ông lại xịch ra mép giường đến nỗi ngã xuống đất lúc nào không hay !
Sau này, có con rồi ông cũng không bao giờ hôn vợ, ông thấy nó thế nào ấy! Nhiều lúc ông cứ nghĩ lẩn thẩn:”Tại sao người ta lại thích hôn nhau nhỉ? Mất vệ sinh quá! Nghe nói người ta còn hôn cả “cái ấy” của nhau nữa, thật là kinh khủng!”. Ông Kha có thói quen giữ sạch răng miệng từ bé: xúc miệng nước muối, đánh răng thường xuyên ngày ba lần sau bữa ăn. Vì thế, hàm răng ông cho đến bây giờ vẫn trắng bóc và đều tăm tắp!
Lấy vợ được gần một năm thì ông đi bộ đội, lăn lộn hết chiến trường này đến chiến trường khác, hết thời đánh Pháp qua thời đánh Mỹ. Hơn bốn mươi năm chiến đấu, ông trở về với quân hàm đại tá và cái ba lô gọn gàng như ngày nhập ngũ. Vợ ông đã già, con cái đã lớn và đều đi làm ăn ở xa cả, vì quê ông làm nông nghiệp quần quật quanh năm mà vẫn không đủ ăn. Hai vợ chồng già ở với nhau được gần một năm thì số tiền ông nhận được lúc giải ngũ cũng vừa hết. Hai vợ chồng ông bàn tính nát nước mà chưa ra kế sách gì để sống nốt quãng đời còn lại thì ông Kha nhận được thư của ông Khái, người bạn đời lính rất thân thiết của ông, mời vợ chồng ông ra thành phố làm việc trong cơ sở sản xuất đồ nhôm của ông Khái. Vợ chồng ông Kha đi liền.
Cơ sở sản xuất đồ nhôm gia dụng của ông Khái hoạt động đã được ba năm, đặt địa điểm ở một khu đất khá rộng vùng ngoại vi thành phố. Lực lượng sản xuất chủ yếu là anh em thương binh, bộ đội giải ngũ, làm ăn nghiêm chỉnh và chịu khó nên có uy tín với khách hàng và nhanh chóng phát triển, thu nhập cao. Ông Khái giao cho ông Kha chức “Phó” chuyên trách công việc “đối nội” ở xưởng, còn ông Khái phải lo đi “đối ngoại”, thăm dò thị trường, ký kết những hợp đồng mới với các tỉnh lân cận. Vợ ông Kha thì lo cơm nước cho anh em thợ bữa trưa. Lương của hai vợ chồng tương đương với một giám đốc công ty hạng trung, cũng dư sống, còn có thể chi viện cho con cháu lúc khó khăn. Chỗ ở của vợ chồng ông là một căn phòng giản dị nhưng đầy đủ tiện nghi ở một góc trong cơ sở sản xuất. Nói chung, cuộc sống của vợ chồng ông Kha đã đi vào ổn định, đàng hoàng. Ông Kha chấp nhận cuộc sống như vậy và ông nghĩ sẽ gắn bó với cái cơ sở sản xuất nhôm này cho đến lúc sang thế giới bên kia . Hai năm trôi qua êm đẹp. Vợ chồng béo khỏe hẳn ra, nhất là vợ ông càng già càng đẹp lão : cơ thể gọn gàng, cân đối, mặc đồ đẹp vào, nhìn từ xa có người tưởng lầm là người mẫu thời trang !...
Những lúc rảnh rỗi ngồi xem ti-vi với nhau, một lần, chợt bà Kha nói :
- Này ông Kha ! Trên ti-vi, người ta hôn nhau nhiều thế ! Vậy mà ông chưa bao giờ hôn tôi cả !
- Bà này, già rồi mà còn nói vớ vẩn ! Bà làm sao thế ?
- Tôi chẳng làm sao cả ! nhưng mà…
- Nhưng mà sao ?
- Nhưng mà tôi nghe nói người ta yêu nhau là phải hôn nhau ! Mà ông thì chưa bao giờ hôn tôi ! Hay ông không yêu tôi !
- Tôi không yêu bà ? Không yêu bà mà vợ chồng hòa thuận sống với nhau đến tận bây giờ ? Bà cứ nói linh tinh. Người ta cười cho đấy !
- Cười hở mười cái răng ! Người ta cười mặc kệ người ta ! Tôi cứ thắc mắc tại sao ông không bao giờ hôn tôi ?
Vợ chồng lấy nhau đã hơn bốn mươi năm, tiếng là như vậy mà sống với nhau được bao nhiêu đâu ! Ông đi biền biệt, vậy mà mỗi khi về phép, ông cứ nhìn tôi dửng dưng như không !...
- Thế bà muốn tôi phải thế nào ? Về là ôm chầm lấy bà mà hôn như trên ti-vi à ? Tôi không quen thế ! Thôi, đừng nói chuyện vớ vẩn ấy nữa !
- Vớ vẩn cái gì ? Ông vô tâm lắm! Tôi khổ với ông lắm !
- Khổ cái gì ? Bà điên rồi ! Thôi, tôi không nói chuyện với bà nữa !
Nói rồi ông Kha đứng dậy, bỏ đi. Nhưng bà Kha đã ôm mặt khóc hu hu, khiến ông lúng túng không biết làm thế nào ! Ông Kha đi lại gần bà, nói :
- Thế bây giờ tôi hôn bà nhé ?
- Ông cút đi ! – Bà Kha vừa nói vừa đẩy ông ra – Tôi ghét ông lắm ! Ông cút đi !
Ông Kha thấy vậy liền đi ra ngoài. Bà Kha bật khóc nức nở, thổn thức ! Ông Kha đi lại bồn chồn ngoài sân, không biết làm thế nào ! Giá như có ai đó mách cho ông rằng : “Ông hãy vào an ủi âu yếm bà ấy đi ! Ông hãy hôn bà ấy đi ! Bà ấy rất cần ông chứ không phải đuổi ông đi đâu !
Ở đời không ai biết được chữ “ngờ”. Câu ấy lúc nào cũng đúng, ở mọi lĩnh vực. Cơ sở sản xuất nhôm gia dụng của ông Khái đang ăn nên làm ra như thế, những tưởng sẽ phát triển thành một công ty tư nhân lớn, ai ngờ lại bê bết và có nguy cơ sập tiệm ! Mà nguyên nhân của nó lại rất vớ vẩn ! Đầu đuôi như sau :
Cậu Khải, con ông Khái, một cánh tay đắc lực của bố và sẽ kế nghiệp bố đưa cái cơ sở nhôm này lên tới đỉnh cao. Còn trẻ, nhưng cậu Khải đã có dấp dáng của một ông chủ cỡ bự . Chính vì vậy, cậu Khải cũng muốn như một số ông chủ khác : phải lấy vợ đẹp, cỡ hoa hậu ! Và cậu đã lén bố tài trợ cho cuộc thi “Hoa hậu Đồng quê” - ứng cử dự thi phải là thôn nữ đồng quê trăm phần trăm. Với số tiền tài trợ lớn, cậu có chân trong ban giám khảo, tất nhiên ! Có chân trong Ban giám khảo, cậu làm quen và trở thành người tình của Hoa hậu, đương nhiên ! Đúng ngày cưới của cậu Khải với Hoa hậu đồng quê thì xảy ra việc động trời : Hoa hậu đồng quê, cô dâu chẳng thấy ra mắt khách khứa của đám cưới mà đã ẵm gọn toàn bộ số tiền trong két của cơ sở sản xuất nhôm lặn mất tiêu ! Nhận được tin này, cậu Khải – chú rể hụt, còn chưa hết bâng khuâng bởi cái hôn hụt hơi với Hoa hậu đồng quê ngày hôm trước, cho nên chưa kịp rụng rời chân tay thì lại được thông báo tiếp : Cái cô nàng đã đoạt vương miện Hoa hậu đồng quê ấy chẳng phải là thôn nữ gì cả mà là “tiếp viên” của một khách sạn Mi-ni chuyên phục vụ nước ngoài đã năm năm nay và có tên trong danh sách mật của Ủy ban phòng chống Si-đa ! Nghe đến đây thì cậu Khải, chú rể hụt, ông chủ tương lai không chịu nổi sức công phá dữ dội của tấn bi hài kịch đã phát điên, đập phá la hét ầm ĩ, kiến ông Khái phải cắn răng đến bật máu mà đưa cậu vào bệnh viện.
Sau sự cố đó khoảng một tuần, ông Khái tuyên bố giải thể cơ sở sản xuất nhôm, thanh lý toàn bộ tài sản còn lại. Ông Khái để lại căn nhà cho vợ chồng ông Kha ở còn mình đưa vợ con lên vùng Bảo Lộc (Lâm Đồng) sống bằng nghề trồng dâu nuôi tằm – cái nghề từ xa xưa dòng họ nhà ông đã làm nên cơ nghiệp không nhỏ. Trước khi đi Bảo Lộc, ông Khái nói với ông Kha : “Có người bảo mệnh tôi khắc kim, đụng vào cái anh sắp thép thế nào cũng mắc nạn, quả không sai. Nay tôi lên trước, công việc làm ăn mà khấm khá thì sẽ đón vợ chồng ông lên, ở với nhau cho vui lúc tuổi già này. Trước mắt, với số vốn tạm đủ mà vợ chồng ông có, ông nên mở quán nước sống tạm!...” . Hai người bịn rịn chia tay nhau, tình cảnh thật xúc động!...
* * *
Nghĩ ngợi nhiều về chuyện tan vỡ của cơ sở nhôm, bà Kha sinh bệnh, suốt ngày nằm bệt ở nhà. Quán nước chưa mở đã dẹp, tiền thuốc thang cho bà Kha quá tốn kém, số tiền dành dụm được đã gần cạn. May mà ông Kha gặp lại một cậu lính cùng đơn vị cũ, hiện đang làm đội trưởng bảo vệ cho một khách sạn lớn, xin cho ông làm một chân trong đội bảo vệ, công việc cũng không vất vả gì, lương cũng khá. Ngày ngày, ông Kha đi làm, tối về lại thuốc thang chăm sóc vợ. Khi ông Kha hết sạch tiền thì cũng tới ngày nhận lương. Ông nghĩ thầm trong bụng rằng trời cũng còn thương vợ chồng ông .
Hôm ấy trên đường từ khách sạn về nhà, ông đã gặp một chuyện bất ngờ :
Lúc ấy, trời đã sập tối. Đi tới một quãng phố vắng, ông bỗng nghe có tiếng gọi từ một gốc cây ven đường :
- Bố !...Bố Kha !
Chiếc xe đạp mi – ni của ông Kha chưa kịp dừng lại thì từ gốc cây, một cô gái chạy ra, giữ lấy ghi-đông và nói rối rít :
- Bố Kha ! Bố đi đâu đấy ? Bố có nhớ con không ?
- Tình đấy à ? Cháu làm gì ở đây thế ?
- Bố ơi, từ ngày cơ sở nhôm giải thể, con chẳng kiếm được việc làm ở đâu cả ! Con phải ra đây…(khóc)
- Cháu làm gì ở đây ? Sao lại khóc ?
- Con phải ra đây đi khách ! Khổ lắm bố ơi, có hôm chẳng được đồng nào !
- Đi khách là gì ?
- Dạ, đi khách là làm tình với người ta ấy ! (khóc)
- Trời đất ! Thế cháu làm gái điếm à ? Sao lại thế ?
- Dạ…con khổ lắm bố ơi ! Tiền nhà không đủ nạp, chủ nhà đòi đuổi ra đấy ! Mà con còn mẹ già, em nhỏ ở nhà quê nữa, khổ lắm ! Bố thương con đi, con sẽ đội ơn bố suốt đời ! (khóc)
- Thôi đừng khóc nữa ! Bố mới lĩnh lương bảo vệ đây, được bốn trăm ngàn, bố cho con một nửa ! Con về quê với mẹ mà làm ruộng, đừng ở đây nữa !...
Ông Kha móc túi túi lấy ra gói tiền, đưa cho cô gái một nửa rồi định đạp xe đi. Nhưng cô gái cứ nắm chặt lấy tay ông, khiến ông phải đứng xuống hè đường. Cô gái dắt xe dựa vào gốc cây đoạn kéo ông vào khuất phía trong, ôm ghì lấy ông . Cô gái làm nhanh quá, khiến ông Kha không kịp phản ứng gì, đến khi thấy cô gái ôm ghì lấy mình thì hoảng sợ , đẩy cô gái ra, nói :
- Cháu làm gì thế, Tình ?
- Bố ! Con cám ơn bố ! Nhưng con đâu lấy tiền không của bố ! Bố tốt với con thì con lại càng thương bố !
Cô gái vừa nói vừa riết lấy cơ thể ông Kha, rồi cặp môi mọng nước, nóng hổi của cô gắn chặt vào mồm ông khiến ông bủn rủn cả chân tay…
Đến khi ông Kha bình tâm trở lại thì ông không thấy cái cô bé Tình ấy đâu nữa ! Cả cái xe mi-ni của ông cũng không còn dựa ở gốc cây nữa ! Ông giật mình bừng tỉnh, vội đưa tay vào túi quần sau. Ông run lên bần bật ! Trời ơi, gói tiền còn hai trăm ngàn đồng của ông đã biến mất ! Ông bỗng thấy miệng đắng ngắt rồi chợt như nhớ đến cái hôn của cô gái Tình, ông hét lên một câu gì đó rồi nôn thốc nôn tháo…
***
Cuộc sống của ông Kha và bà vợ đang bệnh sẽ rất bi đát nếu như không có sự xuất hiện rất đúng lúc của ông Khái. Ông Khái lên Bảo Lộc đúng như câu thành ngữ “Hổ về rừng”, cơ sở sản xuất chè “Thiên Lộc” của ông phát triển không ngờ, ông chuẩn bị thành lập Công ty TNHH Thiên Lộc thì nhớ đến người bạn già thật thà tốt bụng là ông Kha và đích thân về thành phố đón bạn. Cuộc hội ngộ thật xúc động và tràn ngập niềm vui…Đúng là ở hiền gặp lành! Lúc ngồi trên xe đi Bảo Lộc rồi, ông vẫn không quên được “cái hôn quái quỷ” của cô gái tên Tình, và ông có cảm giác như buồn nôn! Ông Khái thấy vậy thì nói:”Này, ông đã từng là Tư lệnh phó Lữ đoàn tăng thiết giáp mà mới ngồi lên xe đã buồn nôn là cớ làm sao?”. “Cớ làm sao ư? – ông Kha nghĩ thầm – Ông Khái sẽ không bao giờ hiểu được đâu! Đó là cái “Gót chân A-sin” của tôi đấy! Đến chết tôi sẽ không hôn bất cứ ai và sẽ không bao giờ có ai hôn được tôi!...”.
TP.HCM, l989-2009
Đỗ Ngọc Thạch
Phongdiep.net
Sốc với ảnh Diệp Lâm Anh ... |
Xem thêm:
THÂN GÁI DẶM TRƯỜNG - PHONGDIEP.NET :: PHONGDIEP.NET
Ông đốt đi (Nhật kí nhân viên văn phòng - truyện ngắn của Phong Điệp) ... THÂN GÁI DẶM TRƯỜNG - Tiểu thuyết mini của Đỗ Ngọc Thạch (tiếp theo và hết) ...THÂN GÁI DẶM TRƯỜNG - PHONGDIEP.NET :: PHONGDIEP.NET
THÂN GÁI DẶM TRƯỜNG - Tiểu thuyết mini của Đỗ Ngọc Thạch (chương 1- 3 ...Đỗ Ngọc Thạch (SG, 2010)
2. ĐỊA LINH NHÂN KIỆT
9.TƯỢNG NHÀ MỒ 10.CHUYỆN MỘT NHÀ BÁO
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét